Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.44 KB, 60 trang )

MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong thời kỳ
quá độ lên CNXH(Chủ nghĩa xã hội) là một nội dung quan trọng trong đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nhân dân làm chủ thông qua hai
hình thức: dân chủ làm chủ thơng qua hai hình thức: dân chủ gián tiếp và dân
chủ trực tiếp, trong đó dân chủ trực tiếp có vai trị và ý nghĩa to lớn đối với
toàn bộ đời sống xã hội của đất nước thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH( công
nghiệp hoá, hiện đại hoá). Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ
VIII chỉ rõ: xây dựng nền dân chủ XHCN là một nội dung cơ bản của đổi mới
hệ thống chính trị ở nước ta… Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện
phương châm” dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ X khẳng định: Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực
của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn
bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đảng chủ trương phải đảy mạnh hơn
nữa việc thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở.
Phải làm cho nhân dân hiểu một cách thiết thực, cảm nhận dân chủ gần gũi,
gắn bó với cuộc sống hàng ngày của họ, để họ trực tiếp tham gia những vấn
đề ở chính nơi mình sống và làm việc. Cơ sở là nơi đông đảo nhân dân cư trú,
sản xuất, kinh doanh, lao động, học tập; là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vì vậy muốn thực hiện dân chủ
hóa xã hội, trước hết phải bắt đầu từ cơ sở. Thực hiện chủ trương ấy, ngày 18/
02/ 1998, Bộ chính trị đã ban hành Chỉ thị số 30_ CT/ TW về xây dựng và
thực hiện QCDC ở cơ sở. Chính phủ đã thể chế hóa Chỉ thị 30 thành các Nghị
định: Nghị định 29/ 1998/ NQ_ CP về thực hiện QCDC ở xã, phường, thị
trấn. Nghị định số 07/ 1999/ NĐ- CP về tổ chức thực hiện QCDC ở cơ quan;
Nghị định số 07/ 1999/ NĐ_ CP về việc ban hành QCDC ở doanh nghiệp nhà
nước . Do đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của nhân dân, quy chế đã


được triển khai ở thực hiện tốt ở hầu hết các địa phương tren cả nước, bầu


khơng khí dân chủ và ý thức chấp hành pháp luật được nâng lên, góp phần
thúc đẩy kinh tế xã hội, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng rõ nét
và sâu sắc hơn. Nhiều nơi thực hiện QCDC( quy chế dân chủ) đã đồng đều
hơn và đi vào nền nếp. Trong gần 6 năm thực hiện, Ban chỉ đạo QCDC trung
ương, chính pgur đã nhiều lần sơ kết đánh giá két quả triển khai thực hiện
QCDC trên phạm vi toàn quốc, uốn nắn những tồn tại, khuyết điểm, từng
bước hoàn thiện các văn bản để dân chủ trở thành đọng lực quan trọng thúc
đảy phát triển kinh tế, ổn định xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, đưa đất
nước hội nhập vào xu thế chung của khu vực và thế giới.
Công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo mà thực chất là sự nghiệp giải phóng và phát triển,trong đó phát triển
kinh tế được đặt lên hàng đầu, đã khách quan hóa vị trí, vai trị và tầm quan
trọng của vấn đề dân chủ và dân chủ hóa xã hội ở nước ta. Phát triển kinh tế
và dân chủ hóa xã hội là hai nội dung của một q trình giải phóng có quan hệ
biện chứng, phản ánh mối quan hệ kinh tế và chính trị, trong đó kinh tế làm
cơ sở, cịn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách về
kinh tế, chính trị, xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhờ vậy đã
đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ
Tổ quốc. Tuy nhiên quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm; tệ quan liêu,
mệnh lệnh, cửa quyền, sách nhiễu gây phiền hà cho dân, mà Đại hội lần thứ
VIII của Đảng coi là một trong những nguy cơ vẫn diễn ra phổ biến và
nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi và ngăn chặn một cách căn bản. Nhiều nội
dung dân chủ chưa được thể chế hóa thành pháp luật, những điều kiện đảm
bảo cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân chưa được thiết lập đầy
đủ.


Ở ngay cơ sở, nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương,chính sách của
Đảng và Nhà nước, nơi cần thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách

