Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

xây dựng tài liệu dạy học tự chọn môn tiếng việt cho học sinh lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực của chương trình ngữ văn 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.78 KB, 43 trang )

XÂY DỰNG TÀI LIỆU DẠY HỌC TỰ CHỌN
MÔN TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 4
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
CỦA CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 2018




MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu
1.1. Thực hiện mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục tại Nghị quyết số
40/2000/NQ-QH10 của Quốc hội: “Xây dựng nội dung, chương trình, phương
pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thơng mới nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục tồn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thông
Việt Nam; tiếp cận trình độ giáo dục phổ thơng ở các nước phát triển trong khu
vực và thế giới” [1], bắt đầu từ năm học 2000-2003, Bộ của GD&ĐT triển khai
bộ chương trình mới ở các cấp học. Một trong những định hướng quan trọng của
việc của chương trình này là tăng cường hơn nữa tính “phân hóa” trong giáo
dục, đưa các mơn tự chọn vào chương trình giáo dục phổ thơng. Bắt nguồn từ
tính biện chứng của sự thống nhất và tính phân hóa, từ u cầu đảm bảo thực
hiện tốt mọi mục tiêu dạy học đối với tất cả học sinh, đồng thời khuyến khích
phát triển tối đa và tối ưu hóa khả năng của học sinh, dạy học tự chọn là một
hình thức dạy học phân hóa phù hợp với mọi xu hướng chung của thế giới.
1.2. Dựa trên những kết quả nghiên cứu và thử nghiệm trong nhiều năm
qua về sự phát triển của học sinh tiểu học, dạy học tự chọn đã được đưa vào
chương trình giáo dục phổ thông ngay từ bậc tiểu học. Thứ nhất, mỗi học sinh là
một cá thể có nhu cầu và năng lực phát triển, có cách học và tốc độ tiếp thu kiến
thức hồn tồn khác nhau, do đó có sự phân hóa về trình độ và hứng thú học tập.
Thứ hai, cùng với sự bùng nổ của khoa học thông tin, trong những năm gần đây,
vấn đề dạy học trong nhà trường phổ thơng đã có sự chuyển biến mạnh mẽ từ


dạy học nội dung sang dạy học phát triển năng lực. Phương pháp dạy học theo
quan điểm phát triển năng lực khơng chỉ chú ý tích cực hố học sinh về hoạt
động trí tuệ mà cịn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề, gắn với những
tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với


hoạt động thực hành, thực tiễn. Do đó, nhu cầu dạy học tự chọn để đáp ứng sự
phát triển năng lực và hứng thú học tập cho học sinh ngày càng trở nên cấp thiết.
1.3. Ở bậc học Tiểu học, Tiếng Việt là mơn học có vị trí quan trọng trong
chương trình. Tiếng Việt khơng những là “cơng cụ của tư duy” mà cịn là bước
đệm để hình thành nhân cách của một đứa trẻ. Từ năm học 2002-2003, Bộ GDĐT đã có một số hướng dẫn về dạy học tự chọn. Ở nhiều trường tiểu học đã tổ
chức dạy học các môn tự chọn cũng như những nội dung tự chọn. Tuy nhiên,
quá trình triển khai dạy học tự chọn cịn gặp khơng ít khó khăn, đặc biệt đối với
khâu biên soạn tài liệu dạy học tự chọn nói chung và dạy học tự chọn mơn Tiếng
Việt nói riêng. Việc đầu tư để tiếp tục bổ sung các nội dung, các chủ đề tự chọn
và tổ chức biên soạn tài liệu giáo khoa, tài liệu hướng dẫn triển khai dạy học tự
chọn Tiếng Việt để giúp học sinh, giáo viên có thêm nguồn tài liệu dạy học
phong phú là một nhu cầu cấp thiết.
1.4. Tuy nhiên, hiện nay, trong dạy học Tiếng Việt, phần đọc hiểu chỉ tập
trung vào việc nhận biết, tái hiện các tình tiết của văn bản (đọc – nhớ) mà ít chú
ý khả năng giải thích và đặc biệt ít hình thành, phát tiển năng lực hồi đáp (đánh
giá văn bản, liên hệ những điều đọc được với bản thân, với thực tế) nên chưa
hướng học sinh đến việc đọc vận dụng, đọc sáng tạo. Trong dạy ngữ pháp chỉ
tập trung dạy học sinh nhận biết, phân tích, phân loại các đơn vị ngơn ngữ mà ít
chú ý năng lực sử dụng các đơn vị, kiểu loại ngôn ngữ nên không kết nối kiến
thức tiếng Việt với năng lực sử dụng tiếng Việt của học sinh. Trong dạy tạo lập
văn bản cho học sinh, đã tạo nhiều cơ hội cho học sinh chép lại bài văn mẫu đã
thuộc mà ít phát triển năng lực suy nghĩ để có ý tưởng của riêng mình, ít chú ý
dạy cách biểu đạt ý tưởng nên chưa định hướng để các em học cách viết sáng
tạo. Vì vậy, thiết kế tài liệu dạy học tự chọn môn Tiếng Việt ở tiểu học là một

hướng đi có nhiều triển vọng góp phần đổi mới nội dung và phương pháp dạy
học, hỗ trợ dạy học chương trình chính khóa.


