Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

LUẬN VĂN CÔNG NGHỆ SINH HỌC NHÂN GIỐNG LAN HỒ ĐIỆP PHALAENOPSIS SP BẰNG KỸ THUẬT NUÔI CẤY NGẬP CHÌM TẠM THỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.87 MB, 110 trang )

Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Hiện nay Lan Hồ Điệp (Phalaenopsis sp.) nói chung với các loại Lan
khác nói riêng được xem là cây trồng đem lại nhiều hiệu quả kinh tế cao; do
đó đã có nhiều nhà vườn mạnh dạn đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ
lúa, hoa màu sang trồng Lan và đạt hiệu quả kinh tế cao gấp 2 - 3 lần so với
cây trồng khác. Lan Hồ Điệp là một trong những lồi Lan q đang rất được
ưa chuộng và đóng vai trò quan trọng trong ngành cơng nghiệp hoa cắt cành
cũng như cây cảnh trên thế giới. Chúng khơng chỉ đẹp về màu sắc, kiểu dáng
mà còn mang một vẻ đẹp sang trọng và trang nhã.
Tuy nhiên, số lượng sản xuất cây Lan hiện nay vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu ngày càng tăng của thị trường. Ngun nhân do Lan Hồ Điệp là lồi
sinh trưởng chậm và là một lồi Lan rất khó nhân giống, thường cho hệ số
nhân thấp trong điều kiện vườn ươm. Để có được số lượng lớn cây giống
chất lượng tốt cung cấp cho thị trường sản xuất còn gặp nhiều khó khăn.
Hiện tại có một số trường Đại Học, Viện nghiên cứu có hướng phát triển
trên những kỹ thuật mới như: Bioreactor, Ni cấy quang tự dưỡng… nhưng
vẫn chưa được áp dụng rộng rãi.
Trong những năm gần đây, phương pháp ni cấy đỉnh sinh trưởng
đối với cây Lan Hồ Điệp nhằm tạo cây giống sạch bệnh rất được quan tâm.
Tuy nhiên phương pháp này thực hiện khó thành cơng vì đỉnh sinh trưởng
q nhỏ nên khơng thể tái sinh hoặc chết đi qua các lần khử trùng. Lan Hồ
Điệp là loại Lan đơn thân, thân ngắn và mỗi cây cho một đỉnh sinh trưởng
nên để có nguồn mẫu in vitro cần phải có nhiều mẫu ban đầu làm tăng chi
phí q trình ni cấy. Vì vậy, hiện nay các nhà ni cấy mơ trong nước
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 08111100861
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
cũng như trên thế giới thường dùng phát hoa làm vật liệu ni cấy, phát hoa
Lan Hồ Điệp có chứa các mắt ngủ có thể tạo thành chồi. Do đó, phương
pháp ni cấy phát hoa in vitro để tạo chồi được xem là đặc trưng ở Lan Hồ


Điệp nhưng hệ số nhân giống từ phương pháp này cũng rất thấp.
Gần đây, các hệ thống ni cấy ngập chìm tạm thời đã được nhiều
nước trên thế giới triển khai và ứng dụng trong nhân giống nhiều loại cây
trồng. Hệ thống này có tác dụng làm tăng cường sức sống của chồi và tăng
khả năng tạo phơi soma, phơi được tạo ra khơng bị biến dị; loại bỏ được hiện
tượng thủy tinh thể khi ni cấy lỏng. Thực vật được nhân giống trong hệ
thống ngập chìm có khả năng thích nghi tốt hơn trong giai đoạn thuần hóa
ngồi vườn ươm so với các thực vật được ni cấy trong hệ thống bán rắn
hay lỏng.
Việc ứng dụng hệ thống ngập chìm tạm thời trong nhân giống hoa
kiểng đặc biệt là Lan Hồ Điệp ở Việt Nam chỉ mới được ứng dụng trong thời
gian gần đây. Với mục đích là khảo sát khả năng ứng dụng hệ thống này
trong nâng cao số lượng cũng như chất lượng của cây giống Lan Hồ Điệp
khi so sánh với các hệ thống ni cấy thơng thường Th.S. Cung Hồng Phi
Phượng và các cộng sự đã ứng dụng thành cơng hệ thống góp phần mở ra
khả năng sản xuất với số lượng lớn cây giống có chất lượng tốt đáp ứng nhu
cầu thị trường tại Việt Nam.
Để từng bước áp dụng cơng nghệ mới trong sản xuất cây Lan giống ở
nước ta, đẩy nhanh tiến độ sản xuất cây giống theo qui mơ cơng nghiệp, góp
phần khắc phục sự thiếu hụt cây giống trên thị trường. Qua đề tài "NHÂN
GIỐNG LAN HỒ ĐIỆP PHALAENOPSIS SP. BẰNG KỸ THUẬT NI
CẤY NGẬP CHÌM TẠM THỜI (TIS – Temporary Immersion System)" với
mong muốn có thể tìm hiểu rõ về kỹ thuật ni cấy này cũng như những ưu
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 08111100862
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
điểm nhân giống Lan Hồ Điệp bằng ni cấy ngập chìm so với những
phương pháp ni cấy khác.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định nồng độ chất ĐHSTTV tối ưu cho sự biệt hóa PLB từ mẫu
lá, đồng thời tìm mơi trường thích hợp cho sự ra rễ của các chồi Lan Hồ

