MỞ ĐẦU
Nghiên cứu khoa học giáo dục là một nhu cầu khẩn thiết để xây dựng
cơ sở lý luận dẫn đường cho cải cách giáo dục, cũng như để thu thập và phân
tích thơng tin làm cơ sở cho những quyết sách về giáo dục. Thiếu nghiên cứu
khoa học giáo dục sẽ không tránh khỏi cách làm “thử và sai” mà nhiều khi cái
giá phải trả khơng thể tính bằng tiền mà phải tính bằng đời người, tính bằng
nhiều thế hệ và tương lai của quốc gia.
Có thể ví vị trí của khoa học giáo dục trong nền giáo dục quốc dân
cũng như y học trong y tế. Hoạt động giáo dục sẽ đi lệch hướng nếu thiếu cơ
sở khoa học, các quan điểm phát triển giáo dục khơng có luận cứ chắc chắn,
hoặc số phát triển của nó khơng tuân theo một quy luật khách quan. Hiện
trạng giáo dục nước ta đang được đánh giá từ nhiều quan điểm khác nhau,
khiến cho ngay cả những người làm giáo dục cũng hoang mang về chất lượng
giáo dục, về chương trình - sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy...
Những vấn đề trên đã phản ánh một thực tế là nhiều người có thể chưa hiểu
đầy đủ về khoa học giáo dục cũng có thể đánh giá, nhận xét về giáo dục từ
các góc nhìn khác. Đối với các nhà quản lí giáo dục (quản lí trường học, cơ
quan nghiên cứu giáo dục...) cần hiểu được các quy luật của khoa học giáo
dục để quản lí, điều hành và thực chất cần có tri thức cơ bản về khoa học quản
lí giáo dục - một chuyên ngành đang được quan tâm trong đào tạo và nghiên
cứu hiện nay.
Khoa học giáo dục nghiên cứu các lĩnh vực giáo dục rất đa dạng, phạm
vi rất khác nhau từ giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội. Về cấp độ từ thấp
đến cao, ở các cấp học, trình độ khác nhau; các lĩnh vực chuyên ngành hẹp
hoặc liên ngành. Nghiên cứu khoa học giáo dục chính là sự phát hiện ra các
quy luật hay tính quy luật của hoạt động giáo dục ở nhiều mức độ khác nhau.
1
Tri thức khoa học giáo dục, kĩ năng khoa học giáo dục có tầm quan trọng đặc
biệt đối với nhũng người 1àm cơng tác giáo dục trong ngành và ngồi ngành.
Có thể nói từ việc hoạch định chính sách vĩ mô, các kế hoạch chiến lược giáo
dục của các nhà nghiên cứu ở tầm quốc gia đến việc thực hiện các thao tác
dạy học cụ thể đều cần thiết phải sử dụng tri thức khoa học giáo dục. Đối
tượng của khoa học giáo dục là quá trình giáo dục con người,
q trình này diễn ra vơ cùng phức tạp bởi bản chất của nó là
q trình hình thành và phát triển nhân cách. Do đó, nhiệm
vụ phát hiện ra các quy luật của q trình này để điều chỉnh
nó, để thúc đẩy sự phát triển nhanh hơn là một việc rất khó
khăn địi hỏi phải huy động nhiều cơng sức, trí tuệ, thời gian.
Phương pháp nghiên cứu khoa học rèn luyện cho người nghiên
cứu thói quen tư duy một cách chặt chẽ, chính xác, khoa học,
khả năng phê phán, suy luận, tính tự tin,...; kỹ năng làm việc
theo phương pháp của nghiên cứu khoa học; xây dựng được
phương pháp tư duy lơgíc trong hoạt động nghiên cứu khoa
học và thực tiễn. Chính vì vậy việc nghiên cứu các mục đích
sử dụng của các loại hình nghiên cứu khoa học như: nghiên
cứu mơ tả, nghiên cứu giải thích, nghiên cứu dự báo, nghiên
cứu giải pháp là vấn đề cần thiết trong công tác nghiên cứu
khoa học giáo dục hiện nay.