Bên cạnh đó, năm học 2023 – 2024 ở lớp 4 bắt đầu thực hiện chương
trình GDPT mới 2018, vì vậy thông qua nghiên cứu khả năng ứng dụng cụ
thể, thiết thực của vấn đề, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tôi đã
mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Xây dựng tài liệu dạy học tự chọn môn Tiếng
việt cho học sinh lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực của chương
trình Ngữ văn 2018” .
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Dạy học tự chọn một hình thức dạy học phổ biến trong chương trình ở
nhiều nước trên thế giới như: Hàn Quốc, Malaysia, Nga, Phần Lan... Tại các
nước này, chương trình được kết cấu theo các thành phần: các lĩnh vực chung
(bao gồm cả các môn không thi) là bắt buộc đối với mọi học sinh; các yếu tố cốt
lõi bắt buộc; các môn tự chọn; Tự học, hoạt động trải nghiệm trong hoạt động
cộng đồng. Các yếu tố này được kết cấu trong chương trình chung cho mọi học
sinh. Như vậy có thể thấy, dạy học phân hóa trong chương trình giáo dục phổ
thơng theo hướng tự chọn là xu hướng chung ở tất cả các nước. Việc dạy học tự
chọn cho phép tới THPT, học sinh chỉ học một số môn cốt lõi nhất như ngơn
ngữ quốc gia, tốn, ngoại ngữ, cịn lại là các môn, các chủ đề tự chọn. Học sinh
học sâu thêm các điều đã học trong lĩnh vực giáo dục bắt buộc và các module
nâng cao ở các môn đặc thù. Dù vậy, các nghiên cứu về những nội dung xây
dựng tài liệu dạy học tự chọn các môn học nói chung và mơn Tiếng Việt nói
riêng cịn khá ít và khó tiếp cận.
Tại Việt Nam, tên gọi dạy học tự chọn xuất hiện lần đầu trong “Mục tiêu,
kế hoạch giáo dục tiểu học” do Bộ GD&ĐT ban hành ngày 14/10/1994. Văn
bản trên cũng đã ghi rõ: “Các môn học ở tiểu học bao gồm các môn học tự chọn
và các môn học bắt buộc. Các môn học tự chọn gồm: 1. Tiếng nước ngoài; 2.
Tin học; 3. Kinh tế gia đình; 4. Nội dung nâng cao của các mơn học bắt buộc”.

Tiếp đó, trong “Chương trình giáo dục tiểu học” do bộ GD&ĐT ban hành
09/11/2001 đã quy định dạy học tự chọn ở tiểu học là dạy học không bắt buộc.


Quan điểm này lần nữa được nêu rõ tại chương trình cấp Tiểu học trong chương
trình giáo dục phổ thơng do bộ GD&ĐT ban hành ngày 05/5/2006. Như vậy có
thể thấy, hiện nay, dạy học tự chọn ở tiểu học vẫn được tiếp tục quan tâm,
nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào đổi mới chương trình SGK phổ thơng
2018 dưới góc độ hình thức và quy mơ tổ chức, tính chất phổ cập và có kế
hoạch, ... cịn các nội dung dạy học tự chọn theo định hướng phát triển năng lực
của chương Ngữ văn 2018 lại chưa được quan tâm xây dựng và triển khai một
cách cụ thể rõ ràng.
* Một số kết quả nghiên cứu về việc xây dựng tài liệu dạy học tự chọn
môn Tiếng Việt.
Liên quan trực tiếp đến việc xây dựng tài liệu dạy học tự chọn môn Tiếng
Việt theo định hướng phát triển năng lực của chương trình Ngữ văn 2018 có nghiên
cứu: “Cần có hệ thống bài tập tổng hợp trong dạy học tiếng Việt” của tác giả Đỗ
Xuân Thảo, sách Bài tập phát triển năng lực môn Tiếng Việt lớp 4 tập 1, tập 2 của
tác giả Đỗ Ngọc Thống (Tổng Chủ biên), Đỗ Xuân Thảo (Chủ biên), Phan Thị Hồ
Điệp, Xuân Thị Nguyệt Hà, Trần Hiền Lương. Ta thấy rằng, Tiếng Việt là môn học
tổng hợp (gồm nhiều phân môn) giúp rèn các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học
sinh. Vì vậy trong nghiên cứu của mình, tác giả đã đưa ra những nhận xét về hệ
thống bài tập được xây dựng trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt và nêu ra
những tác dụng của dạng bài tập tổng hợp. Đề xuất của tác giả là một gợi ý cho
những người thực hiện biên soạn chương trình dạy học cũng như việc xây dựng các
bài tập phù hợp đối với từng đối tượng học sinh.
Ở cuốn“Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở Tiểu học” [14], NXB Đại
học Sư phạm, tác giả Lê Phương Nga những biện pháp bồi dưỡng hứng thú và
vốn sống cho học sinh, các phạm vi kiến thức và kĩ năng Tiếng Việt cần bồi
dưỡng cũng như cách thức xây dựng bài tập Tiếng Việt và tổ chức thực hiện các

bài tập Tiếng Việt bổ trợ nâng cao, các đề thi học sinh giỏi và trò chơi Tiếng Việt.


