Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ ĐẦU VÀO ĐỐI VỚI KẾT QUẢ NUÔI TÔM CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH TẠI HUYỆN PHÚ VANG, THỪA THIÊN HUẾ TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU TỪ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.83 KB, 11 trang )



75

ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ ĐẦU VÀO ĐỐI VỚI KẾT QUẢ NUÔI TÔM
CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH TẠI HUYỆN PHÚ VANG, THỪA THIÊN HUẾ
TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU TỪ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Thái Thanh Hà
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế

1. Mở đầu:
Nuôi tôm quảng canh cải tiến là một trong những ngành đã và đang phát
triển rầm rộ trong thời gian 10 năm trở lại đây tại tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung
[1], [3] và huyện Phú Vang nói riêng [2]. Qua thực tiễn sản xuất, tôm sú
(Penaeus Monodon) đã trở thành đối tượng nuôi chính của vùng đầm phá Thừa
Thiên Huế nói chung và Phú Vang nói riêng nhờ giá trị kinh tế cao và nhờ việc
phổ biến kỹ thuật, sản xuất con giống, thức ăn [2]. Để khuyến khích ngành nuôi
tôm, các ngân hàng Thừa Thiên Huế đã cho nhiều hộ gia đình tại huyện Phú
Vang vay vốn để họ có thể có nhiều điều kiện tài chính hơn nhằm đầu tư vào quá
trình sản xuất [2]. Tuy nhiên, cho đến nay thì chưa có một nghiên cứu thực tế
chính thức nào được thực hiện để đánh giá tác động ảnh hưởng của tín dụng ngân
hàng đối với kết quả nuôi tôm tại từng hộ. Nghiên cứu này được thực hiện để
lượng hóa những tác động của tín dụng đối với các hộ nuôi tôm, mà từ kết quả
nghiên cứu này mà các kết luận và kiến nghị có thể được đưa ra nhằm hoàn thiện
hơn nữa công tác cho vay tín dụng của các ngân hàng của Thừa Thiên Huế.
2. Phương pháp nghiên cứu:


76

Nghiên cứu này được thực hiện trên 100 hộ gia đình làm nghề nuôi tôm


quảng canh cải tiến tại huyện Phú Vang và đều có vay vốn tại ngân hàng. Danh
sách các hộ vay vốn tín dụng ngân hàng trong điều tra được lấy trong cơ sở dữ
liệu của ngân hàng Vietcombank và được lựa chọn một cách ngẫu nhiên để điều
tra phỏng vấn [2]. Dựa theo địa chỉ của các hộ này, phỏng vấn trực tiếp được tiến
hành tới các chủ hộ nuôi tôm để thu thập số liệu. Bảng câu hỏi điều tra được sử
dụng trong quá trình phỏng vấn để thu thập thông tin. Các chủ hộ cũng được
phỏng vấn về việc tập huấn nuôi tôm trước khi thực hiện việc nuôi tôm quảng
canh cải tiến hay không. Các câu hỏi chi tiết được nêu ra trong bảng câu hỏi để
thu thập thông tin về các hộ nuôi tôm có liên quan đến chi phí thức ăn, chi phí
cho phòng bệnh, chi phí dầu chạy máy, chi phí công cụ nhỏ. Để thu thập thông
tin đối với kết quả kinh doanh của hộ gia đình nuôi tôm tại huyện Phú Vang,
trong bảng câu hỏi cũng có các câu hỏi để các chủ hộ cung cấp thông tin về lợi
nhuận mà hộ gia đình thực hiện được trong năm vừa qua. Do lợi nhuận thường là
các thông tin nhạy cảm nên câu hỏi được thiết kế theo dạng nhóm mức lợi nhuận,
và nhóm mức lợi nhuận này được liệt kê từ thấp đến cao [4].
3. Kết quả nghiên cứu:
Để biết được ảnh hưởng của từng nhân tố tới tình hình sản xuất kinh
doanh của hộ gia đình nuôi tôm tại huyện Phú Vang, nghiên cứu này sử dụng
phân tích hồi quy Logistic. Phương pháp phân tích này có nhiều điểm ưu việt hơn
các phương pháp khác bởi vì phương pháp này có thể tận dụng được những ưu
điểm của phương pháp phân tích phân lập (discriminant analysis) vừa tận dụng
được những ưu điểm của phương pháp phân tích hồi quy tương quan, khi mà
biến độc lập của phương pháp hồi quy logistic lại là một biến nhị phân binary
chứ không phải là một biến số học (numerical) [5], [6], [7], [8], [9]. Quá trình
điều tra các hộ nuôi tôm tại huyện Phú Vang cho thấy kết quả kinh doanh nuôi