trực tiếp và rộng rãi nhất, nhiều khi bộ máy Đảng, chính quyền và đội ngũ cán
bộ lại xa cách, quan liêu, thậm chí dung quyền lực ức hiếp dân. Một số cơ sở
đã tự đặt ra những quy định phiền hà, tạo kẽ hở cho kẻ xấu nhũng nhiễu, vi
phạm quyền làm chủ của dân. Ngày 11- 5- 1998, chính phủ đã ra nghị quyết
số 29_ NQ/ CP về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã.
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã ra đời đã thể hiện năng lực, nhận thức
về giải quyết nhu cầu thực tiễn củ Đảng và Nhà nước, đồng thời đáp ứng khát
vọng sâu xa của nhân dân. Bởi vậy, mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, động lực bảo đảm cho thắng lợi của
cách mạng, của công cuộc đổi mới, vừa là mệnh lệnh của cuộc sống.
Trên cơ sở khảo sát, làm rõ thực trạng việc thực hiện QCDC ở xã trên
phạm vi cả nước, phát hiện nhứng vấn đề nảy sinh và đề xuất, kiến nghị
những giải pháp nhằm hoàn thiện QCDC để phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đề tài” thực
hiện QCDC ở cấp xã _ thực trạng và giải pháp” là một vấn đề vừa có tính cấp
bách vừa có tính lâu dài.
II. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi có QCDC, đã có khá nhiều tài liệu, cơng trình nghiên cứu về
vấn đề thực hiện QCDC. Trước hết đó là các tài liệu hướng dẫn, chỉ đạo, sơ
kết, tổng kết việc thực hiện QCDC của các cơ quan Đảng, các tổ chức, Nhà
nước và đoàn thể nhân dân. Tiêu biểu là cuốn Hướng dẫn triển khai QCDC ở
cơ sở của ban Tổ Chức chính phủ cán bộ chính phủ( 2001); các bản báo cáo
của Ban chỉ đạo thực hiện QCDC trung ương của Chính phủ, của Mặt Trận
Tổ Quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và các tổ chức đồn
thể khác, thơng qua các cuộc kiểm tra và sơ kết việc thực hiện QCDC vào các
năm 2000, 2001, 2003, 2004; đặc biệt là các báo cáo tại Hội nghị Tổng kết 6


năm thực hiện chỉ thị 30- CT/ TW của Bộ chính trị( khóa VIII) về xây dựng
và thực hiện

QCDC ở cơ sở ( tháng 9 năm 2004 )
Vấn đề thực hiện QCDC ở cơ sở thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước. Một số cơng trình nghiên cứu đi sâu nghiên
cứu những vấn đề lý luận dân chủ ở cơ sở và khỏa sát việc thực hiện QCDC ở
cấp xã, phường, tiêu biểu là; Quy chế dân chủ ở cơ sở( Trần Văn Sơn,
20000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã- một số vấn đề lý luận và thực
tiễn( Dương Xuân Ngọc, 2000), Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở ( Lương Gia Ban, 2003), Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính
quyền cấp xã ở nước ta hiện nay( Nguyễn Văn Sáu –Hồ Văn Thông, 2003)
Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi mới: thành tựu, vấn đề và giải
pháp( Phạm Ngọc Quang,2004)…Trên cơ sở khảo sát việc thực hiện QCDC
sau mấy năm đầu thực hiện, các cơng trình này đi sâu nghiên cứu thực trạng
thực hiện QCDC ở vùng nông thôn, đánh giá vai trò của các tổ chức trong hệ
thống chính trị trong việc thực hiện Quy chế và đã đề xuất những giải pháp
hồn thiện và hiện thực hóa QCDC ở Xã.
III. Mục tiêu của đề tài
Làm sang tỏ một số vấn đề lý luận về dân chủ, dân chủ ở cơ sở và sự
cần thiết phải thực hiện QCDC ở Xã.
Khảo sát thực tiễn, đánh giá thực trạng việc xây dựng và thực hiện
QCDC ở Xã.
Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
QCDC ở Xã, góp phần thúc đẩy thực hiện QCDC ở cơ sở.
IV. Nội dung nghiên cứu
Chương I. Một số vấn đề lý luận về dân chủ, dân chủ cơ sở và đặc
trưng của câp Xã


Chương II. Thực trạng việc thực hiện quy chế dân chủ ở Xã
Chương III. Quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện có hiệu
quả quy chế thực hiện dân chủ ở Xã

V. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đổi mới của Đảng ta về dân chủ, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, về sắp xếp, đổi mới của cấp Xã trong đổi mới
Phương pháp chung: lôgic- lịch sử, tổng hợp, phân tích, hệ thống kết
hợp với phương pháp khảo sát thực tiễn
Tập hợp, phân tích, xử lý các báo cáo tổng kết thực tiễn.


N ỘI DUNG
Chương I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ, DÂN CHỦ CƠ SỞ
VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CẤP XÃ
1. Một số vấn đề lý luận về dân chủ.
1.1. Khái niệm và nội dung dân chủ.
Theo nguyên nghĩa của từ, dân chủ là nguồn lực thuộc về nhân
dân.Trong ngôn ngữ hiện đại, dân chủ được hiểu theo nhiều nghĩa: là một
hình thức tổ chức quyền lực nhà nước; là nguyên tắc tổ chức, quản lý xã hội;
là một giá trị xã hội, một lý tưởng giải phóng con người tới tự do và thực hiện
quyền làm chủ xã hội, làm chủ nhà nước và làm chủ bản than mình…
Dân chủ là quyền làm chủ của người dân trong quản lý nhà nước và xã
hội.Quyền làm chủ của người dân được đảm bảo bằng nhà nước đó phải được
tổ chức, thiết chế theo nguyên tắc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền
lực.
Khái niệm dân chủ có nhiều nội dung: theo nội dung chính trị thì dân
chủ là một hình thái nhà nước; theo nội dung văn bản thì dân chủ là sản phẩm
của nền văn minh; theo nội dung nhân đạo thì dân chủ là phương thức tổ chức
xã hội hiện đại.
Chế độ dân chủ chính trị là một trong những hình thái của nhà nước và
sự thống trị của giai cấp. Theo Mác, chế độ dân chủ cho nhân dân biến nhà