Như vậy qua những cơng trình nghiên cứu, tài liệu kể trên, có thể thấy
rằng đã có nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm đến vấn đề xây dựng hệ thống tài
liệu dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh. Qua đó tơi cũng thu thập được nhiều
nội dung lí thuyết làm cơ sở lí luận cho đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên cơ sở chương trình Giáo dục phổ thông 2018 môn Ngữ văn cho các
cấp học, biên soạn thành một bộ tài liệu dạy học tự chọn mơn Tiếng Việt có ngữ liệu
dạy đọc phù hợp với phẩm chất cần hình thành, có hệ thống bài tập chú trọng sử
dụng các đơn vị ngôn ngữ, chú trọng phát huy tính độc lập sáng tạo của học sinh
trong nói, viết để phát triển phẩm chất và năng lực tiếng Việt cho học sinh lớp 4.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thiết kế tài liệu dạy học
tự chọn môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực
của chương trình Ngữ văn 2018
- Tìm hiểu về các nguyên tắc dạy học tự chọn môn Tiếng Việt ở tiểu học;
hệ thống bài tập trong môn Tiếng Việt lớp 4.
- Khảo sát thực trạng dạy học tự chọn môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 4
theo định hướng phát triển năng lực.
- Nghiên cứu xây dựng được nội dung tài liệu dạy học tự chọn môn
Tiếng Việt cho học sinh lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực.
- Tiến hành thử nghiệm sư phạm nhằm kiểm nghiệm tính khả thi của tài
liệu dạy học đã xây dựng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu



- Tài liệu dạy học tự chọn môn Tiếng Việt 4 theo định hướng phát triển năng lực.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài tập trung giới thiệu và giải quyết để dạy học tự chọn môn Tiếng Việt lớp
4 theo định hướng phát triển năng lực của chương trình Giáo dục phổ thông
2018 môn Ngữ văn cho học sinh trường Tiểu học Nguyễn Đức Cảnh, quận Lê
Chân, thành phố Hải Phòng năm học 2021 – 2022.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tìm hiểu, nghiên cứu những tài liệu có
liên quan: đặc điểm của hệ thống bài tập phát triển năng lực; những quan niệm,
xu hướng kinh nghiệm dạy học, những quan điểm đổi mới giáo dục tiểu học
theo chương trình Giáo dục phổ thơng 2018 môn Ngữ văn và giảng dạy môn
Tiếng Việt lớp 4.
- Phương pháp chuyên gia: Gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với các chuyên gia,
các giảng viên trong nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn liên quan đến đề tài và sử
dụng phương pháp này để tổng kết lý luận và điều tra thực trạng, rút ra nhận xét
đánh giá kết quả.
- Phương pháp điều tra: tìm hiểu thực trạng, kinh nghiệm tổ chức dạy
học tự chọn ở một số trường tiểu học cũng như thực trạng dạy học tự chọn môn
Tiếng Việt lớp 4.
- Phương pháp thử nghiệm sư phạm: Tiến hành dạy thực nghiệm vận
dụng phương pháp dạy học tích hợp và hệ thống bài tập phát triển năng lực tiếng
Việt theo nguyên tích hợp cho học sinh lớp 4 ở môn Tiếng Việt.
- Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học: Xử lý số liệu qua
thống kê toán học bằng phần mềm SPSS 20.0 để đánh giá các kết quả thu được
bằng các tham số thống kê.
6. Kết cấu của luận văn


Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Tài liệu tham

khảo và phần Phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của đề tài.
Chương 2: Thiết kế tài liệu dạy học tự chọn môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 4
theo định hướng phát triển năng lực của chương trình Ngữ văn 2018.
Chương 3: Thử nghiệm sư phạm.