77

tôm xét về mặt lợi nhuận của các hộ là một chỉ tiêu cuối cùng về mặt kinh doanh,

có thể sử dụng để làm tiêu chuẩn phân loại hộ gia đình, thành các hộ gia đình có
kết quả kinh doanh cao và hộ gia đình có kết quả kinh doanh thấp. Do mô hình
hồi quy logistic chỉ thích hợp với biến số phụ thuộc nhị phân, nên việc phân loại
như trên để sử dụng trong quá trình phân tích tác động của tín dụng ngân hàng là
hoàn toàn hợp lý [7].
Trên cơ sở này các hộ trong diện điều tra sẽ được phân ra làm hai loại:
nhóm hộ có kết quả kinh doanh thấp, hay lợi nhuận thấp (1-15 triệu đồng, có 54
hộ, và được mật định là 0 trong mô hình hồi quy tương quan logistic) và nhóm hộ
có kết quả kinh doanh cao, tức là nhóm hộ có lợi nhuận cao, (trên 15 triệu đồng,
có 46 hộ, và được mật định là 1 trong mô hình hồi quy tương quan logistic).
Trong điều kiện số lượng hộ nuôi tôm của hai nhóm hộ như đã nêu trên là tương
đương nhau, vì vậy hai nhóm hộ gia đình này được sử dụng để kiểm định. Sử
dụng phương pháp hồi quy tương quan logistic sẽ làm sáng tỏ sự ảnh hưởng của
việc vay tín dụng đối với các hộ nuôi tôm tại huyện Phú Vang, trong điều kiện
các yếu tố đầu vào của phương trình hồi quy tương quan logistic gồm có các yếu
tố như, số năm kinh nghiệm trong việc nuôi tôm, tập huấn kỹ thuật, thủ tục với
ngân hàng, và mức vay vốn của từng hộ.


78

Bảng 1: Phân tích hồi quy tương quan Logistic giữa kết quả kinh doanh
của hộ nuôi tôm quảng canh với các biến số độc lập đầu vào

Các biến phụ thuộc Hệ số Beta S.E.
Wald
statistics
Sig.
X
1

(Thời gian làm nghề tôm) 0,349** 0,551 6,551 0,002
X
2
(Tập huấn) 0,246* 0,367 4,652 0,041
X
3
(Số lao động thường xuyên
của hộ) 0,893* 0,411 5,387 0,026
X
4
(Chi phí thức ăn) 0,776 1,977 0,169 0,684
X
5
(Chi phí phòng bệnh) 0,757* 1,936 1,577 0,038
X
6
(Chi phí dầu chạy máy) 0,793* 2,332 3,391 0,005
X
7
(Chi phí công cụ nhỏ) 0,077 0,131 0,029 0,857
X
8
(Thủ tục vốn vay) 0,278 1,238 0,049 0,819


79

X
9
(Mức vốn vay tín dụng) 0,367* 0,321 4,587 0,037

Hệ số a
0
13,325** 4,476 8,790 0,003
2-log likelihood 287,226
Cox & Snell R Square 0,596
Nagelkerde R Square 0,668
Homer and Lemeshow Test Chi-square
19,91
3 Sig 0,029
Ghi chú: Biến phụ thuộc: Hộ có kết quả kinh doanh cao và hộ có kết quả kinh
doanh thấp
* Mức ý nghĩa thống kê 0,05
** Mức ý nghĩa thống kê 0,01
Để phân tích số liệu thu thập được, phần mềm thống kê SPSS đã được sử
dụng. Kết quả phân tích hồi quy logistics đối với các biến đầu vào của các hộ
nuôi tôm tại huyện Phú Vang được thể hiện ở bảng 1. Qua bảng 1 ta thấy các
biến số độc lập X
1
; X
2
; X
3
; X
5
; X
6;
X
9
là các biến số có ý nghĩa về mặt thống kê,
còn các biến số độc lập khác như X

4
; X
7
; X
8
; thì các tương quan trong mô hình
không có ý nghĩa về mặt thống kê. Cụ thể là, biến số X
1
là biến số độc lập về thời