2
NỘI DUNG
Nghiên cứu khoa học giáo dục là một hoạt động nghiên
cứu khoa học đặc thù trong lĩnh vực giáo dục. Nó là một hoạt
động có tính hệ thống, xuất phát từ khó khăn trong hoạt động
giáo dục hay từ nhu cầu nhận thức hoạt động giáo dục nào
đấy, cố gắng hiểu biết nhằm tìm ra được cách giải thích sâu
sắc về cấu trúc và cơ chế cùng biện chứng của sự phát triển
của một hệ thống giáo dục nào đó hay nhằm khám phá ra
những khái niệm, những qui luật mới của thực tiễn giáo dục
mà trước đó chưa ai biết đến.
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học giáo dục là những
hiểu biết mới về hoạt động giáo dục (những chân lý mới,
những phương pháp làm việc mới, những lý thuyết mới, những
dữ báo có căn cứ). Nghiên cứu có nghĩa là tìm tịi: người
nghiên cứu đi tìm cái mới (đã có trong thực tiễn hay tạo ra
trong những kinh nghiệm có hệ thống và tập trung). Theo
nghĩa đó, một cơng trình chỉ tập hợp các thơng tin đã có sẵn
khơng phải là một sản phẩm của nghiên cứu khoa học. Vì vậy
các sản phẩm nghiên cứu khoa học được xác định và phân
loại theo chức năng nghiên cứu của vấn đề.
1. Loại hình nghiên cứu mơ tả
Mơ tả một sự vật là sự trình bày bằng ngơn ngữ hình ảnh
chung nhất của sự vật, cấu trúc, trạng thái, sự vận động của
sự vật. Nghiên cứu mô tả (Descriptive research): nhằm đưa ra một hệ thống
tri thức giúp con người phân biệt các sự vật, hiện tượng xung quanh; bao gồm
3
mơ tả định tính và mơ tả định lượng, mơ tả một sự vật, hiện tượng riêng lẽ
hoặc so sánh giữa nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau.
Mục đích của mô tả là đưa ra một hệ thống tri thức sự
vật, giúp cho con người có một cơng cụ nhận dạng thế giới,
phân biệt được sự khác biệt về bản chất giữa một sự vật này
với một sự vật khác. Nội dung mơ tả bao gồm:
• Mơ tả hình thái bên ngồi của sự vật, từ hình thể và
trạng thái vật lí đến hình thức tồn tại xã hội đến các trạng thái
tâm lí, xã hội và chính trị của sự vật.
• Mơ tả cấu trúc của sự vật, tức là mô tả các bộ phận cấu
thành và mối liên hệ nội tại giữa các bộ phận cấu thành đó, ví
dụ, mơ tả cơ cấu của một hệ thống khái niệm, cơ cấu của một
hệ thống kỹ thuật, cơ cấu xã hội, cơ cấu kinh tế, cấu trúc vật lí.
• Mơ tả động thái của sự vật trong q trình vận động, ví
dụ, xu thế biến động của một hệ thống giáo dục, quá trình
trưởng thành của một sinh vật, q trình phát triển của một
cơng nghệ.
• Mơ tả tương tác giữa các yếu tố cấu thành sự vật,
chẳng hạn, tương tác giữa các yếu tố của một hệ thống kỹ
thuật, tương tác giữa hai ngành kinh tế, tương tác giữa hai
nhóm xã hội.
• Mơ tả các tác nhân gây ra sự vận động của sự vật,
chẳng hạn động cơ hoạt động của con người, động lực khởi
động của một hệ thống kỹ thuật, ngịi nổ cho một q trình
biến động kinh tế hoặc xã hội,...
4
• Mô tả những hậu quả của các tác động vào sự vật, ở
đây, có những hậu quả dương tính (tích cực), có những hậu
quả âm tính (tiêu cực) và có cả những hậu quả ngồi ý muốn
(hậu quả ngoại biên); trong hậu quả ngoại biên, cũng tồn tại
cả hậu quả dương tính và âm tính.
• Mơ tả các quy luật chung chi phối quá trình vận động
của sự vật. Đó là những liên hệ bản chất, có tính lặp đi lặp lại
trong quá trình hình thành, vận động và biến đổi của sự vật.
• Mơ tả định tính và định lượng. Mơ tả định tính nhằm
chỉ rõ các đặc trưng về chất của sự vật. Mô tả định lượng
nhằm chỉ rõ các đặc trưng về lượng của sự vật.