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Dạy học tự chọn ở tiểu học
1.1.1.1. Quan niệm về dạy học tự chọn ở tiểu học
Một trong các định hướng quan trọng về việc đổi mới giáo dục trên thế giới là
tăng cường hơn nữa tính phân hố. Một nền giáo dục có hiệu quả phải là một
nền giáo dục dựa trên nguyên tắc phân hoá – nguyên tắc dựa trên cơ sở sự tồn
tại khách quan những khác biệt của người học về tâm lý, thể chất, năng lực và
những khác biệt về nhu cầu và điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên của các vùng
dân cư khác nhau.
Phân hố dạy học có 2 cấp độ là vi mô và vĩ mô. Cấp độ vi ô được thực hiện ở
từng lớp học và có cùng một nội dung dạy học, người thày cần đưa ra những câu
hỏi, những tình huoongs học tập khác nhau từ dễ ddeens khó, từ thấp đến cao
sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Cấp độ vĩ mô, phân hoá dạy học được
thực hiện chủ yếu là các phân ban và dạy học tự chọn.
Ở hình thức phân ban học sinh được đăng ký vào các ban theo năng lực, hứng
thú và nhu cầu phù hợp với cá nhân. Mỗi ban có chương trình, nội dung, kế
hoạch học tập riêng.
Dạy học tự chọn có các hình thức: phân ban kết hợp giáo trình tự chọn; mơn học
bắt buộ kết hợp môn học tiwj chọn; môn học bắt buộc kết hợp môn học năng
khiếu; trường hợp đặc biệt kết hợp môn học tự chọn bắt buộc và môn học tự
chọn tuỳ ý.

Các quan điểm dạy học hiện đại đều “hướng tới cá nhân”, tác động vào tính chủ
động, kích thích hứng thú tìm tịi, sáng tạo; ln tạo ra cơ hội học tập cho mọi
người. Muốn vậy cần phải đa dạng hố chương trình, nội dung và sử dụng các
phương pháp dạy học tích cực


Hiện nay giáo dục phổ thông ở nhiều nước đang chuyển từ hình thức phân ban
sang hình thức phân hố bằng tự chọn. Điều đó cho thấy phân hố dạy học bằng
hình thức “tự chọn” ngày càng chiếm ưu thế so với hình thức “phân ban” và
đang có triển vọng trở thành hình thức dạy học chủ yếu được sử dụng tại các
trường phổ thông trên thế giới trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Dạy học
phổ thông ở các quốc gia như Anh, Nga, Hungari, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc,…đều cho thấy học tập các môn học ở mức độ cao thì hình thức bài học tự
chọn là phổ biến nhất [1].
Để phát hiện và phát triển các năng lực cá nhân của học sinh thì chương trình
giáo dục phổ thơng phải có hai loại nội dung bao gồm:
(1) Nội dung bắt buộc: Chuẩn bị những kiến thức, kỹ năng cơ bản, phổ thông
cần thiết cho sự hình thành và phát triển tồn diện nhân cách của lớp người lao
động mới, góp phần vào đào tạo nguồn nhân lực của đất nước và là cơ sở để
phát triển năng lực cá nhân của học sinh
(2) Nội dung không bắt buộc với mọi học sinh do người học tự chọn để phát
triển năng lực cá nhân, gọi chung là dạy học tự chọn
Theo quy định cụ thể trong “Mục tiêu, kế hoạch giáo dục tiểu học” đã quy định
cụ thể rằng “Các môn học ở tiểu học bao gồm các môn học bắt buộc và các môn
học tự chọn”. Cụ thể, ở cấp Tiểu học, các môn học bắt buộc gồm: Tiếng Việt,
Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục lối sống, Đạo đức, Tự nhiên và xã hội, Lịch sử và
Địa lý, Khoa học, Tin học và Công nghệ, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật. Môn
học tự chọn là Tiếng dân tộc thiểu số và Ngoại ngữ 1 (đối với lớp 1 và 2)
Khi ban hành chương trình Tiểu học áp dụng thống nhất trong cả nước Bộ GDĐT tiếp tục khẳng định việc khuyến khích dạy học tự chọn từ lớp 3 đến lớp 3 ở
Tiểu học và hạy học tự chọn là dạy học không bắt buộc.

1.1.1.2. Mục tiêu và nguyên tắc dạy học tự chọn ở tiểu học.
Nhu cầu nguyện vọng và sở thích của học sinh là hết sức đa dạng. Trong bối
cảnh giáo dục của Việt Nam thì phải cân nhắc thực hiện để xác định mục đích
cần đạt được của việc dạy học tự chọn. Kinh nghiệm thực tiễn triển khai thí