nước, cơ quan tối cao của xã hội, thành một cơ quan hoàn toàn phụ thuộc vào
xã hội. Nhân dân tạo ra chế độ nhà nước phù hợp với nguyện vọng và ý chí
của cả cộng đồng.Đó là nhà nước do dân. Trong chế độ dân chủ nhân dân thì
nhà nước ngày càng hướng tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và
được xác định là sự nghiệp của bản than nhân dân. Đó là nhà nướ của dân và


vì dân. Trong chế độ dân chủ nhân dân thì việc bầu cử là hành động chính trị
nhờ đó mà nhân dân được tổ chức thành hệ thống chính trị. Chế độ dân chủ
cho nhân dân mà càng hoàn bị bao nhiêu, thì trấn áp và bạo lực càng giảm đi
bấy nhiêu, và dân chủ chính trị càng mau trở nên thừa và tự tiêu vong.
Khái quát lại dân chủ được hiểu thao 4 góc độ chủ yếu:
Dân chủ là hình thái nhà nước, trong đó mọi quyền lực thuộc về giai
cấp thống trị- quyền sở hữu về TLSX và quyền lực nhà nước
Dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội, cùng với nhà nươc thiết lập một xã hội cơng dân có sự phân cơng,
phối hợp hài hịa quyền lực chính trị, dung hịa các quyền lợi gia cấp, tầng lớp
xã hội để duy trì sự ổn định và phát triển xã hội.
Chế độ dân chủ là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, giữa giai cấp thống
trị và giai cấp bị trị, giữa lực lượng dân chủ tiến bộ và chế độ chuyên chế.
Dân chủ là sản phẩm của lịch sử, là một giá trị xã hội- chính trị có sự
phát triển biện chứng cả về nội dung lẫn hình thức biểu hiện dưới sự tác động
của sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa và trình độ dân trí cao.
Nhà nước dân chủ là nhà nước có hai đặc trưng cơ bản: do nhân dân
thành lập (thông qua bần cử); pháp luật do nhân dân xây dựng( thông qua các
cơ quan đại diện cho nhân dân và trưng câù dân ý). Mọi công dân đều phải
hoạt động trong khn khổ pháp luật, đều bình đẳng trước pháp luật. Đây là
nguồn gốc cơ bản đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân.
1.2 Dân chủ nhân dân
Trong lịch sử loài người đã từng tồn tại dân chủ chủ nô, dân chủ
TBCN( tư bản chủ nghĩa) và dân chủ XHCN. Trong đó, dân chủ XHCN là

nền dân chủ ưu việt nhất, rộng rãi nhất. Khác với dân chủ TBCN, dân chủ
XHCN là nền dân chủ của đông đảo nhân dân lao động, phát triển theo quy
luật khách quan, phù hợp với xu thế của thời đại, hướng tới tiến bộ, văn minh,


nhân đạo, tự do vì sự nghiệp giải phóng tồn diện con người. Hơn thế nữa, nó
cịn là động lực của tiến bộ xã hội, là đặc trưng bản chất, là sự thể hiện trực
tiếp toàn diện lý tưởng nhân đạo của CNXH. Cơ sở pháp lý và bản chất của
nó hướng tới quyền sống, quyền tự do, sáng tạo, qun hạnh phúc của con
người.
Nhấn mạnh tính giai cấp của dân chủ, Lê nin chỉ rõ: dân chủ vô sản là
chế độ thông trị của đa số với thiểu số, vì lợi ích của đa số. Sau thắng lợi của
cách mạng vô sản, việc phát triển nền dân chủ vô sản là tiền đề thực hiện
thắng lợi hoàn toàn và triệt để mục tiêu XHCN. Giai cấp vô sản chỉ có thể
hồn thành cuộc cách mạng XHCN, khi tiến hành cuộc đấu tranh cho dân
chủ. CNXH khơng thể duy trì và tháng lợi nếu như không thực hiện đầy đủ
các nội dung dân chủ. Dân chủ vô sản bao hàm một nội tất yếu của nó là thủ
tiêu áp bức dân tộc, đưa quảng đại quần chúng nhân dân lên địa vị của người
chủ chân chính làm chủ xã hội. Từ những ý nghĩa đó, Lê nin đi đến một tư
tưởng khái quát: dân chủ vô sản là thứ dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản và
nhấn mạnh rằng; dân chủ vô sản không loại trừ đấu tranh giai cấp.
Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hóa của dân chủ, dân
chủ XHCN, mà thực chất của nó là tồn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Dân
chủ trở thành giá trị phổ biến của xã hội, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mà
định hướng cơ bản của nó là xóa bỏ giai cấp, để tạo ra ngày càng đầy đủ
những điều kiện cho sự giải phóng con người, để “ sự phát triển tự do của mỗi
con người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người” không cịn là khẩu
hiệu. Khi đó dân chủ với tư cách là một vấn đề chính trị sẽ tiêu vong.
CNXH và nền dân chủ XHCN là sự thay thế hợp quy luật, do đó ở trên
một trình độ chất lượng cao hơn so với CNTB và nền dân chủ tư sản. Nhưng

