Trường Đại học Hùng Vương
Xây dựng hệ thống bài tập chủ đề phân số
cho học sinh lớp 4 theo hướng tích cực hoá
hoạt động học tập của học sinh
(Khóa luận tốt nghiệp đại học)
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
1
Trường Đại học Hùng Vương
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước đòi hỏi nhà trường
cần phải đào tạo ra những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, có
năng lực giải quyết vấn đề. Một yếu tố quan trọng góp phần đáp ứng yêu cầu nói
trên là nhà trường phải tiến hành đổi mới phương pháp dạy học nhằm "Phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho
người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí
vươn lên".
Để thực hiện nhiệm vụ này cần tổ chức hợp lý quá trình học tập của học
sinh, kích thích nhu cầu, động cơ và hứng thú học tập của học sinh; giúp học sinh
có khát vọng, niềm tin để nắm vững và hoàn thiện tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Tất cả các môn học ở trường tiểu học đều đã được cải cách và đầu tư kĩ
lưỡng để phù hợp với nhiệm vụ của môn học đó đối với sự phát triển của trẻ, đối
với sự hình thành và phát triển tính tích cực học tập trong đó đặc biệt coi trọng là
môn toán.
Toán học là môn học quan trọng đối với học sinh ở mọi cấp học nhất là
đối với học sinh tiểu học. Môn toán không chỉ cung cấp cho các em những kiến
thức cơ bản về các quy luật tính toán trong cuộc sống mà nó còn giúp học sinh
tư duy, suy nghĩ, tạo cho học sinh hứng thú tìm tòi, khám phá, suy luận và phát
triển khả năng tư duy lô gíc, phát triển trí thông minh ở trẻ.
Mục tiêu của môn toán ở tiểu học là nhằm giúp học sinh có những kiến
thức cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên, phân số và số thập phân. Phân số
không chỉ đóng vai trò quan trọng trong mạch kiến thức số học, mà nó còn giữ
vai trò quan trọng trong đời sống thực tiễn. Phân số được giới thiệu cho học sinh
làm quen bắt đầu từ lớp 2 và được đưa vào dạy hoàn chỉnh từ lớp 4.
Hệ thống bài tập về chủ đề phân số được kết cấu trong sách giáo khoa,
nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng về phân số và các phép tính với phân số. Tuy
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
2
Trường Đại học Hùng Vương
nhiên cần xem xét hệ thống bài tập về phân số nh một công cụ góp phần tích cực
hoá hoạt động học tập của học sinh.
Trong thực tế, nhiều giáo viên chỉ chú trọng đến mục tiêu cung cấp kiến
thức, mà chưa chú ý phát huy được tính tích cực trong hoạt động học tập của học
sinh. Việc sử dụng hệ thống bài tập trong quá trình dạy học của giáo viên còn
lúng túng, chưa phát huy được tính tích cực, tự giác và sáng tạo của học sinh.
Xuất phát từ những lý do trên, với mong muốn góp phần nâng cao hiệu
quả dạy học môn toán. Chúng tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài:
“Xây dựng hệ thống bài tập chủ đề phân số cho học sinh lớp 4 theo
hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập chủ đề phân số cho học sinh lớp 4
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả của việc dạy và học môn toán.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về hoạt động học tập và tính tích cực học tập của học sinh tiểu học.
- Tìm hiểu thực trạng dạy và học toán phân số cũng như khả năng tích cực
hóa hoạt động học tập của học sinh thông qua bài tập chủ đề phân số và hệ thống
bài tập chủ đề phân số đang được sử dụng trong quá trình dạy học ở lớp 4.
- Xây dựng và hướng dẫn sử dụng hệ thống bài tập chủ đề phân số cho
học sinh lớp 4 theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Học sinh lớp 4 trường tiểu học Giấy Bãi Bằng, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú
Thọ
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu và làm rõ về tính tích cực học tập và xây dựng hệ thống bài
tập chủ đề phân số ở lớp 4 nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
3
Trng i hc Hựng Vng
5. Gi thuyt khoa hc
Nu xõy dng v s dng c mt h thng bi tp hp lý, kt hp vi
vic i mi phng phỏp dy hc ca giỏo viờn thỡ s phỏt huy c tớnh tớch
cc hc tp ca hc sinh trong quỏ trỡnh dy hc ch phõn s lp 4, gúp
phn nõng cao hiu qu dy hc mụn toỏn.
6. Phng phỏp nghiờn cu
6.1. Nhúm phng phỏp nghiờn cu lý thuyt
Phân tích, so sánh, hệ thống hoá các kiến thức có liên quan đến đề tài:
Tâm lí học, giáo dục học, lý luận giáo dục dạy học, phơng pháp dạy học phân
số ở tiểu học
6.2. Nhúm phng phỏp nghiờn cu thc tin
6.2.1. Phng phỏp quan sỏt
Dự các tiết học trên lớp về môn toán, quan sát cách dạy và học để rút ra
kinh nghiệm cho bản thân
v
khả năng tiếp thu của học sinh và việc
phỏt huy tớnh
tớch cc, ch ng
của trẻ nh thế nào khi học và giải các bài toán về phân số.
6.2.2. Phng phỏp trũ chuyn
Nói chuyện với giáo viên và học sinh để hiểu hơn về các vấn đề cân truyền tải
trong quá trình dạy và những thuận lợi, khó khăn của học sinh trong quá trình học.
Từ đó rút ra khi dạy ngời giáo viên cần phải làm nh thể nào và ngời học cần gì khi
học toán phân số, từ đó tìm ra nguyên nhân và đa ra biện pháp khắc phục.
6.2.3. Phng phỏp iu tra
Sử dụng phiếu điều tra đối với giáo viên và học sinh tiểu học để tìm ra
thực trạng dạy và học cũng nh thực trạng về khả nng tớch cc hoỏt hot ng
hc tp ca hc sinh khi lm cỏc bi tp v phõn s.
6.2.4. Phng phỏp thc nghim s phm
Thử nghiệm một số tiết học sử dụng một số bài tập về phân số theo đúng
cách thức đã đề ra để chứng minh tính đúng đắn của giả thuyết khoa học.