điểm cho thấy việc dạy học tự chọn giúp cho họ sinh củng cố hoặc nâng cao
kiến thức, kỹ năng theo từng mơn học, đồng thời có thể bổ sung thêm một số nội
dung mới theo như cầu của người học và yêu cầu của cộng đồng.
Dạy học tự chọn ở tiểu học nhằm giúp học sinh
- Phát triển năng lực của cá nhân trong một số lĩnh vực học tập
- Góp phần bồi dưỡng tài năng theo đặc điểm của cấp tiểu học và địa phương
- Đạy được mục tiêu của giáo dục tiểu học
Nguyên tắc chung của dạy học tự chọn ở tiểu học
Chương trình dạy học tự chọn là sự phát triển theo chiều sâu của kiến thức, kỹ
năng cơ bản trong chương trình tiểu học hiện hành .
Tăng cường khả năng vận dụng, thực hành các kiến thức kĩ năng cơ bản để giải
quyết các vấn đề kinh tế xã hội,..gần gũi trong đời sống của học sinh
Tài liệu dạy học tự chọn do giáo viên biên soạn cần được thẩm định và ban hành
theo quy định của Bộ GD- ĐT và do hiệu trưởng của truòng tiểu học lựa chọn .
Để tăng khả năng lựa chọn tài liệu học tập theo đặc điểm cá nhân, nên khuyến
khích có nhiều tài liệu của cùng một chương trình tự chọn
Phương pháp dạy học tự chọn phải phát huy tính chủ động, linh hoạt, sáng taọ,
tư duy phê phán, tinh thần tự học của học sinh.
Phát huy thế mạnh truyền thống của địa phương, đất nước, từng bước tiến kịp
trình độ giáo dục tiểu học của các quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế
giới.
1.1.1.3. Các hình thức và kế hoạch dạy học tự chọn ở tiểu học.
Trong chương trình giáo dục phơ thơng do Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành thì
có hai hình thức dạy học tự chọn đối với bậc Tiểu học cụ thể như sau:

Tự chọn bắt buộc: Học sinh được giáo viên nhà trường hướng dẫn để căn cứ vào
nhu cầu năng lực, điều kiện cụ thể của bản thân mà lựa chọn học tập một môn
(hoặc một số) môn học (hoặc nội dung giáo dục) do nhà trường quy định và taọ
điều kiện học tập theo chương trình dạy học tự chọn bắt buộc nêu trong chương
trình giáo dục ở lớp (hoặc ở cấp tiểu học)


Tự chọn không bắt buộc: Học sinh được giáo viên, nhà trường hướng dẫn để căn
cứ vào nhu cầu, năng lực, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của bản thân mà lựa
chọn hoặc không lựa chọn một (hoặc một số) môn học (hoặc nội dung giáo dục)
do nhà trường tổ chức dạy học theo phương thức tự nguyện, phù hợp với các
quy định của cấp quản lý giáo dục.
1.1.2. Một số vấn đề về dạy học môn Tiếng Việt theo định hướng phát triển
năng lực
1.1.2.1. Khái quát chung về năng lực
Năng lực được định nghĩa theo rất nhiều cách khác nhau như sau:
Phần lớn định nghĩa về năng lực của các tài liệu nước ngoài quy năng lực vào
phạm trù khả năng (ability, capacity, possibility).
- Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Thế giới (OECD) quan niệm năng
lực là “khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một
bối cảnh cụ thể”. [39 tr 21-30]
- Chương trình Giáo dục Trung học bang Québec, Canada năm 2004 xem năng
lực “là một khả năng hành động hiệu quả bằng sự cố gắng dựa trên nhiều nguồn
lực.” [5 tr 21-30]
Denyse Tremblay cho rằng năng lực là “khả năng hành động, thành công và tiến
bộ dựa vào việc huy động và sử dụng hiệu quả tổng hợp các nguồn lực để đối
mặt với các tình huống trong cuộc sống”. [41 tr 21-30]
- Còn theo F. E. Weinert, năng lực là “tổng hợp các khả năng và kĩ năng sẵn có
hoặc học được cũng như sự sẵn sàng của học sinh nhằm giải quyết những vấn đề
nảy sinh và hành động một cách có trách nhiệm, có sự phê phán để đi đến giải

pháp”. [40 tr 21-30]
Ở Việt Nam, nhiều tài liệu nghiên cứu quy năng lực vào những phạm trù khác
và được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau bằng sự lựa chọn loại dấu hiệu
khác nhau. Có thể phân làm hai nhóm chính:
Nhóm thứ nhất lấy dấu hiệu tố chất tâm lí để định nghĩa “Năng lực là một thuộc
tính tích hợp của nhân cách, là tổ hợp các đặc tính tâm lí của cá nhân phù hợp


với những yêu cầu của một hoạt động xác định, đảm bảo cho hoạt động đó có
kết quả tốt đẹp”. [19, tr 23] Năng lực của con người không phải hồn tồn do
bẩm sinh mà có mà chủ yếu do sự tiếp xúc, rèn luyện mà tạo nên. Tâm lí học
còn chia năng lực thành các loại như năng lực chung và năng lực chuyên biệt.
Có thể hiểu, năng lực chung là năng lực cơ bản cần thiết cho nhiều ngành nghề,
nhiều hoạt động như năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp
tác... Còn năng lực chuyên môn là năng lực đặc thù, đặc trưng cho từng ngành
nghề, lĩnh vực như năng lực hội họa, năng lực kinh doanh... Hai loại năng lực
chung và năng lực chuyên biệt có tác động qua lại, quan hệ với nhau.
Nhóm thứ hai lấy dấu hiệu về các yếu tố tạo thành khả năng hành động để định
nghĩa: “Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng,
thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các
tình huống đa dạng của cuộc sống”. Hoặc “Năng lực là khả năng làm chủ những
hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lí
vào thực hiện thành cơng nhiệm vụ hoặc giải quyết hiệu quả vấn đề đặt ra của
cuộc sống”. [19, tr 23]
Dù diễn đạt theo cách nào cũng thấy năng lực có một số đặc điểm chung, cơ bản
là:
- Đề cập tới xu thế đạt được một kết quả nào đó của một cơng việc cụ thể, do
một người cụ thể thực hiện (năng lực học tập, năng lực tư duy, năng lực tự quản
lí bản thân,...). Vậy khơng tồn tại năng lực chung chung.
- Có sự tác động của một cá nhân cụ thể tới một đối tượng cụ thể (kiến thức,