Ví dụ: trong cơng trình nghiên cứu “Giáo dục ở Việt
Nam: Phân tích các chỉ số chủ yếu” báo cáo chuyên khảo đã đưa ra
một bức tranh khái quát về thực trạng giáo dục ở Việt Nam và mối tương
quan giữa giáo dục với biến động dân số, nhằm mô tả xu hướng biến đổi
theo thời gian của cả nước, các vùng kinh tế - xã hội và các tỉnh/thành phố
cũng như phân tích một số mối tương quan để tìm ra những ảnh hưởng
của biến động dân số và kinh tế-xã hội tới sự phát triển giáo dục. Mục tiêu
cụ thể của chun khảo như sau: 1. Mơ tả tình hình giáo dục của Việt
Nam qua số liệu mẫu 15% của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009. 2.
Đánh giá sự phát triển của giáo dục trong 20 năm qua, qua số liệu của 3
cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở gần đây 1989, 1999 và 2009. 3. Phân
tích tình hình giáo dục qua một số đặc trưng kinh tế - xã hội và nhân khẩu
học như: tình trạng di cư, tình trạng giàu nghèo của hộ gia đình, nơi cư trú
là thành thị hay nơng thơn, nhóm dân tộc và giới tính. 4. Phân tích mối
5
tương quan giữa một số chỉ tiêu giáo dục với sự biến động về dân số (biến
động về di cư, mức sinh).
2. Loại hình nghiên cứu giải thích
Giải thích một sự vật là sự làm rõ nguyên nhân dẫn đến
sự hình thành và quy luật chi phối quá trình vận động của sự
vật. Nghiên cứu giải thích (Explanatory research): nhằm làm rõ các qui luật
chi phối các hiện tượng, các q trình vận động của sự vật. Mục đích của
giải thích là đưa ra những thơng tin về thuộc tính bản chất
của sự vật để có thể nhận dạng khơng chỉ những biểu hiện
bên ngồi, mà cịn cả những thuộc tính bên trong của sự vật.
Nội dung của giải thích có thể bao gồm:
Giải thích nguồn gốc xuất hiện sự vật, chẳng hạn, nguồn
gốc hình thành vũ trụ, động lực phát triển của xã hội, động cơ
học tập của học sinh.
Giải thích hình thái bên ngồi của sự vật, từ hình thể và
trạng thái vật lý đến hình thức tồn tại xã hội đến các trạng
thái tâm lý, xã hội và chính trị của sự vật.
Giải thích cấu trúc của sự vật, tức là mô tả các bộ phận
cấu thành và mối liên hệ nội tại giữa các bộ phận cấu thành
đó, ví dụ, mơ tả cơ cấu của một hệ thống khái niệm, cơ cấu
của một hệ thống kỹ thuật, cơ cấu xã hội, cơ cấu kinh tế, cấu
trúc vật lý, cấu trúc hệ thống giáo dục, cấu trúc cơ chế của
q trình dạy học
Giải thích động thái của sự vật trong q trình vận động,
ví dụ, xu thế biến động của một hệ thống giáo dục, quá trình
6
trưởng thành của một sinh vật, quá trình phát triển của một
cơng nghệ.
Giải thích tương tác giữa các yếu tố cấu thành sự vật,
chẳng hạn, tương tác giữa các yếu tố của một hệ thống kỹ
thuật, tương tác giữa hai ngành kinh tế, tương tác giữa hai
nhóm xã hội.
Giải thích các tác nhân gây ra sự vận động của sự vật,
chẳng hạn động cơ học tập của học sinh, động lực khởi động
của một hệ thống kỹ thuật, ngòi nổ cho một quá trình biến
động kinh tế hoặc xã hội.
Giải thích những hậu quả của các tác động vào sự vật, ở
đây, có những hậu quả dương tính (tích cực), có những hậu
quả âm tính (tiêu cực) và có cả những hậu quả ngoài ý muốn
(hậu quả ngoại biên); trong hậu quả ngoại biên cũng tồn tại
cả hậu quả dương tính và âm tính.
Giải thích các quy luật chung chi phối q trình vận động
của sự vật. Đó là những liên hệ bản chất, có tính lặp đi lặp lại
trong quá trình hình thành, vận động và biến đổi của sự vật.