Khúa lun tt nghip Lp K7 HSP Tiu hc A
4
Trường Đại học Hùng Vương
6.2.5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng các công thức thống kê toán học để xử lý điều tra thực trạng và
kết quả thực nghiệm.
7. Đóng góp của luận văn
- Xây dựng hệ thống bài tập chủ đề phân số cho học sinh lớp 4, theo
hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh và hướng dẫn giáo viên cách
sử dụng hệ thống bài tập trong quá trình dạy học toán phân số ở lớp 4.
- Thiết kế một số giáo án minh hoạ có sử dụng bài tập trong hệ thống để
làm cơ sở cho việc vận dụng hệ thống bài tập vào thực tiễn.
8. Dàn ý nội dung đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, đề tài cấu trúc thành ba chương:
Chương 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2. Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập chủ đề phân số theo
hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
Chương 3. Thử nghiệm sư phạm.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
5
Trường Đại học Hùng Vương
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Lịch sử nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Vấn đề phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh trong quá trình
dạy học được các nhà giáo dục học quan tâm ngay từ thời cổ đại. Sôcrat đã đề ra
phương pháp Ơristic buộc người học phải tích cực suy nghĩ để trả lời câu hỏi,
tìm ra chân lý dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Ở Anh, vào những năm 1920 đã hình thành những “Nhà trường mới”, đặt
vấn đề phát triển năng lực trí tuệ của trẻ, khuyến khích các hoạt động do chính
học sinh tự quản. Phương pháp này đã có ảnh hưởng đến Hoa Kì và nhiều nước
châu Âu.
Ở Pháp, sau đại chiến thế giới thứ hai đã ra đời “ Lớp học kiểu mới” tại
một số trường tiểu học thí điểm. Điểm xuất phát của mỗi hoạt động đều tùy
thuộc vào sáng kiến, hứng thú, lợi ích, nhu cầu của học sinh, hướng vào sự phát
triển nhân cách trẻ. Vào những năm 70 của thế kỷ XX ở nước này trong các tài
liệu lý luận dạy học có chú ý khuyến khích giáo viên và học sinh áp dụng các
phương pháp dạy học mới để rèn luyện tính tích cực, chủ động cho học sinh từ
bậc tiểu học đến trung học.
Những năm gần đây, đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng tích cực
hóa người học, với các biện pháp tổ chức cho học sinh hoạt động học tập tích
cực, chủ động đã trở thành xu hướng của nhiều quốc gia trên thế giới.
Theo I.F. Kharlamop: "Tính tích cực trong hoạt động nhận thức là
trạng thái hoạt động của học sinh, được đặc trưng bởi khát vọng học tập, sự cố
gắng trí tuệ với nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức cho chính
mình". [18, tr. 23 - 24].
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội,
hình thành và phát triển tính tích cực học tập cho học sinh là một trong các nhiệm
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
6
Trường Đại học Hùng Vương
vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo những con người năng động, thích ứng và
góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực nh là một điều kiện, đồng
thời là một kết quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.
G.L.Sukina chia tính tích cực ra làm ba cấp độ: [27, tr. 86 - 87].
Cấp độ 1: Tính tích cực bắt chước, tái hiện: Tính tích cực chủ yếu dùa vào
trí nhớ và tư duy tái hiện.
Cấp độ 2: Tính tích cực tìm tòi: Được đặc trưng bằng sự bình phẩm, phê
phán, tìm tòi tích cực về mặt nhận thức, óc sáng kiến, lòng khao khát hiểu biết,
hứng thó học tập. Tính tích cực đó không bị hạn chế trong khuôn khổ những yêu
cầu của giáo viên trong giê học.
Cấp độ 3: Tính tích cực sáng tạo: Là mức độ cao nhất của tính tích cực. Nó
đặc trưng bằng sự khẳng định con đường riêng của mình, không giống với con
đường mà mọi người đã thừa nhận, đã trở thành chuẩn hoá, để đạt được mục đích.
Căn cứ theo các cấp độ của tính tích cực, giáo viên có thể đánh giá được
mức độ tích cực của học sinh. Tuy nhiên, cũng còn hết sức khái quát, muốn cụ
thể và sát thực, giáo viên còn phải căn cứ vào một loạt các chỉ số khác như: Kết
quả học tập sau một tiết, một chương, một phần; thời gian duy trì sự chú ý trong
một giê học; năng lực giải bài tập, khả năng đưa ra những cách giải độc đáo
Từ đó có thể nói tích cực hoá hoạt động học tập là quá trình làm cho
người học trở thành chủ thể tích cực trong hoạt động học tập của chính họ.
1.1.2. Trong nước
Ở Việt Nam vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh đã trở thành vấn đề quan trọng, cấp bách của nền giáo
dục nước ta hiện nay. Đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu, nhiều bài báo và tài
liệu đã được công bố, xuất bản. Điển hình là công trình nghiên cứu của các tác
giả Nguyễn Kỳ với cuốn “ Phương pháp giáo dục tích cực” - NXB Giáo dục
năm 1994 đã tìm hiểu, phân tích và đưa ra những phương pháp dạy và học nhằm
phát huy được tính tích cực của học sinh.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
7
Trường Đại học Hùng Vương
Tác giả Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt trong cuốn Giáo dục học - NXB
Giáo dục Hà Nội năm 1978 đã nêu lên ý nghĩa và việc sử dụng một số biện pháp
nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh như: sử dụng đồ dùng trực
quan, dạy học nêu vấn đề
Tác giả Bùi Văn Huệ trong cuốn Tâm lí học - NXB Đại học quốc gia, Hà
Nội năm 2000 đã nêu lên sự lĩnh hội trí thức của học sinh là quá trình hiểu biết
bản chất sự vật hiện tượng và vận dụng tri thức vào những tình huống khác
nhau, trong đó ông nhấn mạnh đến việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
Tác giả Đặng Thành Hưng trong tác phẩm Dạy học hiện đại lí luận - biện
pháp- kĩ thuật - NXB Đại học quốc gia Hà Nội năm 2002 đã nêu lên một số kĩ
thuật sử dụng và khai thác các phương tiện dạy học trên lớp để phát huy tính tích
cực trong học tập của học sinh.