quan hệ xã hội,...) để có một sản phẩm nhất định; do đó có thể phân biệt người
này với người khác.
- Năng lực là một yếu tố cấu thành trong một hoạt động cụ thể. Năng lực chỉ tồn
tại trong quá trình vận động, phát triển của một hoạt động cụ thể. Vì vậy, năng
lực vừa là mục tiêu, vừa là kết quả hoạt động, nó là điều kiện của hoạt động,
nhưng cũng phát triển trong chính hoạt động đó.


Bản chất của năng lực là khả năng của chủ thể kết hợp một cách linh hoạt, có tổ
chức hợp lí các kiến thức, kĩ năng, thái độ, tinh thần tự giác, giá trị, động cơ,
nhằm đáp ứng những yêu cầu phức hợp của một hoạt động, bảo đảm cho hoạt
động đó đạt được kết quả tốt đẹp trong một bối cảnh (tình huống) nhất định.
Trong đó, kiến thức là những hiểu biết tiếp thu được từ sách vở, từ sự tìm tịi
học hỏi, trải nghiệm trong cuộc sống của mình. Sau đó đưa những hiểu biết mà
mình đã lĩnh hội, tiếp thu được vào thực tiễn để tiến hành một hoạt động cụ thể
nào đó gọi là kĩ năng.
Bởi vậy, muốn hình thành nên năng lực của con người cần các yếu tố như kiến
thức, kĩ năng và thái độ tích cực, tự giác tham gia vào hoạt động để hoàn thành
được nhiệm vụ.
Để nắm và sử dụng được một NN thì người sử dụng NN đó phải có vốn từ ngữ
nhất định, nắm được cách sử dụng các từ ngữ đó đúng với các quy tắc ngữ pháp
và vận dụng vốn từ cũng như các quy tắc ngữ pháp đó linh hoạt và phù hợp với
mỗi hồn cảnh giao tiếp cụ thể. NL sử dụng từ ngữ (NL từ ngữ) được hình thành
trong quá trình người học thụ đắc từ vựng của NN đó.
Như đã trình bày ở phần tổng quan, NL từ ngữ là một trong năm tiêu chí để
đánh giá NL NN. Hiện nay chúng tơi chưa tiếp cận được cơng trình nghiên cứu
nào ở Việt Nam có một định nghĩa cụ thể rõ ràng về NL từ ngữ. Tuy nhiên, hầu
hết các cơng trình nghiên cứu về việc DH từ tiếng Việt hiện nay đều đưa ra
những gợi dẫn để nhận diện được NL từ ngữ.
Trong Giáo trình PP dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học, PGS.TS Nguyễn Quang

Ninh đã khẳng định: “Chúng ta nói một người nào đó nắm được NN là chúng ta
khẳng định người đó có một số lượng từ nhất định và biết sử dụng vốn từ đó
đúng với các quy tắc ngữ pháp, với nghi thức lời nói trong hoạt động giao tiếp
của mình [41, tr.81]. Qua đó, tác giả cũng khẳng định “việc dạy từ ngữ và ngữ
pháp ở TH có một tầm quan trọng rất lớn trong việc hình thành cho các em NL
sử dụng từ và sử dụng câu (các quy tắc ngữ pháp)” [41, tr.81].