về thực tiễn lịch sử thì CNXH và nền dân chủ XHCN lại chưa đạt trình độ
cao,chưa trở thành hiện thực phổ biến, nó cịn đang trong q trình hình
thành, phát triển. Trên thực tế, hầu hết các nước đi lên CNXH và xây dựng


nền CNXH lại xuất phát từ các quan hệ kinh tế - xã hội tiền tư bản chứ không
phải tù trình độ chín muồi của chủ nghĩa tư bản về mọi phương diện rồi đi lên
CNXH.
Là kết quả hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo
của giai cấp cơng nhân dân chủ CNXH chỉ có được với điều kiện tiên quyết là
đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân mới đáu tranh có hiệu quả chống lại mưu đồ lợi dụng dân chủ vì
những động cơ đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Với ý nghĩa đó, dân chủ
CNXH và nhất ngun về chính trị, bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của
Đảng mác xít- lê nít khơng lãnh đạo của Đảng là điều kiện cho điều kiện cho
dân chủ CNXH có thể ra đời, tồn tại và phát triển.
Trong khi mở rộng dân chủ tới mức tối đa với mọi tầng lớp nhân dân,
dân chủ CNXH kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại
những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những giá trị chân chính của nhân dân,
gây nhuy hại cho tiến trình phát triển của nền dân chủ CNXH. Để những hành
vi gây tác hại đến nền dân chủ của nhân dân được xử lý kịp thời, đúng đắn…,
các quyền đó phải được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật và được thực
hiện bằng những thiết chế tương ứng của chun chính vơ sản. Hay nói cách
khác, chế độ dân chủ CNXH là chế độ chính trị mà ở đó những giá trị dân
chủ, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp luật, thành những
nguyên tắc, mục tiêu của sự phát triển. Các giá trị và chuẩn mực dân chủ thâm
nhập và chi phối hoạt động của mọi lĩnh vực xã hội. Dân chủ CNXH trước hết
và chủ yếu được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền CNXH, đi liền với
cơng bằng, bình đẳng, có kỷ cương, kỷ luật chặt chẽ.
Dân chủ CNXH được đảm bảo bởi quan hệ sản xuất CNXH. Người lao

động thực sự làm chủ về kinh tế, trước hết làm chủ về tư liệu sản xuất và thực
sự trở thành lực lượng quyết định tồn bộ q trình phát triển xã hội. Nền dân
chủ CNXH bảo đảm quyền làm chủ, phát hy tính tự giác và sáng tạo to lớn


của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đồng
thời tạo điều kiện cho con người phát triển tồn diện. Đó là nền dân chủ vì
con người với tư cách cá nhân hay cộng đồng xã hội, vì sự nghiệp giải phóng
con người.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống lịch sử dân tộc, tiếp thu,
vận dụng và phát triển những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, Chủ tịch
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân chủ. Ngay từ khi nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời, Người đã trịnh trọng tuyên bố: “ Nước Việt Nam là nước
dân chủ. Nhà nước Việt Nam là nhà nước do nhân dân lao động là chủ. Theo
Người dân chủ là dân là chủ nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân,
nhân dân là chủ” Nhân dân làm chủ tồn bộ quyền lực, lợi ích đều thuộc về
dân “ Nước ta là một nước dân chủ. Mọi việc đều vì lợi ích của dân mà làm.
Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều của dân”.

Hồ Chí Minh

nhấn mạnh: nước phải lấy dân làm gốc, gốc có vững cây mới bền. Dân là gốc,
thì phải làm cho người dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân
chủ của mình. Người chỉ rõ “ Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách
xã hội để nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”. Dân chủ
phải được hiểu là quyền con người, quyền được mưu cầu hạnh phúc, mưu cầu
ấm no như nhau. Mất cái lõi dân làm gốc thì dân chủ sẽ thành vô nghĩa. Dân
chủ là của quý báu nhất của nhân dân, thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn
năng có thể giải quyết mọi khó khăn.