Còn trong cuốn sách Quá trình dạy- tự học do Nguyễn Cảnh Toàn,
Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường biên soạn năm 2001 đã nhấn mạnh việc
phát huy tính tích cực của người học là đề cao quá trình tự học, tự nghiên cứu.
Tài liệu này đã chỉ rõ: “ Quá trình dạy- tự học là kết quả sự kết hợp truyền thống
hiếu học, tự học và tư tưởng lấy việc học làm gốc của dân tộc với tư tưởng và
thành tựu của giáo dục thế giới hiện đại, đặc biệt là các học thuyết về việc học,
về các phương pháp giáo dục hiện đại lấy người học làm trung tâm”.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Bảo: "Tính tích cực nhận thức - học tập vận
dụng đối với học sinh đòi hỏi phải có những nhân tố, tính lựa chọn thái độ đối với
đối tượng nhận thức, đề ra cho mình mục đích, nhiệm vụ cần phải giải quyết sau
khi đã lựa chọn đối tượng trong hoạt động sau này nhằm giải quyết vấn đề: Hoạt
động mà thiếu những nhân tố đó thì chỉ có thể nói đó là sự thể hiện trạng thái
hành động nhất định của con người mà không thể nói là tính tích cực nhận thức".
Trong bài viết: “Một số biện pháp góp phần tích cực hoá hoạt động của
học sinh, khi dạy khái niệm phân số và các phép tính về phân số” (TCGD - Số 3
- 1999), tác giả Trần Ngọc Lan đã nêu ra một số biện pháp khi dạy khái niệm và
các phép tính về phân số như: Trò chơi học tập, phương pháp thảo luận nhóm,
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
8
Trường Đại học Hùng Vương
phương pháp trực quan và nêu ra các hình thức tổ chức dạy học khác nhau để
giúp giáo viên phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy và học.
Ngoài ra, ở nước ta cũng đã có nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà giáo dục
biên soạn những cuốn sách giáo khoa, sách bài tập toán thông thường và nâng
cao về toán nói chung và toán phân số nói riêng với hệ thống bài tập tương đối
đa dạng phục vụ cho quá trình dạy và học như: Sách giáo khoa toán 4, vở bài
tập toán 4, các sách toán nâng cao, sách bồi dưỡng toán 4, cách sách hướng dẫn
dạy học phân số đã và đang được sử dụng trong quá trình dạy và học.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Hoạt động
Theo A.N. Leonchiev: một hoạt động bao giờ cũng nhằm vào đối
tượng nhất định. Hai hoạt động khác nhau được phân biệt bởi hai đối tượng khác
nhau". Hoạt động gắn liền với động cơ và mục đích. Không thể có hoạt động
không có động cơ, mục đích. Một hoạt động bao gồm nhiều hành động thành
phần với các mục đích riêng. Thực hiện xong các hoạt động thành phần thì mục
đích chung của cả hoạt động cũng được thực hiện”. [28, tr. 67].
Quá trình chủ thể chiếm lĩnh từng mục đích gọi là hành động. Chủ thể chỉ
có thể đạt mục đích bằng những phương tiện (điều kiện) xác định, mỗi phương
tiện quy định cách thức hành động gọi là thao tác.
Có thể mô tả tóm tắt qua sơ đồ sau :
Đối tượng Chủ thể
Động cơ Hoạt động
Mục đích Hành động
Điều kiện Thao tác
( phương tiện )
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
9
Trường Đại học Hùng Vương
Giáo dục thực chất là cách tổ chức quá trình hoạt động liên tục của người
học mà đối với trẻ em ở trường tiểu học, đó là hoạt động học tập. Dạy cho học
sinh môn toán là dạy các hoạt động toán học mà cơ bản là giải toán. Nh vậy,
hoạt động toán học vừa là mục đích vừa là nhiệm vụ của dạy học toán trong nhà
trường. Giáo viên nên biết rõ một đối tượng lúc nào là mục đích cần đạt, lúc nào
là phương tiện để đạt mục đích khác.
1.2.2. Hoạt động học tập
Hoạt động học là một trong những hoạt động của con người, vì thế nó
cũng tuân theo cấu trúc tổng quát của hoạt động nói chung. Học sinh tiến hành
hoạt động học nhằm lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội, được thực hiện dưới dạng
những tri thức, kỹ năng.
Theo V.A.Krutexki cấu trúc của hoạt động học tập bao gồm các giai đoạn sau:
+) Giai đoạn định hướng tìm tòi, nhận thức rõ ràng về nhiệm vụ cụ thể cần giải quyết.
+) Giai đoạn lập kế hoạch thực hiện, chọn lùa biện pháp hành động hợp lý nhất.
+) Giai đoạn thực hiện.
+) Giai đoạn kiểm tra kết quả, sửa chữa sai lầm và đánh giá. [20, tr. 112].
Theo tâm lý học dạy- học hiện đại: Hoạt động học tích cực được đặc
trưng bởi nhu cầu, hứng thú và tính tự giác chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng
chuyển biến thái độ. Đối tượng của hoạt động học là tri thức mà người học cần.
Trên cơ sở đó hình thành kỹ năng, hành vi, thái độ đúng đắn. Mục tiêu mà hoạt
động học hướng tới là chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo để hình thành nhân
cách. Do đó, việc học không thể thực hiện được nếu học sinh chỉ học tập một
cách thụ động, máy móc, mà họ phải tích cực bằng chính ý thức tự giác, bằng
năng lực, trí tuệ của bản thân.
Về khía cạnh tâm lý nhận thức, hoạt động học là hoạt động được điều
khiển một cách có ý thức, nhằm tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, hướng tới làm
thay đổi chính bản thân người học. Nội dung của tri thức thường không mới đối
với nhân loại, nhưng khi chủ thể chiếm lĩnh được, thì nhờ sự chiếm lĩnh này,
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
10
Trường Đại học Hùng Vương
tâm lý của chủ thể đã thay đổi và phát triển. Sự tiếp thu này có tính tích cực cao
sẽ hình thành được phương pháp tự học cho học sinh. Nó có vai trò đặc biệt
quan trọng giúp các em biết tự học suốt đời. Muốn cho việc tự học đạt kết quả
cao, người học phải biết cách học, người dạy phải ý thức được những tri thức
cần được hình thành, những kỹ năng, kỹ xảo cần được phát triển ở học sinh.