Tác giả Lê Phương Nga trong PP dạy học Tiếng Việt ở tiểu học II cũng khẳng
định bên cạnh việc cung cấp cho HS vốn từ và những kiến thức sơ giản về câu
thì việc dạy từ và câu ở TH hiện nay cịn giúp HS “ có kĩ năng dùng từ đặt câu
và sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng tình cảm của mình, đồng thời có
khả năng hiểu và sử dụng các kiểu câu của người khác nói ra trong hồn cảnh
giao tiếp nhất định” [46, tr.56].
Trong Bộ tiêu chuẩn đánh giá năng lực tiếng Việt của học viên quốc tế, các tác
giả Nguyễn Chí Hoà, Vũ Đức Nghiệu đã nhận định NL từ vựng là một trong
những hợp phần của năng lực giao tiếp: “năng lực ngôn ngữ là kiến thức và khả
năng sử dụng vốn NN để tạo thành các thông báo. Các tiểu thành tố hợp thành
NL NN là NL từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm, âm vị học, chữ viết và NL phát âm
chuẩn” [30, tr.49]. Trong “Khung tham chiếu chung cho ngôn ngữ Châu Âu:
học tập, giảng dạy, đánh giá, NL từ vựng được định nghĩa là kiến thức và khả
năng sử dụng từ vựng của một ngôn ngữ, bao gồm các yếu tố từ vựng và các yếu
tố ngữ pháp [76, tr.110]. Các yếu tố của từ vựng được các tác giả kết luận bao
gồm: các biểu thức cố định (thành ngữ, tục ngữ,...), cụm từ cố định, cụm từ
khơng cố định, từ loại.
Có thể thấy, do căn cứ vào hướng tiếp cận khác nhau và do phạm vi đối tượng
nghiên cứu khác nhau (dạy học NN với tư cách TMĐ hay với tư cách là ngoại
ngữ hay là NN thứ 2) các nhà nghiên cứu về PP DH tiếng đã đưa ra những góc
nhìn khác nhau về vị trí của NL sử dụng từ ngữ. Từ chương này, để đảm bảo
tính khoa học với năng lực ngơn ngữ đã được trình bày ở phần tổng quan và

đảm bảo tương quan với đặc trưng từ ngữ tiếng Việt, chúng tôi sử dụng thuật
ngữ năng lực từ ngữ để thay thế cho NL sử dụng từ ngữ và NL từ vựng như một
số nhà nghiên cứu đã sử dụng.
Từ định nghĩa về năng lực và NL ngôn ngữ được luận văn quan niệm trong phần
tổng quan cũng như từ những gợi dẫn trên, để thuận tiện và nhất quán cho q
trình nghiên cứu, chúng tơi định nghĩa NL từ ngữ là khả năng người học huy
động vốn từ, các kiến thức từ ngữ (bao gồm các yếu tố từ vựng và yếu tố ngữ


pháp), các kĩ năng sử dụng từ ngữ của một ngơn ngữ cùng với các thuộc tính về
tâm lí, tình cảm,... để tiếp nhận (đọc, nghe) và tạo lập văn bản (nói, viết) và thực
hiện có hiệu quả các tình huống giao tiếp.
Năng lực tiếng Việt được hiểu là năng lực tiếp nhận văn bản và năng lực sản
sinh văn bản(bao gồm văn bản nói và văn bản viết). Năng lực tiếp nhận văn bản
bao gồm nghe - hiểu và đọc - hiểu.
Tuy nhiên, vì quan niệm cho rằng học sinh học tiếng Việt với tư cách là tiếng
mẹ đẻ nên chúng ta thường nặng về phát triển khả năng đọc - hiểu văn bản của
học sinh; trong khi năng lực nghe - hiểu (như nghe để có ý kiến phản hồi hay
nghe người khác đọc, kể câu chuyện và kể lại hoặc tìm hiểu nội dung câu
chuyện chẳng hạn) nhiều khi xuất hiện với tần suất khá lớn trong cuộc sống mỗi
người nhưng lại chưa được chú ý, kể cả trong dạy học và đánh giá.
Năng lực sản sinh văn bản bao gồm năng lực nói, trình bày một vấn đề trước
người khác hay thuyết trình trước đơng người và năng lực viết (viết đúng chính
tả, đúng ngữ pháp và trình bày được một văn bản viết có nội dung đúng mục
đích hoặc theo yêu cầu của người khác như một đề tập làm văn chẳng hạn).
Năng lực tiếp nhận văn bản và sản sinh văn bản thường có quan hệ nhân quả:
người hay chú ý lắng nghe người khác nói hay tập trung đọc văn bản viết thường
có khả năng nói, viết tốt hơn và ngược lại.
1.1.2.2. Vấn đề dạy học môn Tiếng theo định hướng phát triển năng lực ở tiểu học
Môn Tiếng Việt ở tiểu học (trừ phần học vần lớp 1) được phân chia thành các

phân mơn: Tập đọc, Tập viết- Chính tả, Luyện từ và câu và Tập làm văn. Mỗi
phân môn bên cạnh chức năng chung của môn học thường đảm nhận một mục
đích chính. Phân mơn Tập đọc nhằm phát triển kỹ năng đọc - hiểu; phân mơn
Tập viết - Chính tả hình thành kỹ năng viết chính tả (viết đúng chính tả, đúng
tốc độ); phân môn Luyện từ và câu trên cơ sở cung cấp kiến thức sơ giản về từ
và câu nhằm giúp học sinh dùng từ, viết câu, đoạn văn đúng quy tắc ngữ pháp
tiếng Việt; phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp nhằm rèn
luyện kỹ năng tạo văn bản nói và viết cho học sinh.