1.4. Quan điểm của Đảng ta về dân chủ và dân chủ ở cơ sở
Trong quá trình lãnh đạo đất nước Đảng ta luôn khẳng định: Dân chủ là
bản chất của chế độ ta, vùa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng Việt
Nam. Thực tiễn đã chứng minh rằng: từ cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân đến sự nghiệp đổi mới ngày nay, mục tiêu nhất quán của cách mạng
Việt Nam do Đảng lãnh đạo là vì nền dân chủ, thực hiện quyền làm chủ của


nhân dân trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa để khơi dậy,
phát huy nhân tố con người trong sự nhiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN. Đảng ta thường xuyên xác định dân chủ là một trong
hai động lực chủ yếu của thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, thực hiện CNH- HĐH đất nước.Hai động lực đó là lợi ích
và dân chủ. Đây là hai động lực gốc của các động lực khác.
Ngay trong hội nghị thành lập Đảng, chính cương, sách lược vắn tắt
của Đảng đã xác định: cách mạng Việt Nam là tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng, có nhiệm vụ đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và giai
cấp phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân tự do,
lấy ruộng đất của đế quốc làm của công và chia cho dân nghèo… tổ chức ra
chính phủ cơng nơng binh. Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành cơng
chính quyền cách mạng được thiết lập, Đảng lãnh đạo tiến hành cuộc Tổng
tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của cả nước, xây dựng Hiến pháp, tổ chức
Chính phủ, thiết lập nhà nước dân chủ nhân dân. Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ II khẳng định: chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam phải là
chính quyền nhà nước tiêu biểu cho lợi ích của tất cả các giai cấp, các tầng
lớp nhân dân yêu nước dân chủ, quyết tâm đoàn kết chiến đấu chống chủ
nghĩa đế quốc, xây dựng nước Việt Nam thành nước hoàn toàn độc lập. Tại
Đại hội lần thứ III, Đảng đề ra nhiệm vụ: Tăng cường nhà nước dân chủ nhân
dân, đưa miền Bắc tiến lên CNXH, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh
thực hiện thống nhất đất nước.

Đại hội Đảng lần thứ VI mở đầu công cuộc đổi mới, với thái độ nghiêm
túc, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đảng rút ra
bốn bài học, trong đó bài học đầu tiên là. Trong tồn bộ hoạt động của mình,
Đảng phải quán triệt tư tưởng “ lấy dân làm gốc” Đại hội Đảng lần thứ VII
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ


máy hành chính, kiện tồn các cơ quan pháp luật để thực hiện có hiệu quả
chức năng quản lý của Nhà nước. Đaị hội Đảng lần thứ VIII nhấn mạnh: xây
dựng nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân , vì nhân dân, lấy liên minh
giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do
Đảng lãnh đạo. thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, chuyên chính với mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc
và nhân dân. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX chỉ rõ: Nhà nước ta là công
cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền
của dân, do dân,vì dân. Trong Đại hội Đảng lần thứ X, Đảng ta một lần nữa
khẳng định: Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là
người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng… Chúng ta chủ
trương xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và cơng chức
phải thực sự là công bộc của nhân dân, đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của
nhân dân.
Khái quát lại, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định ngày càng rõ,
đầy đủ và ở trình độ cao hơn vấn đề dân chủ ở nước ta trong thời đại ngày
nay. Có thể nêu một số quan điểm của Đảng về dân chủ như sau:
Một là, dân chủ là khát vọng của con người được quyền sống, quyền
làm người, quyền mưu cầu hạnh phúc. Dân chủ quan trọng nhất là dân chủ về
kinh tế. Trong những năm đổi mới vừa qua, kinh tế nước ta liên tục phát triển,
Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, tỷ lệ hộ đói nghèo liên tục
được thu hẹp. Đó là những thực tế khơng thể phủ nhận.

Hai là, dân chủ phải được thực hiện trên mọi mặt của đời sồng xã hội.
Trên lĩnh vực chính trị, đó là quyền người dân làm chủ nhà nước, quyền
người dân cử ra một nhà nước dân chủ, nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân; là mở rộng quyền nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước; thực
hiện quyền tự do suy nghĩ, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tơn giáo; đại


biểu của nhân dân được bầu ra một cách dân chủ; mọi cơng dân đều bình
đẳng trước pháp luật.
Trên lĩnh vực kinh tế, đó là xây dựng một nền kinh tế của nhân dân với
nhiều thành phần kinh tế tham gia và thực hiện một cơ chế quản lý kinh tế dân
chủ để thực hiện một khâu sản xuất, phân phối, trao đổi đến tiêu dung, bảo
đảm công bằng và bình đẳng xã hội, rút ngắn, đi đến hạn chế tối đa sự chênh
lệch giàu- nghèo giũa các thành phần dân cư, các vùng, miền trong cả nước.
Đó là sự hoàn thiện thể chế kinh tế, đặt nền kinh tế dưới sự giám sát của nhân
dân. Hình thành cơ chế sao cho mọi người lao động đều được tham gia quản
lý bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Kết hợp kế hoạch của nhà nước với sự
tự chủ sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, coi nhu cầu thị trường là một
cơ sở để kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân. Thị trường phải hoạt động trên
nguyên tắc giá trị, chất lượng, bảo đảm lợi ích chính đáng của người tiêu
dung, hoạt động có sự quản lý của nhà nước.
Trên lĩnh vực xã hội, đó là việc bảo đảm quyền công dân, quyền con
người, quyền được bảo vệ về mặt xã hội củ công dân. Thực hiện công bằng xã
hội, khắc phụ dần sự bất công xã hội. Từng bước giải phóng con người khỏi
những quan hệ bất bình đẳng.
Ba là, đổi mới và kiên tồn hệ thống chính trị là nhằm thực hiện dân
chủ ngày càng đầy đủ hơn. Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nước ta là:
Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đảng lãnh đạo suy đến
cùng là để nhân dân làm chủ. Đối với các tổ chức Đảng và đảng viên phải
được nâng cao nhận thức và làm đúng vai trò hạt nhân nền dân chủ. Phải đổi

mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên cơ sở phát huy dân chủ. Trong điều
kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, nhân dân làm chủ yếu bằng nhà nước, cần
thiết lập nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Nhà nước được
xây dựng và hồn thiện chừng nào thì dân chủ được thực hiện đầy đủ và hồn
thiện chừng đó.