1.2.3. Tính tích cực
Theo từ điển Tiếng Việt, tích cực là một trạng thái tinh thần có tác dụng
khẳng định và thúc đẩy sự phát triển.
Theo I.F. Kharlamop: "Tính tích cực trong hoạt động nhận thức là trạng thái
hoạt động của học sinh, được đặc trưng bởi khát vọng học tập, sự cố gắng trí tuệ
với nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức cho chính mình".[18, tr. 74].
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội.
Khác với động vật, con người không chỉ tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên,
mà còn chủ động sản xuất ra những của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại, phát
triển của xã hội. Đồng thời sáng tạo ra nền văn hoá của mỗi thời đại, chủ động cải
biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội.
Hình thành và phát triển tính tích cực học tập cho học sinh là một trong
các nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo những con người năng động,
thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực nh là một
điều kiện, đồng thời là một kết quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình
giáo dục.
1.2.4. Tích cực hoá hoạt động học tập
Tính tích cực của con người biểu hiện trong hoạt động, đặc biệt trong
những hoạt động chủ động của chủ thể. Học tập là hoạt động chủ đạo của lứa
tuổi đi học. Tính tích cực trong hoạt động học tập về thực chất - là tích cực nhận
thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá
trình chiếm lĩnh tri thức.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
11
Trường Đại học Hùng Vương
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Bảo: "Tính tích cực nhận thức là thái độ cải
tạo của chủ thể đối với khách thể, thông qua sù huy động ở mức độ cao các chức
năng tâm lý nhằm giải quyết những vấn đề học tập - nhận thức". [2, tr. 31].
Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, quá trình nhận
thức trong học tập không nhằm phát hiện ra những điều loài người chưa biết, mà
nhằm lĩnh hội những tri thức mà loài người đã tích luỹ được. Tuy nhiên, trong
học tập học sinh cũng phải "khám phá" ra những hiểu biết đối với bản thân. Học
sinh sẽ hiểu những gì đã nắm được thông qua hoạt động chủ động, nỗ lực của
chính mình.
Tính tích cực nhận thức trong học tập liên quan trước hết đến động cơ học
tập. Động cơ tạo ra hứng thú, hứng thú là tiền đề của tính tự giác. Hứng thú và
tự giác là hai yếu tố tâm lý tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư
duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong
cách học tập tích cực độc lập, sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng
động cơ học tập.
Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: Hăng hái trả lời các
câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của
mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn
đề chưa rõ; chủ động vận dụng kiến thức kỹ năng đã học để nhận thức vấn đề
mới; tập chung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không
nản trước những tình huống khó khăn.
G.L.Sukina chia tính tích cực ra làm ba cấp độ: [28, tr. 67].
Cấp độ 1: Tính tích cực bắt chước, tái hiện: Tính tích cực chủ yếu dựa vào
trí nhớ và tư duy tái hiện.
Cấp độ 2: Tính tích cực tìm tòi: Được đặc trưng bằng sự bình phẩm, phê
phán, tìm tòi tích cực về mặt nhận thức, óc sáng kiến, lòng khao khát hiểu biết,
hứng thú học tập. Tính tích cực đó không bị hạn chế trong khuôn khổ những yêu
cầu của giáo viên trong giờ học.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
12
Trường Đại học Hùng Vương
Cấp độ 3: Tính tích cực sáng tạo: Là mức độ cao nhất của tính tích cực. Nó
đặc trưng bằng sự khẳng định con đường riêng của mình, không giống với con
đường mà mọi người đã thừa nhận, đã trở thành chuẩn hoá, để đạt được mục đích.
Căn cứ theo các cấp độ của tính tích cực, giáo viên có thể đánh giá được
mức độ tích cực của học sinh. Tuy nhiên, cũng còn hết sức khái quát, muốn cụ
thể và sát thực, giáo viên còn phải căn cứ vào một loạt các chỉ số khác như: Kết
quả học tập sau một tiết, một chương, một phần; thời gian duy trì sự chú ý trong
một giờ học; năng lực giải bài tập, khả năng đưa ra những cách giải độc đáo
Từ đó có thể nói tích cực hoá hoạt động học tập là quá trình làm cho
người học trở thành chủ thể tích cực trong hoạt động học tập của chính họ.
1.3. Những căn cứ để xây dựng hệ thống bài tập chủ đề phân số cho học
sinh lớp 4
1.3.1. Mục tiêu, nhiệm vụ môn toán ở tiểu học
1.3.1.1. Mục tiêu dạy học toán ở tiểu học
Dạy học môn toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh :
+) Có những kiến thức cơ sở ban đầu về số học các số tự nhiên, phân số,
các số thập phân, các đại lượng cơ bản và một số yếu tố hình học đơn giản .
+) Hình thành và rèn luyện kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán
có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống .
+) Bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quát
hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả
năng suy luận và biết diễn đạt đúng (bằng lời, bằng viết) các suy luận đơn giản
góp phần rèn luyện phương pháp học tập, làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo.
Ngoài những mục tiêu trên, cũng nh các môn học khác ở tiểu học, môn toán góp
phần hình thành và rèn luyện các phẩm chất, các đức tính cần thiết của người lao
động trong xã hội hiện đại. [9, tr. 20].
1.3.1.2. Nhiệm vụ dạy học môn toán ở tiểu học
Môn toán ở tiểu học có nhiệm vụ giúp học sinh:
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
13
Trường Đại học Hùng Vương
+) Hình thành hệ thống các kiến thức cơ bản, có nhiều ứng dụng trong đời
sống về số học các số tự nhiên, các số thập phân.
+) Có những hiểu biết ban đầu thiết thực nhất về các đại lượng cơ bản nh:
Độ dài, khối lượng, thời gian, diện tích, dung tích, tiền Việt Nam và một số đơn
vị đo thông dụng nhất của chúng. Biết sử dụng các dụng cụ để thực hành đo
lường, biết sử dụng các đơn vị đo đơn giản.