Đối với các phân môn, mục tiêu kỹ năng trên suy đến cùng là hướng tới phát
triển năng lực sử dụng tiếng Việt cho người học - năng lực tiếp nhận lời nói và
năng lực sản sinh lời nói. Dạy tiếng Việt theo hướng phát triển năng lực chính là
quá trình dạy học hướng tới hình thành và phát triển các năng lực sử dụng tiếng
Việt cho người học trong môi trường học tập và đời sống theo lứa tuổi.
“Lời nói” trong ngơn ngữ bao gồm 2 dạng thức cơ bản, lời nói trực tiếp (nghe
người khác nói trực tiếp) và lời nói gián tiếp (lời nói thơng qua văn bản viết).
Ngồi ra, cịn có các yếu tố bổ sung như ngơn ngữ cơ thể, phục trang, hóa trang,
tranh minh họa,… cũng có thể ảnh hưởng tới chất lượng thơng tin của lời nói.
Từ nhận thức trên, chúng ta cần có định hướng về tổ chức dạy học các phân môn
Tiếng Việt sao cho môn học này hướng tới phát triển tốt nhất các năng lực sử
dụng tiếng Việt đối với học sinh tiểu học.
Trước hết, bàn về dạy học sinh phát triển năng lực tiếp nhận lời nói, bao gồm
năng lực nghe - hiểu và năng lực đọc - hiểu.
Dạy học sinh nghe - hiểu thơng qua q trình dạy học: nghe - nhắc lại lời giảng
của giáo viên hoặc nghe - nhắc lại hoặc nhận xét về lời nói của bạn hoặc nghe
người khác kể một câu chuyên rồi kể lại hoặc giới thiệu cho người khác,… Dạy
kỹ năng nghe hiểu được thực hiện thông qua các phân mơn đặc trưng như Kể
chuyện và có thể thực hiện qua tất cả các hoạt động dạy học môn Tiếng Việt
cũng như các môn học khác.

Các yêu cầu cơ bản về kỹ năng nghe hiểu bao gồm từ rèn luyện học sinh thói
quen tập trung lắng nghe khi người khác nói và có phản hồi chính xác. Tập cho
học sinh có thói quen tập trung nghe, lĩnh hội thơng tin từ lời nói của người khác
và có phản hồi tích cực là yêu cầu quan trọng trong dạy kỹ năng nghe ở trường
tiểu học. Điều này giúp cho học sinh có thói quen lĩnh hội tích cực từ lời nói để
bồi đắp thêm kiến thức cho bản thân mình.


Dạy đọc - hiểu trong môn Tiếng Việt là dạy kỹ năng tiếp nhận văn bản, một
trong những kỹ năng cơ bản và quan trong bậc nhất trong dạy học Tiếng Việt.
Vì nó ảnh hưởng tới chất lượng học tập mơn Tiếng Việt và các mơn học khác;
ảnh hưởng tích cực tới cuộc sống sau này trong một xã hội mà việc “học suốt
đời” được xem là cứu cánh cho sự thành công của mỗi con người.
Dạy đọc - hiểu là dạy học sinh kỹ năng tiếp nhận, lĩnh hội thông tin qua văn bản
(văn bản giấy và văn bản điện tử). Trong thời đại thông tin bùng nổ, vốn tri thức,
vốn sống của con người được tích lũy chủ yếu từ hoạt động đọc. Vì vậy, dạy học
sinh có thói quen đọc, có phương pháp lĩnh hội thơng tin qua hoạt động đọc trở
nên thiết yếu trong dạy Tập đọc. Từ đó, hướng tới văn hóa đọc cho mỗi cá nhân
và cộng đồng.
Hoạt động dạy học môn Tiếng Việt đáp ứng yêu cầu đổi mới GDPT là hoạt
động dạy học góp phần hình thành, phát triển ở học sinh những phẩm chất chủ
yếu và năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học đã được
quy định tại Chương trình tổng thể. Hoạt động dạy học môn Tiếng Việt vận
dụng các phương pháp giáo dục theo định hướng chung là dạy học tích hợp và
phân hóa; đa dạng hố các hình thức tổ chức, phương pháp và phương tiện dạy
học; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập và vận dụng kiến
thức, kĩ năng của học sinh.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Những điểm mới trong chương trình Ngữ Văn – Chương trình GDPT 2018
và chương trình Tiếng Việt lớp 4 – 2018.

Chương trình Giáo dục phổ thơng nói chung, chương trình GDPT mơn Ngữ văn
nói riêng do một tập thể các nhà khoa học biên soạn. Chương trình 2018 được
biên soạn trong hơn 2 năm và công bố vào tháng 12 năm 2018 nên gọi là CT
2018. Chương trình Ngữ văn 2018 sau khi biên soạn xong đã xin ý kiến của các
chuyên gia văn học và ngôn ngữ; lấy ý kiến của tất cả các sở, các trường, nhất là
của các nhà khoa học thuộc các Đại học Sư phạm trong cả nước. Bước tiếp theo,



×