Thực hiện chức năng giải thích, khoa học đã nâng tầm từ
chức năng mô tả đơn giản các sự vật tới chức năng phát hiện
quy luật vận động của sự vật, trở thành công cụ nhận thức
các quy luật bản chất của thế giới.
Ví dụ: Hiện nay, các trường phổ thơng đang phải đối mặt
với tình trạng học sinh chán Sử, ghét Sử. Đó là một thực tế
đáng suy ngẫm. Làm sao để biến giờ Sử khô khan thành một
giờ học hấp dẫn, cuốn hút, khiến học sinh yêu thích mơn học
này là trăn trở có lẽ khơng chỉ của giáo viên môn Lịch sử. Với
7
đề tài “Một số lý do khiến học sinh không thích mơn Lịch
sử ở trường THPT” với các nghiên cứu khoa học tác giả đã lý
giải được Học sinh không thích học mơn lịch sử vì cho rằng đó
chỉ là môn phụ không quan trọng, nội dung kiến thức quá dài,
khó nhớ, nhiều sự kiện, đó là nguyên nhân dẫn đến môn Sử
không thu hút được sự hứng thú học tập của các em. Phụ huynh
thì cho rằng học Sử khơng thực tế, ra trường khó xin việc. Với
chức năng nghiên cứu giải thích tác giả đã làm rõ nội hàm của
những vấn đề trên.
Thứ nhất, quan trọng hàng đầu và trước tiên là sự đối xử
không công bằng đối với mơn Lịch sử trong chương trình
giảng dạy của hệ thống giáo dục phổ thông, trong khi chúng
ta đều biết và đều coi Tốn, Lí, Hóa,Văn, Sử, Địa là những
mơn khoa học có vị trí vai trị ngang nhau ở các cấp học phổ
thơng thì thời gian học mơn Lịch sử chỉ được bố trí từ 1-1,5
tiết/tuần trong khi mơn Văn, Toán là 4 đến 5 tiết/tuần. Hay là
trong nhà trường hạn chế tối đa mơn Tốn, Văn có tiết 5 trong
mỗi buổi học thay vào đó là mơn Sử, GDCD…Sự đối sử bất
bình đẳng đó kéo dài trong nhiều năm dần dà làm nảy sinh
trong thầy cô và học trò một lối ứng xử ngầm phi văn bản là
xem môn Sử là môn học phụ.
Thứ hai, ảnh hưởng rất lớn đến việc học môn Lịch sử
giảm sút là chế độ thi cử. Các trường Đại học quân sự trước
đây bắt buộc thi môn Lịch sử, những năm gần đây đã bỏ hẳn.
Các trường Đại học An Ninh ngày trước cũng bắt buộc thi mơn
Lịch sử giờ đây chỉ cịn một ít chỉ tiêu khối C cịn lại nhường
chỗ cho khối A. các trường Luật, Báo chí, Văn Hóa trước đây
8
thi khối C hiện nay chỉ tiêu khối A, D cịn nhiều hơn. Chính vì
vậy qua tiếp xúc trao đổi với học sinh, tìm hiểu các em cũng
như các bậc phụ huynh tơi hiểu rằng: khơng phải các em
khơng thích học mà là không muốn học các môn khoa học xã
hội chứ khơng riêng gì mơn Lịch sử đơn giản chỉ vì các mơn
học này khơng phải là phương tiện để giúp các em kiếm sống
dễ dàng trong xã hội ngày nay.
- Thứ ba, có thể nói xuất phát chủ yếu từ 2 hiện tượng
trên. Đó là hầu hết giáo viên dạy môn Lịch sử cấp THCS đều
được đào tạo 2 chuyên môn như Văn - Sử; Sử - GDCD ... Chính
vì thế những giáo viên này đều chú trọng vào môn Ngữ văn.
Mặt khác thái độ “phân biệt” với mơn Lịch sử dẫn đến tiết dạy
ít được đầu tư nên khơng gây hứng thú với học sinh. Từ đó kết
quả bộ môn thấp là không thể tránh khỏi.