80

gian làm nghề tôm có liên quan thuận đến kết quả kinh doanh của hộ ở mức ý
nghĩa thống kê 0,001. Biến số này trong phương trình cho thấy các hộ nuôi tôm ở
huyện Phú Vang có kết quả kinh tế cao thường là những chủ hộ có thời gian làm
nghề tôm lâu năm. Điều này trên thực tế cũng hoàn toàn đúng bởi do nghề nuôi
tôm là một nghề khó, đòi hỏi phải có kinh nghiệm và đó chính là yếu tố quyết
định đến sự thành bại của hộ gia đình nuôi tôm tại huyện Phú Vang. Biến số có
liên quan đến việc tập huấn kỹ thuật X
2
là một biến số quan trọng trong việc dự
báo trong mô hình với mức ý nghĩa thống kê 0,05, tức là các hộ nuôi tôm có kết
quả kinh doanh cao là những hộ có tham gia tập huấn kỹ thuật.
Kết quả mô hình trên cũng cho thấy rằng số lao động thường xuyên của hộ
nuôi tôm X
3
cũng là một biến số độc lập, dự báo loại hộ gia đình có kết quả kinh
doanh khác nhau và đạt mức ý nghĩa thống kê 0,05. Nhũng hộ có kết quả kinh
doanh cao thì cũng chính là hộ gia đình có nhiều số lao động thường xuyên tham

gia làm nghề tôm. Trên thực tế, kết quả này hoàn toàn hợp lý bởi vì lao động là
một yếu tố không thể thiếu được, và đặc biệt là yêu cầu kỹ thuật nuôi tôm đòi hỏi
sự có mặt thường xuyên của các lao động trong quá trình sản xuất. Tương tự, các
biến số về mặt chi phí như: chi phí phòng bệnh (X
5
); chi phí dầu chạy máy (X
6
)
mà hộ gia đình sử dụng vốn vay để thực hiện cũng là các nhân tố dự báo có ý
nghĩa về mặt thống kê 0,05 trong mô hình hồi quy logistic. Tức là những hộ có
kết quả kinh doanh cao thì chắc chắn là những hộ có xu hướng đầu tư nhiều cho
chi phí dầu chạy máy; và chi phí phòng bệnh từ nguồn vốn vay ngân hàng. Khi
quá trình nuôi tôm quảng canh cải tiến không những đòi hỏi một quy trình kỹ
thuật khắt khe mà còn phải có một sự đầu tư đáng kể vào thức ăn thì kết quả tìm
thấy trong nghiên cứu này là hoàn toàn hợp lý. Điều này cho thấy, ngân hàng
trước khi cho vay cũng cần phải có những hỗ trợ kỹ thuật về các mặt như loại chi
phí thức ăn; quy trình sử dụng máy sục khí; và các dịch vụ phòng bệnh cho tôm


81

cho các hộ gia đình tại huyện Phú Vang, trước khi các hộ này sử dụng vốn vay để
kinh doanh tôm quảng canh cải tiến [2], [3].
Bảng 2: Kết q uả kiểm định tính chính xác của mô hình
Loại hộ gia đình

Quan sát

Hộ gia đ
ình có

kết quả kinh
doanh cao
Hộ gia đình có k
ết
quả kinh doanh
thấp
Mức độ
chính xác
c
ủa kết quả
dự báo

Hộ gia đình có kết
quả kinh doanh cao

29 13 69%
Loại hộ gia
đình

Hộ gia đình có kết
quả kinh doanh thấp

9 41 82%
Tỷ lệ dự chính xác dự báo chung của mô hình hồi quy tương
quan Logistic
76,1%
Kết quả mô hình hồi quy tương quan logistic tại bảng trên cũng cho thấy
chi phí thức ăn (X
4
) và chi phí công cụ nhỏ (X

7
) không phải là biến số dự báo đối
với kết quả kinh doanh của các hộ nuôi tôm quảng canh cải tiến tại huyện Phú
Vang bởi vì các biến số này không có ý nghĩa về mặt thống kê. Điều này cho
thấy rằng chi phí thức ăn và chi phí công cụ nhỏ là các loại chi phí được thực


82

hiện theo định mức và thông thường là như nhau đối với các hộ nuôi tôm. Thủ
tục vay vốn (X
8
) không phải là biến số dự báo có ý nghĩa về mặt thống kê đến kết
quả kinh doanh của hộ gia đình. Điều này cho thấy rằng cơ hội tiếp cận tín dụng
của tất cả các hộ nuôi tôm tại huyện Phú Vang là như nhau, và ngân hàng hầu
như không có phân biệt đối xử khác nhau đối với các hộ trong vấn đề này. Mức
vốn vay ngân hàng (X
9
) là biến số có ý nghĩa về mặt thống kê, cho thấy rằng mức
vốn vay càng lớn thì hộ gia đình nuôi tôm càng có điều kiện để đầu tư để đạt kết
quả kinh doanh cao hơn.
Mô hình hồi quy logistic mà nghiên cứu này sử dụng cho thấy chỉ số 2-log
likelihood đạt tới giá trị 287,226 , và đây là chỉ số thích hợp khẳng định tính chắc
chắn của mô hình. Hệ số tương quan Cox& Snell R Square đạt tới 0,596, trong
khi đó hệ số tương quan Nagelkerde R Square đạt tới giá trị 0,668, một lần nữa
khẳng định rằng khoảng 66,7% variance của mô hình đã được giải thích từ hồi
quy logistic, và đây là một hệ số tương quan khá cao. Chỉ số Homer và
Lemeshow test cho thấy Chi-square đạt tới giá trị 19,913 với mức ý nghĩa thống
kê nhỏ hơn 0,05. Các kết quả kiểm định thống kê này cho thấy tính chắc chắn
của mô hình hồi quy tương quan logistic được sử dụng trong phân tích. Bảng 2