+) Rèn luyện để nắm chắc các kỹ năng thực hành tính nhẩm, tính viết về
bốn phép tính với các số tự nhiên, số thập phân, các số đo đại lượng.
+) Biết nhận dạng và bước đầu biết phân biệt một số các hình hình học
thường gặp. Biết tính chu vi, diện tích thể tích một số hình. Biết sử dụng các
dụng cụ đơn giản để đo và vẽ một số hình.
+) Có những hiểu biết ban đầu, sơ giản về dùng chữ thay số, về biểu thức
toán học, về phương trình và bất phương trình đơn giản nhất bằng phương pháp
phù hợp với tiểu học.
+) Biết cách giải và trình bày bài giải với các bài toán có lời văn. Nắm
chắc, thực hiện đúng quy trình giải toán. Bước đầu biết giải các bài toán bằng
các cách khác nhau.
+) Thông qua các hoạt động học tập toán, để phát triển đúng mức một số
khả năng trí tuệ và thao tác tư duy quan trọng nhất như: So sánh, phân tích, tổng
hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá, cụ thể hoá, lập luận có căn cứ, bước đầu làm
quen với các chứng minh đơn giản.
+) Hình thành tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch có
kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý chí vượt khó khăn, cẩn
thận, kiên trì tự tin.
1.3.2.Nội dung dạy học toán chủ đề phân số ở lớp 4
1.3.2.1. Mục tiêu dạy học toán chủ đề phân số ở lớp 4
Dạy học chủ đề phân số ở lớp 4 nhằm giúp học sinh:
+ Có những tri thức ban đầu về cách nhận biết phân số, biết đọc và viết
phân số; tính chất cơ bản của phân số; biết cách rút gọn phân số và tìm ra phân
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
14
Trường Đại học Hùng Vương
số tối giản; biết cách quy đồng mẫu số các phân số và so sánh các phân số cùng
mẫu số hoặc khác mẫu số.
+ Hình thành kỹ năng thực hành 4 phép tính với phân số và giải những bài
tập có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống.
+ Bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng trừu tượng hoá, khái quát
hoá, kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập, hình thành năng lực làm
việc chủ động, linh hoạt, sáng tạo của học sinh.
1.3.2.2. Nội dung dạy học toán chủ đề phân số ở lớp 4
Chủ đề phân số trong môn toán ở lớp 4 có những nội dung sau
* Phân số. Các phép tính về phân số
- Giới thiệu khái niệm ban đầu về phân số; đọc viết, so sánh các phân số,
phân số bằng nhau.
- Phép cộng, phép trừ có cùng hoặc không cùng mẫu số (trường hợp đơn
giản: mẫu số của tổng hoặc hiệu không có quá ba chữ số).
-Tính chất giao hoán và tính chất kết hợp của phép cộng các phân số.
- Giới thiệu quy tắc nhân phân số với phân số, nhân phân số với số tự nhiên
(trường hợp đơn giản: mẫu số của tổng hoặc hiệu không có quá ba chữ số).
- Tính chất giao hoán và tính chất kết hợp của phép nhân các phân số.
Giới thiệu quy tắc chia phân số cho phân số, chia phân số cho số tự nhiên khác 0.
- Giới thiệu quy tắc nhân một tổng hai phân số với một phân số.
- Thực hành tính: Tính nhẩm về cộng, trừ hai phân số có cùng mẫu số, tử
số của tổng hoặc hiệu không có quá hai chữ số. Tính nhẩm về nhân phân số với
phân số hoặc với số tự nhiên, tử số và mẫu số của tích không có quá hai chữ số.
- Tính giá trị biểu thức với các phân số đơn giản.
* Các bài toán có lời văn liên quan đến phân số
+ Tìm phân số của một số
+ Tìm hai số biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ số của chúng.
1.3.2.3. Cấu trúc của hệ thống bài tập chủ đề phân số trong môn toán ở lớp 4
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
15
Trường Đại học Hùng Vương
Hệ thống bài tập chủ đề phân số quán triệt các tư tưởng của toán học hiện
đại và phù hợp với quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh tiểu học. Các bài tập
về khái niệm phân số giúp học sinh có những hiểu biết ban đầu về phân số; việc
giải các bài tập về tính chất cơ bản của phân số giúp học sinh có kỹ năng để tìm
ra các phân số bằng nhau rồi từ đó vận dụng nội dung kiến thức này để giải các
bài tập về rút gọn phân số; việc coi trọng đúng mức các bài tập về quy đồng mẫu số
giúp các em có kỹ năng cơ bản để giải các bài tập về so sánh phân số và phép cộng
phép trừ với phân số. Các bài toán có lời văn liên quan đến phân số có nội dung
gần gũi với cuộc sống của trẻ em, giúp các em có điều kiện vận dụng những kiến
thức đã học vào thực tế, đều có tác dông quán triệt tư tưởng của toán học hiện đại
và phù hợp với quá trình lĩnh hội tri thức về chủ đề phân số của học sinh tiểu học.
Hệ thống bài tập chủ đề phân số của các tài liệu đang được sử dụng trong
quá trình học tập hiện nay đã giúp học sinh ôn tập, củng cố nội dung kiến thức
đã học; nó là phương tiện cơ bản để giúp các em rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và
vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, trong quá
trình điều tra thực tế (bằng cách phỏng vấn một số giáo viên đang trực tiếp giảng
dạy ở lớp 4). Chúng tôi nhận thấy rằng:
+ Hệ thống bài tập cần phải tạo điều kiện cho thầy trò tổ chức những hoạt
động tích cực, tăng thêm loại bài tập nhằm phát triển trí thông minh cho học sinh.
Bởi vì, trong các hệ thống bài tập đang được sử dụng trong quá trình dạy học hiện
nay, có bài tập còn đơn giản, chưa đòi hỏi học sinh phải phát huy khả năng tư duy
của mình trong quá trình giải bài tập.