Ban hành luật pháp, chính sách và tổ chức thực hiện tốt là trách nhiệm
lớn nhất của nhà nước. Để đảm bảo phát huy đầy đủ dân chủ ở cơ sở phải đổi
mới và nâng cao hiệu lực cảu chính quyền cơ sở, xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của chính quyền cơ sở, đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân,
nâng cao hiệu lực của cơ quan hành chính. Xây dựng đội ngũ cán bộ cơng
chức phong cách làm việc: trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách
nhiệm với dân.
Nhân dân cịn làm chủ thơng qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở phải đổi mới phương
thức hoạt động, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, vừa động viên đoàn
viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ lợi ích thiết thực, vừa vận động đoàn
viên, vừa lắng nghe, nâng cao trình độ mọi mặt cho đồn viên, hội viên, vừa
phải tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
- Bốn là, dân chủ trước hết phải được thực hiện từ cơ sở, vì vậy phải
xây dựng và hồn thiện QCDC, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ
sở. Cơ sở là nơi sinh sống của đại bộ phận dân cư, nơi thực hiện mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nơi thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Nếu coi dân chủ ở cơ sở là nền
tảng của tồn bộ vấn đề dân chủ, thì dân chủ ở cấp cao của Đảng và Nhà
nước, xét ở góc độ lãnh đạo, định hướng và luật hóa quyền làm chủ của nhân
dân, sẽ là yếu tố cốt tử có tính chất quyết định.
Trên con đường thực hiên dân chủ trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà
nước ta đã xác định dân chủ ở cơ sở là “ khâu đột phá”. Khâu này được mở,

đương nhiên sẽ tiếp tục củng cố thắng lợi, mở ra những khâu khác, lĩnh vực
khác. Song phải có cách làm và bước đi thích hợp, vững chắc, khơng thể nóng
vội, chủ quan. QCDC ở cơ sở chính là sự cụ thể hóa tư tưởng này.
Quyền dân chủ nhân dân ở nước ta được thực hiện qua hai hình thức:
trực tiếp và gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là người dân trực tiếp biểu thị ý chí


của mình về những vấn đề quan trọng, cơ bản của tập thể, cộng đồng, đất
nước. Dân chủ trực tiếp gồm ba yếu tố cấu thành: a) Bảo đảm thông tin đầy
đủ các vấn đề cần quyết định; b) Tổ chức bàn bạc thấu đáo trước khi quyết
định, bảo đảm mơi trường lành mạnh, tự do, bình đẳng. c) Bảo đảm trình tự,
thủ tục đơn giản, dễ hiểu, tổ chức khoa học chu đáo. Dân chủ gián tiếp là hình
thức nhân dân làm chủ thông qua các cơ quan, tổ chức đại diện của mình. Ở
nước ta, nhân dân làm chủ gián tiếp thông qua các tổ chức trong hệ thống
chính trị.
Bản chất dân chủ của chế độ ta được thể hiện trên thực tế: Tổ chức bộ
máy từ Trung ương đến địa phương đều do nhân dân lựa chọn; mọi hoạt động
quản lý của nhà nước đều nhằm mục đích bảo vệ và khơng ngừng nâng cao
quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân. Trong quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan và cơng chức nhà nước có nhiệm vụ
thu hút, mở rộng việc huy động nhân dân tham gia công tác quản lý nhà nước
dưới mọi hình thức. Nhân dân là đối tượng quản lý của nhà nước. Nhà nước là
“người quản lý”, đồng thời cũng là “đối tượng quản lý” của nhân dân bằng
những phương thức do luật định, tiến hành giám sát, kiểm tra hoạt động của
các cơ quan nhà nước.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, dân chủ khơng chỉ dừng lại ở lĩnh
vực chính trị mà ngày càng thâm nhập vào đời sống kinh tế, đời sống tinh
thần xã hội rộng rãi hơn, vững chắc hơn. Tuy nhiên, Đảng ta nhận rõ rằng,
trong những năm gần đây việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội tuy đã
đạt được nhiều kết quả, song vẫn bộc lộ nhiều tồn tại, khuyết điểm; tình trạng

quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi phạm quyền dân chủ ở cơ sở diễn ra khá
phổ biến; nhiều vấn đề liên quan đến lợi ích và đời sống thiết thực cảu người
lao động chưa được thảo luận kỹ và thông suốt nhưng vẫn ra ép nhân dân thực
hiện; việc huy động sức dân có nơi có lúc, cách làm lại thiếu dân chủ, không
công khai. Ở nông thôn, công tác vận động nhân dân còn nhiều khuyết điểm