- Thứ tư, Cách viết sách giáo khoa môn Lịch sử hiện nay
chưa thực sự hấp dẫn với người học bời lối viết dài, cứng nhắc,
quá nhiều sự kiện.- Một nguyên nhân nữa khiến học sinh chưa
u thích học mơn Lịch sử là cơng tác tun truyền trong và
ngồi nhà trường chưa thực sự quan tâm mạnh mẽ. Đa số các
trường đều chưa tổ chức cho học sinh tham quan thực tế, các
buổi ngoại khóa tìm hiểu kiến thức lịch sử, do đó mà hầu hết
các em đều “quay lưng” với mơn học này.
3. Nghiên cứu dự báo
Dự báo một sự vật là sự nhìn trước quá trình hình
thành, phát triển và tiêu vong của sự vật, sự vận động và
trạng thái của sự vật trong tương lai. Nghiên cứu dự báo
(Anticipatory research): nhằm chỉ ra xu hướng vận động của các hiện
9
tượng, sự vật trong tương lai. Với những công cụ về phương pháp
luận nghiên cứu, người nghiên cứu thực hiện các dự báo
thường khi với độ chuẩn xác rất cao về các hiện tượng tự
nhiên và xã hội, chẳng hạn các hiện tượng thiên văn, kinh
tế, thậm chí, các biến cố xã hội và chính trị.
Ví dụ: “Luận văn Dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên tiểu
học huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2015” với các
nghiên cứu dự báo về định lượng, định tính, kết hợp với các
phương pháp thống kê, lấy ý kiến chuyên gia. Trên cơ sở lý
luận và nghiên cứu thực trạng giáo dục - đào tạo huyện Mê
Linh, nhằm dự báo nhu cầu đội ngũ giáo viên Tiểu học đến
năm 2015 và đề xuất một số biện pháp để phần nào đáp ứng
nhu cầu đó.
Với phương pháp sử dụng sơ đồ luồng tác giả đã cho
thấy được quy mô học sinh trong hệ thống giáo dục, với các
chỉ số về tỷ lệ nhập học đầu cấp 1, số học sinh lớp đầu cấp 1
qua từng giai đoạn, tác giả đã xây dựng được bảng dự báo
quy mô phát triển số lượng học sinh tiểu học trong khuôn khổ
nghiên cứu của đề tài.
Với phương pháp ngoại suy xu thế (theo thời gian).
Phương pháp này dựa vào số liệu quan sát được trong quá
khứ của đối tượng dự báo, cụ thể là tỷ lệ số học sinh Tiểu học
được huy động đến trường so với dân số trong độ tuổi và tỷ lệ
tăng dân số hàng năm, để thiết lập mối qua hệ giữa các đại
lượng đặc trưng cho đối tượng dự báo. Từ đó thiết lập bảng
thống kê dân số trong độ tuổi Tiểu học và tỷ lệ huy động học
10
sinh tiểu học. Với phương pháp này, số năm để tính càng dài
thì độ chính xác của dự báo càng cao.
4. Nghiên cứu giải pháp
Nghiên cứu giải pháp là loại chức năng nghiên cứu nhằm
làm ra một sự vật mới chưa từng tồn tại. Lịch sử phát triển
khoa học đã chứng tỏ, khoa học không bao giờ dừng lại ở
chức năng mơ tả, giải thích và dự báo. Sứ mệnh có ý nghĩa lớn
lao của khoa học là các giải pháp cải tạo thế giới.
Giải pháp được nói ở đây chứa đựng một ý nghĩa chung
nhất, bao gồm các phương pháp và phương tiện. Đó có thể là
ngun lý cơng nghệ mới, vật liệu mới, sản phẩm mới, một
phương pháp mới, song vẫn có thể là những giải pháp tác
nghiệp trong hoạt động xã hội; chẳng hạn, kinh doanh, tiếp
thị, dạy học, quản lý.