Ví dụ: Viêt số thích hợp vào ô trống :
a)
2 2 3
5 5 3
×
= =
×
b)
7 4 2
4 7 2
×
= =
×
Khi giải bài tập này, học sinh chỉ cần tính kết quả của phép nhân ở trên tử số
và mẫu số rồi ghi vào ô trống, mà chưa cần phải tái hiện lại nội dung kiến thức đã
học về tính chất của phân số.
+ Một số bài tập chưa phù hợp với quá trình phát triển tư duy của học sinh.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
16
Trường Đại học Hùng Vương
Ví dụ: Trong các phân số dưới đây, phân số nào bằng
2
3
? :
20 8 8
; ;
30 9 12
Bài tập này có 3 phân số, trong đó có 2 phân số bằng
2
3
, mà bài tập chỉ yêu
cầu tìm phân số nào bằng
2
3
. Vì vậy, khi giải bài tập học sinh nghĩ rằng: Các em
chỉ cần tìm được 1 phân số bằng
2
3
là đủ.
+ Các nội dung trong hệ thống bài tập đưa ra chưa cân đối, có nội dung đưa
ra số lượng bài tập quá nhiều hoặc quá ít.
Chẳng hạn: Phần rút gọn phân số [11, tr33]), chỉ có 3 bài tập. Trong khi đó,
việc vận dụng kiến thức về rút gọn phân số để giải các bài tập về các phép tính với
phân số là rất nhiều. Chính vì vậy mà trong phần rút gọn phân số cần đưa thêm một
số bài tập, để học sinh có được kỹ năng, kỹ xảo đối với về rút gọn phân số. Từ đó,
các em có vận dụng một cách thành thạo kiến thức về rút gọn phân số, trong quá
trình giải bài tập.
+ Một số bài tập đưa ra chủ yếu nhằm mục đích cung cấp kiến thức và rèn
luyện kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh; chưa thực sự chú ý đến các bài tập phát huy
tính tích cực của học sinh.
Ví dụ: Quy đồng mẫu số các phân số sau [10, tr116]
a)
7
9
và
2
3
b)
4
10
và
11
20
c)
9
25
và
16
75
Bài tập này chủ yếu nhằm mục đích rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh.
Bởi vì, mẫu số của các cặp phân số này đều có đặc điểm chung là mẫu số của phân
số này, gấp mẫu số của phân số kia một số lần. Nh vậy, khi giải bài tập này, học
sinh chỉ rèn được kỹ năng quy đồng mẫu số theo một cách duy nhất. Đó là quy
đồng mẫu số bằng cách: cùng nhân tử số và mẫu số của phân số này lên một số lần,
còn phân số kia thì giữ nguyên
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
17
Trường Đại học Hùng Vương
Chính vì vậy, trong nội dung dạy học chủ đề phân số cần đưa ra một hệ
thống bài tập mới để tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh.
1.3.3. Nhận thức hiện đại về quá trình dạy học
Theo nghiên cứu của các nhà giáo dục học, thì quá trình dạy học có những
tính chất sau:
+ Trước hết quá trình dạy học, phải xem như là một quá trình nhận thức:
"Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về
thực tiễn". Điều đáng lưu ý trong quá trình nhận thức của học sinh là nhận thức
những cái mà nhân loại đã biết, nên người thầy có thể biên soạn tài liệu hướng
dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức với quá trình mà loài người đã kiểm tra. Do có
đặc điểm này, nên chúng ta có thể vận dụng để xây dựng hệ thống bài tập, theo
hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh.
+ Quá trình dạy học là một quá trình tâm lý: Trong quá trình học tập, học
sinh phải cảm giác, tri giác, vận dụng trí nhớ, ý thức, Vấn đề động cơ học tập,
hứng thó nhận thức, có ý nghĩa rất quan trọng đến hiệu quả của quá trình dạy
học. Để đảm bảo quá trình dạy học đạt hiệu quả, giáo viên phải đặc biệt chú ý
tới quá trình tâm lý này.
Nh vậy, căn cứ vào quá trình nhận thức hiện đại về quá trình dạy học, hệ
thống bài tập cần phản ánh tính tích cực sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển các
chức năng tâm lý. Đặc biệt là cần tạo ra nhu cầu, hứng thó trong hoạt động học
tập của học sinh.
1.3.4. Đặc điểm tư duy của học sinh lớp 4
Đối với học sinh lớp 4, giai đoạn cuối của bậc tiểu học, các em đã hình
thành cho mình những năng lực học tập, được tạo bởi các thành tố như cách làm
việc trí óc, với những cơ sở ban đầu theo kiểu tư duy khoa học, tư duy lí luận.
Bản thân các em đã hình thành cho mình năng lực thực hiện các quá trình tâm lí
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
18
Trường Đại học Hùng Vương
có chủ định, các kĩ năng công cụ như kĩ năng sử dụng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ
viết, kĩ năng tính toán đã trở nên thành thạo hơn.
Căn cứ vào đặc điểm phát triển tư duy của học sinh, mà chúng ta có thể xây
dựng các dạng bài tập, đòi hỏi học sinh phải phát huy tính tích cực chủ động và khả
năng tư duy khoa học để giải quyết các tình huống trong bài học.
1.3.5. Vị trí chức năng của bài tập toán phân số
Hoạt động học tập của học sinh trong các giờ học toán có thể diễn
ra dưới nhiều hình thức khác nhau: Nghe lời giảng giải của giáo viên, trả lời câu
hỏi, trao đổi thảo luận, đọc sách giáo khoa, Nhưng hoạt động cơ bản nhất, chủ
đạo nhất vẫn là giảt bài tập toán. Vì vậy, bài tập toán có vị trí và chức năng quan
trọng trong quá trình dạy học bộ môn toán.
1.3.5.1. Vị trí của bài tập toán phân số
Bài tập toán có vị trí quan trọng, nó là phương tiện rất có hiệu quả, để
giúp học sinh nắm vững tri thức, phát triển tư duy, hình thành kỹ năng, kỹ xảo
và ứng dụng toán học vào thực tiễn. Hoạt động giải bài tập toán học là điều kiện
để thực hiện tốt các mục tiêu dạy học toán.