dẫn tới những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữa một bộ phận nhân dân
với đảng bộ và chính quyền cơ sở, làm bùng phát những điểm nóng chính trị xã hội. Xuất phát từ những thực tế đó, Đảng ta đã đề ra nhiều biện pháp, trong
đó việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở, nhằm ngăn chặn những biểu
hiện sai trái đang tiếp diễn ở cơ sở.
QCDC là những quy định thuộc phạm vi nghành pháp luật hành chính
do người đúng đầu các cơ quan nhà nước, các cấp, các nghành ban hành để
làm công vụ chỉ dẫn đồng thời là cơ sở pháp lý để giám sát, kiểm tra đối với
cơ quan và cán bộ công chức thuộc quyền trong việc thực hiện mở rộng dân
chủ với nhân dân trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà
nước của nghành mình, cấp mình, địa phương mình.QCDC được ban hành và
áp dụng là sự thể hiện bằng việc làm cụ thể nhằm bảo vệ và phát triển bản
chất dân chủ của chế độ XHCN, làm cho phương châm “ Dân biết, dân làm,
dân bàn, dân kiểm tra” được thể chế hóa, pháp luật hóa thành những quy
phạm cụ thể trong đời sống.
1.5. Một số văn bản của Đảng và Nhà nước về xây dựng và thực hiện
QCDC ở cơ sở.
a. Các văn bản của Đảng
* Chỉ thị số 30 – CT / TW của Bộ Chính trị
Ngày 18/ 2/ 1998, Bộ Chính trị Khóa VIII ra Chỉ thị về xây dựng và
thực hiện QCDC ở cơ sở. Đây là lần đầu tiên Đảng có Chỉ thị về thực hiện
quyền dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Chỉ thị nêu rõ: Đảng và Nhà nước ta đã phát huy một bước quyền
làm chủ của nhân dân nhờ đó đã đạt được những thành tựu to lớn trong sự

nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, nhiều nơi quyền làm
chủ của nhân dân còn bị vi phạm; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham
nhũng sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân vẫn đang phổ biến nghiêm
trọng chưa đẩy lùi ngăn chặn được. Phương châm “ dân biết, dân bàn, dân


làm, dân kiểm tra” chưa được thể chế hóa và cụ thể hóa thành pháp luật, chậm
đi vào cuộc sống.
Quan điểm chỉ đạo của Bộ chính trị là:
- Phải đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ
chế tổng thể của hệ thống chính trị “ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”; coi trọng cả ba mặt trên, khơng vì nhấn mạnh một mặt mà coi
nhẹ, hạ thấp mặt khác.
- Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, vừa thực hiện tốt chế độ
dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp
những công việc quan trọng, thiết thực gắn liền với lợi ích của mình.
- Phát huy dân chủ gắn liền với phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao
dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả.
- Nội dung QCDC ở cơ sở phải phù hợp với Hiến pháp, pháp luât, thể
hiện tinh thần dân chủ đi đôi với kỷ cương, quyền hạn gắn liền với trách
nhiệm, lợi ích đi đơi với nghĩa vụ. Chống quan liêu mệnh lệnh, chống tình
trạng vơ chính phủ, lợi dụng tình trạng vi phạm pháp luật.
- Gắn quá trình xây dựng dân chủ và thực hiện QCDC với cơng tác cải
cách hành chính, sửa đỏi những cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính chưa
phù hợp.
* Chỉ thị số 10- CT/ TW của Ban Bí thư
Ngày 28/ 3/ 2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng khoa IX ra Chỉ thị về
“Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện QCDC ở cơ sở” . Chỉ thị nhấn mạnh: sau
hơn 3 năm triển khai việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở; tuy ở mức
độ có khác nhau nhưng đã đạt được những kết quả bước đầu, quan trọng. Đó

là:
- Tạo được bầu khơng khí dân chủ, cởi mở hơn trong xã hội, thực hiện
tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân, củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào


chế độ, từ đó tạo thêm động lực thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương, các nghành; rõ nhất là
trên lĩnh vực phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng xã, phường, thị trấn,
xây dựng nếp sống văn hóa ở nơng thơn và đơ thị.
- Làm chuyển biến một bước về ý thức và phong cách làm việc của cán
bộ đảng, chính quyền, đồn thể theo hướng gần dân, tơn trọng dân và có trách
nhiệm với dân hơn.
- Có tác động tích cực đến việc xây dựng đảng, chính quyền, phát huy
vai trị của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; xây dựng cộng đồng dân cư tự
quản ở thôn, làng, ấp bản, tổ dân phố.
Tuy nhiên, kết quả thực hiện QCDC ở cơ sở còn chưa vững chắc, chưa
rộng khắp, chưa đều giữa các địa phương, khu vực, chưa thường xuyên, liên
tục. Dân chủ hình thức cịn nhiều, dân chủ cơng khai tài chính chưa được triển
khai sâu rộng; dân chủ trong doanh nghiệp nhà nước chưa được phát huy
mạnh mẽ. Tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân cũng như tình
trạng lợi dụng quyền dân chủ, vi phạm kỷ cương, pháp luật còn xảy ra ở nhiều
nơi. Việc xây dựng và thực hiện QCDC ở một số nơi chưa gắn kết thật tốt với
các công việc thường xuyên, nhất là cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; cải cách hành chính; chống tham nhũng, lãng phí; xây dựng Mặt trận
và đoàn thể; việc giám sát, kiểm tra thực hiện QCDC ở cơ sở cịn nhiều hạn
chế.
Để khắc phục có hiệu quả những mặt cịn yếu kém, Ban bí thư Trung
ương Đảng đã chỉ đạo:
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, sự phối hợp thực hiện của các cấp
ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đồn thể nhân dân trong việc xây dựng