Luận văn “Vận dụng "phương pháp dạy học tích cực"
trong q trình dạy học mơn giáo dục học ở trường CĐSP Ngô
Gia Tự - Bắc Giang” là một đề tài như thế. Kết quả nghiên cứu
khoa học của đề tài lấy người dạy và thông tin làm trung tâm,
người thầy là nhân tố quyết định đến kết quả q trình học
của người học, là chun gia, cịn trò như một tờ giấy trắng,
thầy muốn viết, muốn vẽ gì là do thầy quyết định. Người học
chỉ học khi có q trình dạy của người thầy. Ngược lại, quản
điểm “lấy người học làm trung tâm”, người học lúc này là
nhân tố đóng vai trị quyết định kết quả của q trình dạy
học, Theo quan điểm lịch sử, đây chính là sự trả lại ví trí vốn
có từ thủa ban đầu của người học. trong quá trình dạy học,
11
người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy, vừa là chủ thể
tích cực, năng động của q trình học. Thông qua hoạt động
học, dưới sự hướng dẫn của thầy, trị tích cực chủ động và
sáng tạo trong tiếp thu kiến thức, kỹ năng và thái độ của
chính bản thân mình và qua đó hồn thiện nhân cách. Điều
này không ai thay thế người học được. Thông qua công trình
nghiên cứu khoa học sử dụng chức năng nghiên cứu giải
pháp, tác giả đề tài đã làm rõ những lợi ích của những giải
pháp đã đưa ra là phù hợp với giả thiết nghiên cứu của đề tài.
Bên cạnh đó tác giả cũng chỉ rõ, sự áp dụng những giải pháp
đã đặt ra này đòi hỏi chúng ta phải dạy và học như thế nào?
Với người học, các bạn cần hiểu rõ mình là ai và mình muốn là
người như thế nào, điều gì mình cần học và mình muốn học
cái gì. Với người dạy, mỗi thầy/cơ càng phải phấn đấu, tu
dưỡng nhiều hơn, tự học, tự sáng tạo nhiều hơn để xứng đáng
trong vai trò mới.
12
KẾT LUẬN
Không chỉ Việt Nam, mà nhiều nước trên thế giới cũng
khơng hài lịng về tình trạng hiện tại của hệ thống giáo dục
nước họ, và không ngừng tiến hành những cuộc cải cách. Hiện
có khoảng 50 quốc gia đang thực hiện những cải cách sâu
rộng trong lĩnh vực giáo dục, vì thực tiễn của kinh tế tri thức
và tồn cầu hóa đang diễn tiến nhanh đến mức các hệ thống
giáo dục hiện tại đều tỏ ra không bắt kịp những thay đổi
mạnh mẽ ấy. Một cường quốc giáo dục như Hoa Kỳ cũng đang
lo ngại vì tình trạng giáo dục xấu đi sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến kinh tế, đến mức tăng trưởng của họ trong tương lai.
Những nước đang đạt được những thành tích ấn tượng như
Trung Quốc chẳng hạn thì càng ra sức đầu tư cho giáo dục
bậc cao, vì họ hiểu rõ chính chất lượng của giáo dục sẽ bảo
đảm duy trì sức cạnh tranh của mình trong những năm sắp
đến.
Những nỗ lực cải cách giáo dục vừa đề cập trên là kết
quả từ những nghiên cứu nghiêm túc về khoa học giáo dục.
Có thể ví von rằng nghiên cứu về khoa học giáo dục là để
cung cấp dữ liệu cho bản vẽ thiết kế ngôi nhà giáo dục và là
để thiết kế ngôi nhà ấy. Tuy nhiên, tầm quan trọng của việc
nghiên cứu khoa học giáo dục không phải lúc nào hay ở đâu
cũng được nhận thức một cách đầy đủ, đúng mực.
Hơn ai hết những người làm cơng tác giáo dục phải chủ
động, tích cực trong nghiên cứu khoa học giáo dục, áp
dụng , đưa những thành quả của các cơng trình nghiên cứu
13
này đi vào thực tiễn giảng dạy ở chính nơi cơng tác của
mình.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] GS – TS. Nguyễn Văn Lê: Phương pháp luận NCKH,
Nxb trẻ 1995.
[2] PGS – TS. Lưu Xuân Mới : Phương pháp luận NCKH,
Nxb ĐHSP 2003.
[3] Lê Tử Thành: Lôgich học & Phương pháp luận NCKH,
Nxb trẻ 2006.
[4] PGS – TS. Phạm Viết Vượng: Phương pháp luận NCKH,
NxbGD 2004.
[5] Các tạp chí: Giáo dục, Khoa học giáo dục, Tâm lý học,
Dạy & học.
15