1.3.5.2. Chức năng của bài tập toán phân số
Trong thực tiễn dạy học, bài tập toán học được sử dụng với những dụng ý
khác nhau. Mỗi bài tập có thể dùng để tạo điều kiện xuất phát, để gợi động cơ
học tập, để vận dụng kiến thức vào thực tiễn, hoặc để ôn tập, kiểm tra kiến thức
của học sinh, Tuy nhiên, mỗi bài tập toán cụ thể, được đưa ra ở một thời điểm
nào đó, trong quá trình dạy học đều chứa đựng một cách tường minh hay hàm
Èn những chức năng khác nhau. Những chức năng này, đều hướng đến việc thực
hiện các mục đích dạy học.
Bài tập toán học có những chức năng sau:
+ Chức năng dạy học: Hình thành củng cố cho học sinh những tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo khác nhau của quá trình dạy học.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
19
Trường Đại học Hùng Vương
+ Chức năng giáo dục: Nhằm hình thành cho học sinh thế giới quan duy
vật biện chứng, tạo hứng thó học tập, niềm tin vào chân lý và giáo dục phẩm
chất đạo đức của người lao động.
+ Chức năng phát triển: Phát triển năng lực tư duy của học sinh, đặc biệt là
rèn luyện những thao tác trí tuệ, hình thành khả năng tư duy khoa học.
+ Chức năng kiểm tra: Đánh giá kết quả quá trình dạy- học của giáo viên
và học sinh. Đánh giá khả năng tiếp thu kiến thức và trình độ phát triển tư duy
của học sinh.
Nh vậy, hiệu quả của việc dạy học toán sẽ phụ thuộc vào việc khai thác và
thực hiện một cách đầy đủ, các chức năng khác nhau của bài tập toán, mà người
thầy đã thiết, kế xây dựng.
1.4. Tìm hiểu thực trạng về tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy
và học toán ở nhà trường tiểu học hiện nay
1.4.1. Mục đích, đối tượng, nội dung, phương pháp điều tra
1.4.1.1. Mục đích điều tra
Mục đích điều tra của chúng tôi là tìm hiểu thực trạng về tính tích cực của
học sinh trong hoạt động học tập, để từ đó đưa ra một hệ thống bài tập theo
hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh.
1.4.1.2. Đối tượng điều tra
Đối tượng điều tra của chúng tôi trong đề tài này là giáo viên tiểu học đang
công tác tại trường tiểu học Giấy Bãi Bằng, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
1.4.1.3. Nội dung điều tra
Điều tra hiểu biết của giáo viên về tính tích cực của học sinh trong học
tập, bao gồm những vấn đề sau:
- Những dấu hiệu biểu hiện tính tích cực của học sinh trong học tập
- Quan hệ giữa tính tích cực và nhu cầu.
- Quan hệ giữa tính tích cực và động cơ.
- Quan hệ giữa tính tích cực và hứng thú.
- Thái độ hợp lý đối với vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
20
Trường Đại học Hùng Vương
( nội dung phiếu điều tra được chúng tôi trình bày ở phần phụ lục 1, trang 1).
1.4.1.4. Phương pháp điều tra.
Chúng tôi điều tra thông qua phiếu điều tra. Phiếu điều tra gồm 10 câu hỏi
tương ứng với từng nội dung đã nêu trên và được thiết kế dưới dạng trắc nghiệm
lựa chọn. Các câu hỏi và các phương án trả lời được trình bày rõ ràng, đảm bảo
tính lôgic của hệ thống câu hỏi, tính khách quan của các kết quả nghiên cứu.
Tổng số phiếu phát ra là 10 phiếu, gửi tới giáo viên đang trực tiếp dạy học
ở trường tiểu học Giấy Bãi Bằng, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Số phiếu thu
lại là 10 phiếu. Những số liệu thu được trong phiếu điều tra được chúng tôi xử lý
và thống kê bằng phương pháp toán học, trên cơ sở đó khái quát được thực
trạng. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp quan sát, phương pháp đàm
thoại để hỗ trợ cho phương pháp điều tra này.
1.4.1.5. Kết quả điều tra.
Dựa vào các phương pháp điều tra nêu trên, chúng tôi đã thu được kết quả
nghiên cứu thực trạng hiểu biết của giáo viên về tính tích cực của học sinh trong
học tập được tổng hợp lại như sau:
Bảng 1.1: Tổng hợp kết quả điều tra thực trạng
Câu hỏi Lựa chọn của giáo viên
a (%) b (%) c (%)
1 80 20 0
2 70 30 0
3 90 10 0
4 70 10 20
5 70 30 0
6 80 20 0
7 60 30 0
8 80 10
10
9 90 10 0
10 70 10
30
Dựa trên kết quả điều tra, chúng tôi nhận thấy rằng đa số giáo viên đã nhận
thức đúng về tầm quan trọng của việc tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
21
Trường Đại học Hùng Vương
và tìm ra những biện pháp, cách thức khác nhau để phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh trong quá trình dạy học.
Đa số giáo viên đã có nhận thức đúng về dấu hiệu, nhu cầu cũng như động cơ
và hứng thú của tính tích cực trong quá trình học tập của học sinh. Trong câu hỏi 3,
có 90% số giáo viên có nhận thức đúng, họ hoàn toàn đồng ý với ý kiến cho rằng:
"Nhu cầu tìm tòi sẽ giúp học sinh học tập tích cực". Có 60% giáo viên đồng ý với ý
kiến cho rằng: "Nội dung phương pháp dạy học toán hiện nay không đáp ứng đúng
nhu cầu học tập của học sinh". Khi trao đổi với chúng tôi một số giáo viên, có ý kiến
cho rằng: "Chương trình và sách giáo khoa cần phải giảm bớt khối lượng kiến thức nhồi
nhét, tạo điều kiện cho thầy trò tổ chức những hoạt động tích cực, giảm bớt những bài
tập tái hiện, tăng thêm loại bài tập nhằm phát triển trí thông minh cho học sinh".
Hầu hết giáo viên đã sử dụng thêm các bài tập về phân số sưu tầm thêm trên
mạng hoặc một số sách báo để phục vụ thêm cho việc tích cực hóa hoạt động học
tập của học sinh nhưng những bài tập luyện tập thêm này còn chưa hệ thống và
chưa đủ cả về số lượng và chất lượng.