và thực hiện QCDC ở cơ sở:


- Tiếp tục tuyên truyền, giáo dục sâu rộng cho cán bộ đảng viên và
nhân dân những quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị và những nội dung cơ
bản của QCDC ở cả ba loại hình ở cơ sở; coi việc xây dựng thực hiện QCDC
ở cơ sở là những nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, là trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị và tồn xã hội.
- Đưa công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở vào nền nếp,
gắn thực hiện QCDC với thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức,
từng mặt công tác và trách nhiệm của từng cá nhân, trước hết là người đứng
đầu. Mặt trận, các đoàn thể cần phát huy vai trò chủ động vận động nhân dân
thực hiện và giám sát việc thực hiện QCDC ở cơ sở.
- Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên gương mẫu thực hiện: giữ nghiêm kỷ
luật Đảng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đưa việc xây
dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở thành một tiêu chuẩn xem xét chi bộ, đảng
bộ trong sạch, vững mạnh, đảng viên đủ tư cách, đơn vị tiên tiến xuất sắc.
- Hoàn chỉnh các quy chế đã ban hành và hướng dẫn thực hiện QCDC ở
các loại hình cơ sở khác. Trước hết là khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế hợp
tác, kinh tế có vốn nước ngồi, các cơ quan quản lý chương trình kinh tế xã
hội, giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ bản, nghiên cứu khoa học.
* Thông báo kết luận số 159- TB/ TW của Ban Bí thư
Sau 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30- CT/ TW của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư đã mở hội nghị tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Chỉ thị và đề ra chủ
trương, giải pháp tiếp tục xây dựng và thực hiện QCDC thời gian tới và ra
Thông báo kết luận số 159-TB/ TW, ngày 15- 11- 2004. Thông báo khẳng
định Chỉ thị số 30 là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, đã được nhân
dân hưởng ứng rộng rãi, đã đi vào cuộc sống tương đối nhanh, đã tạo bước
chuyển biến đáng kể nhận thức của nhân dân về dân chủ, mọi người hăng hái
tham gia góp ý kiến và thi đua thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về

phát triển kinh tế- xã hội, văn hóa, đảm bảo an ninh quốc phịng, nhờ đó củng


cố khối đại đồn kết tồn dân, tạo khơng khí chan hịa, cởi mở trong cộng
đồng, góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội. Xây dựng và thực hiện
QCDC cũng đã góp phần tác động tích cực tới việc củng cố, đổi mới, nâng
cao chất lượng của hệ thống chính trị cơ sở, xây dựng chỉnh đốn Đảng, củng
cố, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, làm chuyển biến tác phong
của cán bộ đảng viên, công chức…
Tuy nhiên so với yêu cầu thì những kết quả đạt được chưa đồng đều và
chưa vững chắc, mới có khoảng 1/3 số đơn vị thực hiện tốt ở những mức độ
khác nhau. Nhiều nơi chậm ban hành văn bản chỉ đạo và hướng dẫn thực
hiện, nhiều quy chế đã xây dựng cịn dập khn, máy móc, tình trạng vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân cịn nhiều. Ban Bí thư yêu cầu trong thời gian tới
cần giải quyết hai vấn đề lớn sau:
- Một là, tiếp tục triển khai xây dựng và thực hiện ba loại hình QCDC
đã ban hành ở tất cả các cơ sở trong cả nước và quan trọng hơn nữa là phấn
đấu để đại bộ phận các đơn vị thực hiện cơ chế dân chủ ở cơ sở đạt hiệu quả
tốt
- Hai là, mở rộng việc xây dựng và thực hiện QCDC ra các loại hình
cơ sở còn lại
b. Các văn bản của Nhà nước về xây dựng và thực hiện QCDC ở Xã
* Quốc hội
Cụ thể hóa Chỉ thị số 30 – CT/ TW của Bộ Chính trị, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội ra các Nghị quyết số 45 – NQ/ UBTVQH ngày 26/ 2/ 1998 “ Về
xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở”
* Chính phủ
Chính phủ ban hành Nghị định số 29/ 1998/ NĐ- CP về việc ban hành
Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Sau đó được thay bằng Nghị định số




×