cho thấy tỷ lệ dự đoán của mô hình là khá cao, lên tới 76,1%, có thể giúp kết luận
mô hình hồi quy tương quan logistic sử dụng trong nghiên cứu là hoàn toàn hợp
lý [5].
4. Kết luận:
Qua phân tích trên, có thể kết luận rằng tín dụng đã có tác động khá tích
cực đến việc đầu tư và thực hiện các chi phí mang lại lợi ích kinh tế khá cao của
các hộ nuôi tôm tại huyện Phú Vang. Điều này thể hiện rõ trong việc mức vốn
vay của hộ gia đình càng cao thì hộ gia đình đạt được kết quả kinh doanh cao.
Nuôi tôm quảng canh cải tiến là một trong những nghề đang được phát triển tại


83

huyện Phú Vang trong thời gian qua và vì vậy tín dụng ngân hàng đóng một vai
trò hết sức quan trọng [2]. Kết quả nghiên cứu cũng đã gián tiếp cho thấy các
ngân hàng trước khi triển khai tín dụng tại huyện Phú Vang cần phải chú ý nhiều
đến công tác tập huấn kỹ thuật nuôi tôm. Các chương trình tập huấn cần chú
trọng đến việc bồi dưỡng kiến thức cho các chủ hộ nuôi tôm về các loại bệnh
thường thấy trong việc nuôi tôm. Việc tập huấn có thể được kết hợp một cách tốt
nhất với việc tham quan các mô hình điển hình để các chủ hộ gia đình có thể
tham khảo. Qua nghiên cứu cho thấy, thủ tục vay vốn không phải là một nhân tố
có ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của hộ nuôi tôm tại huyện Phú Vang, tuy
nhiên, trên thực tế đây là một vấn đề cần có những nghiên cứu sâu và trên diện
rộng hơn nữa để có thể đưa ra một kết luận chắc chắn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Lạc. Nâng cao hiệu quả kinh tế nuôi cá nước ngọt trên địa
bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Luận văn Thạc sĩ khoa học
kinh tế (2004)
2. Nguyễn Trí Dũng. Những giải pháp tín dụng ngân hàng góp phần phát
triển nghề nuôi tôm nước lợ ở huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Luận văn Thạc sĩ khoa học kinh tế (2004).
3. Lê Sĩ Hùng. Phân tích ảnh hưởng của một số nhân tố đầu vào đối với các
hộ nuôi trồng thủy sản tại đầm phá Cầu Hai, Thừa Thiên Huế. Báo cáo
nghiên cứu khoa học cấp Bộ. (2001)
4. Susan C. Access to capital: comparison of men and women-owned small
business,
(2003)


84

5. Hair, Anderson Tatham, and Black et al. Multivariate Data Analysis. 5th
Ed, Prentice Hall (2004)
6. Alsos G & Ljunggren E. Does the Business Start - Up Process Differ by
Gender? A Longitudinal Study of Nascent Entrepreneurs (1998).

7. Neils J. S. Exploring research. 4th Ed, Prentice Hall. (2000)
8. Mason R. & Lind D. & Marchal W. (2000). Statistical Techniques for
Business and Economics, 10th Ed, McGraw-Hill International Edition
9. Cooper D. & Schindler P. Business Research Methods. 7th Ed. McGraw -
Hill International Edition (2002)

THE IMPACTS OF INPUTS ON BUSINESS
PERFORMANCE OF SHRIMP-RAISING HOUSEHOLDS
IN PHU VANG DISTRICT OF THUA THIEN HUE PROVINCE
A RESEARCH FROM BANK CREDIT PRESPECTIVE


85


Thai Thanh Ha
College of Economics, Hue University

SUMMARY
This research was conducted to figure out the impact of bank loans on the
profits of the households raising shrimps. The inputs factors such as breeding
costs. Expenses for oil and gas to be used for ventilation, expenses to deal with
shrimp diseases as well as payment for regular employees are also analyzed as
independent variables in the multiple logistic regression. It was revealed that the
business performance of the shrimp-raising households in Phu Vang District
were positively related so some of those input factors, which lend several
implications for policy makers in boosting the shrimp-raising industry in Thua
Thien-Hue Province in general, and in Phu Vang District in particular.

×