Thông qua kết quả này, chúng tôi nhận thấy rằng: Hầu hết các đồng chí giáo
viên đều có nhận thức đúng về tính tích cực và hiểu được mối quan hệ giữa tính tích
cực với động cơ học tập của học sinh.
Kết quả điều tra cho thấy: Hầu hết giáo viên đều có nhận thức đúng về
tính tích cực của học sinh trong học tập và đã biết cách vận dụng nó vào quá
trình giảng dạy. Tuy nhiên, hiệu quả của việc vận dụng là chưa cao, nhiều giáo
viên còn lúng túng trong việc sử dụng hệ thống bài tập. Đây cũng là căn cứ để
chúng tôi tiến hành áp dụng những kết quả nghiên cứu vào thực nghiệm sư
phạm.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
22
Trường Đại học Hùng Vương
Tiểu kết chương 1
Ở chương 1 chúng tôi đã trình bày những cơ sở lí luận về việc xây dựng hệ
thống bài tập chủ đề phân số cho học sinh lớp 4 theo hướng tích cực hóa hoạt
động học tập của học sinh. Đề tài đã phân tích lí luận về bản chất của quá trình
dạy học toán ở tiểu học nói chung và dạy toán chủ đề phân số nói riêng cũng
như đưa ra những căn cứ để xây dựng hệ thống bài tập phân số theo hướng tích
cực hóa oạt động học tập của học sinh. Chúng tôi cũng đã tiến hành tìm hiểu
thực trạng về việc phát huy tính tích cực của học sinh thống qua việc dạy và học
toán phân số ở nhà trường tiểu học hiện nay. Từ những nội dung trên, chúng tôi
đã có những cơ sở khoa học để thực hiện chương 2 của đề tài.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
23
Trường Đại học Hùng Vương
Chương 2
XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP CHỦ ĐỀ PHÂN SỐ
THEO HƯỚNG TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG
HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
2.1. Yêu cầu của việc xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập theo hướng tích
cực hoá hoạt động học tập của học sinh
2.1.1. Cơ sở phân loại của hệ thống bài tập trong dạy học môn toán
Hệ thống được hiểu nh là một tập hợp các yếu tố liên kết với nhau bằng
những quan hệ đa dạng và tạo nên một thể thống nhất, toàn vẹn.
Vì vậy, hệ thống bài tập được hiểu
nh
là một tập hợp các bài tập có liên
quan mật thiết với nhau và cùng đáp ứng một mục tiêu dạy học nhất định. Ở đây,
chúng ta xem xét một hệ thống bài tập mở, nghĩa là một hệ thống mà chúng ta có
thể bổ xung mở rộng thêm các loại bài tập thành phần. Ngoài ra, cũng cần nhấn
mạnh rằng hệ thống bài tập phải xây dựng tương thích với hoạt động học tập của
học sinh. Vì vậy, hệ thống bài tập là công cụ quan trọng để định hướng quá trình
tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh nhằm hình thành hệ thống kiến thức,
kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực học tập toán và kích thích tính tích cực trong
hoạt động học tập của học sinh.
Vấn đề đặt ra ở đây là cần phải xây dựng một hệ thống bài tập, cụ thể là
bao gồm các dạng loại bài tập nào cho phép người giáo viên có thể tổ chức các
hoạt động học tập tích cực của học sinh.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu lý luận dạy học đưa ra các quan điểm khác
nhau khi phân loại hệ thống câu hỏi, bài tập trong dạy học. Có quan điểm phân
loại hệ thống bài tập dựa vào mục đích dạy học; Có thể phân chia theo nội dung
dạy học; hoặc dùa vào mức độ tích cực của học sinh trong học tập. Mỗi quan
điểm phân loại đều có ưu điểm khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích và phương
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
24
Trường Đại học Hùng Vương
pháp sử dụng nó trong quá trình dạy học. Sau đây, chúng tôi xin đưa ra một số
cách phân loại cụ thể :
2.1.1.1. Phân loại dựa vào mục đích dạy học
Dựa vào mục đích dạy học có thể chia thành 3 loại sau :
* Loại bài tập dùng để dạy bài mới
Loại bài tập này dùng để tổ chức, hướng dẫn học sinh nghiên cứu tài liệu
mới. Khi học sinh trả lời được câu hỏi hoặc giải được bài tập thì sẽ chiếm lĩnh
được kiến thức mới. Do vậy mỗi câu hỏi, bài tập dùng để dạy bài mới phải mã
hoá được nội dung kiến thức. Giáo viên có thể nêu thêm những câu hỏi để gợi ý,
tăng yếu tố đã biết để học sinh giải quyết vấn đề học tập. Vì vậy, tuỳ từng đối
tượng học sinh mà tính chất câu hỏi phụ là khác nhau.
* Loại bài tập dùng để củng cố và hoàn thiện tri thức
Loại câu hỏi và bài tập này được thiết kế dùa trên những tri thức đã có của
học sinh. Nhưng các kiến thức đó còn rời rạc, tản mạn, chưa thành hệ thống. Do
đó chúng có tác dụng củng cố kiến thức đã học, đồng thời khái quát và hệ thống
hoá kiến thức đó, nhằm phát triển tư duy logic cho các em.
* Loại câu hỏi, bài tập dùng để kiểm tra đánh giá
Loại câu hỏi, bài tập này dùng để kiểm tra đánh giá khả năng lĩnh hội kiến
thức của học sinh có thể sau một bài học, một chương hoặc một phần của
chương trình. Giáo viên cần sử dụng bài tập vừa sức với học sinh, phải phù hợp
với thời gian quy định làm bài và kiểm tra được những kiến thức trọng tâm,
những nội dung kiến thức khác của chương trình.
2.1.1.2. Phân loại dựa vào nội dung dạy học
Dựa vào nội dung dạy học có thể phân chia thành các loại bài tập sau: bài
tập số học; bài tập về đại lượng và đo đại lượng; bài tập về hình học và bài tập
về giải toán có lời văn,
2.2.1.3. Phân loại dựa vào mức độ tích cực của học sinh trong hoạt động học tập
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K7 ĐHSP Tiểu học A
25