Điệp nhằm thiết lập nhân nhanh giống cây Lan Hồ Điệp Phalaenopsis sp.
bằng kỹ thuật ni cấy ngập chìm tạm thời TIS (Temporary Immersion
System).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nồng độ các khống đa lượng trong mơi trường MS
và ảnh hưởng của nồng độ và loại đường lên sự nhân nhanh PLB của Lan
Hồ Điệp. Qua đó khảo sát việc nhân nhanh PLB bằng hệ thống ni cấy
ngập chìm tạm thời Plantima của Đài Loan trên đối tượng Phalaenopsis
Dtps. Taida Salu.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Ý nghĩa khoa học:
Hệ thống ni cấy ngập chìm tạm thời TIS thuộc dạng bioreator đơn
giản. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã xác định việc áp dụng cơng nghệ TIS
trong vi nhân giống cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao, chất lượng cây
giống tốt, nâng cao hệ số nhân chồi gấp 3 - 20 lần so với phương pháp nhân
truyền thống, rút ngắn được thời gian ni cấy trong phòng, góp phần làm
giảm giá thành sản phẩm cây giống.
Ý nghĩa thực tiễn:
Áp dụng hệ thống TIS trong vi nhân giống hoa Lan ở nước ta là một
cơng nghệ mới, nó sẽ mở ra triển vọng cho việc sản xuất cây giống theo qui
mơ cơng nghiệp, đáp ứng đủ lượng cây trồng với chất lượng cao cho sản
xuất trong nước và cho xuất khẩu.
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 08111100863
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
Cây Lan giống sản xuất bằng hệ thống TIS trong nước giúp người
nơng dân chủ động sản xuất, hạn chế nhập cây giống từ nước ngồi, góp
phần ngăn chặn được dịch bệnh lây lan từ nước ngồi qua con đường cây
giống.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp ni cấy PLB trong hệ thống ni cấy ngập

chìm tạm thời, nghiên cứu trên 5 giống Lan Hồ Điệp chủ yếu là giống 1
(Dtps. Taida Salu) và giống 2 (Dtps. Taida Firebird). Thí nghiệm bố trí kiểu
đầy đủ và ngẫu nhiên hồn tồn.
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 08111100864
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu sơ lược về kỹ thuật ni cấy in vitro
1.1.1. Lịch sử và những thành tựu đạt được trong ni cấy in vitro
Năm 1838, hai nhà sinh vật học người Đức, Schleiden và Schwanm
đưa ra thuyết tế bào và nêu rõ mọi cơ thể sinh vật có phức tạp tới đâu thì đều
có cấu tạo đơn vị rất nhỏ là tế bào.
Năm 1902, Haberlandt thực hiện ni cấy tế bào thực vật đầu tiên từ
lá của một số cây một lá mầm như: Errythronium, Orrnithogalum…
Năm 1922, Kotte và Robins lập lại thí nghiệm của Haberlandt nhưng
trên đỉnh sinh trưởng của rễ một cây hòa thảo, trên mơi trường lỏng có muối
khống và glucose. Tuy nhiên sự sinh trưởng này chỉ kéo dài trong thời gian
ngắn.
Năm 1934, White và Gautheret đã ni cấy thành cơng rễ cà chua trên
mơi trường muối khống và dịch chiết nấm men. Cùng thời điểm Nobecourt
và Gautheret duy trì sự sinh trưởng của mơ sẹo cà rốt.
Năm 1951, Skoog và Miller đã phát hiện ra các hợp chất có thể điều
khiển sự nhân chồi.
Năm 1955, các chất kích thích sự phân bào được Skoog đặt tên là
kinetin và gộp với các chất kích thích phân bào tự nhiên gọi là cytokinin.
Năm 1956, Morel, học trò của Gautheret, áp dụng thành cơng ni
cấy mơ vào cây Lan (Cymbidium) tạo ra các protocorm.
Năm 1960 – 1964, Morel cho rằng có thể nhân giống vơ tính Lan
bằng ni cấy đỉnh sinh trưởng. Từ kết quả đó, Lan được xem là cây ni
cấy mơ đầu tiên được thương mại hóa.
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 08111100865

Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
Đến nay, hầu hết các giống Lan đã được nhân giống nhanh bằng
phương pháp ni cấy mơ như: Dendrobium, Cattleya, Phalaenopsis, Ngọc
Điểm và ngay cả Lan Hài nổi tiếng của Việt Nam.
1.1.2. Các bước nhân giống in vitro
Nhân giống vơ tính các cây trồng in vitro gồm các giai đoạn sau:
- Chọn lựa và khử trùng mẫu cấy.
- Tạo thể nhân giống in vitro.
- Nhân giống in vitro.
- Tái sinh cây in vitro hồn chỉnh.
- Chuyển cây con in vitro ra vườn ươm.
1.1.3. Các kỹ thuật ni cấy in vitro
1.1.3.1. Ni cấy nốt đơn thân
Sử dụng mẫu cấy là chồi ngọn hoặc chồi bên có mang một đoạn thân
ngắn. Chồi này được kích thích tăng trưởng, ra rễ tạo cây ngun vẹn, nhiều
chồi và lá được hình thành. Tiếp tục cấy chuyền trên mơi trường dinh dưỡng
thích hợp đến khi đủ số lượng chồi cần thiết để chúng được cảm ứng ra rễ
trở thành cây con hồn chỉnh và được chuyển ra trồng trong đất.
1.1.3.2. Ni cấy chồi bên
Về ngun tắc, phương pháp này giống như phương pháp ni cấy nốt
đơn thân. Nhưng khác nhau là trong phương pháp ni cấy nốt đơn thân có
sự kéo dài chồi, thân và thường khơng cần đến cytokinin để phát triển. Còn
phương pháp nhân chồi bên, chồi được cơ lập trên mơi trường dinh dưỡng
và các chồi bên từ nách lá phát triển dưới tác dụng của cytokinin nồng độ
cao. Vai trò của cytokinin lúc này là hạn chế ưu tính ngọn để cho các chồi
bên có thể phát triển.
1.1.3.3. Ni cấy đỉnh sinh trưởng
Chồi ngọn được rửa sạch và khử trùng bằng cồn, hypochlorite
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 08111100866
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh

calcium. Sau đó dùng dao mổ tách rời đỉnh sinh trưởng (gồm vùng mơ phân
sinh và cả phần dưới ngọn) ra khỏi ngọn và cấy trên mơi trường tái sinh cây
hồn chỉnh. Với phương pháp này, chúng ta tạo được cây sạch bệnh, sạch
virus.
1.1.3.4. Ni cấy mơ sẹo
Tạo mơ sẹo được tiến hành lần đầu tiên vào năm 1920, mơ sẹo là một
khối tế bào khơng có tổ chức, hình thành từ các mơ hoặc cơ quan đã phân
hố dưới các điều kiện đặc biệt (vết thương, xử lý hố chất, tia phóng xạ, ).
Các tế bào của mơ sẹo phải chịu sự phản phân hố trước lần phân chia đầu
tiên (Halperin, 1969).
Mơ sẹo tăng trưởng nhanh trên mơi trường có chất auxin và trong mơi
trường khơng có chất kích thích thì mơ sẹo có thể tái sinh thành cây hồn
chỉnh. Cụm mơ sẹo có thể tái sinh cùng một lúc nhiều chồi hơn là ni cấy
đỉnh sinh trưởng, nhưng khả năng bị biến dị tế bào soma lại cao hơn.
1.1.3.5. Ni cấy huyền phù tế bào
Huyền phù tế bào được tạo từ các mảnh mơ sẹo ni cấy trong mơi
trường lỏng lắc liên tục. Trong mơi trường lỏng, mơ sẹo phóng thích ra
những tế bào riêng lẻ hay những cụm tế bào dính nhau để hấp thụ các chất
dinh dưỡng. Sau đó tế bào được chuyển sang mơi trường đặc để tái sinh
thành cây.
1.1.3.6. Ni cấy thể đơn bội
Cây thể đơn bội mang bộ nhiễm sắc thể giảm đi một nửa, sử dụng
những phần sau cho việc ni cấy in vitro:
- Túi phấn: Thu túi phấn từ chồi hoa thì chỉ khử trùng chồi hoa. Còn
thu túi phấn của hoa đã nở thì phải khử trùng túi phấn.
- Hạt phấn: Được ni cấy trên mơi trường để tạo mơ sẹo.
- Cụm hoa: Thường ni cấy trong mơi trường lỏng.
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 08111100867
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
1.1.3.7. Ni cấy protoplast (tế bào trần)

Tế bào thực vật được xử lý bằng hố lý để tách lớp vỏ cenlulose,
nhưng vẫn còn giữ chức năng của tế bào. Trong mơi trường thích hợp,
protoplast có thể phân chia tế bào hay tái sinh thành cây (Nguyễn Đức
Lượng, 2002).
Với cách ni cấy này, ta có thể áp dụng để chuyển gene vào tế bào
trần hay tạo cây đa bội bằng cách dung hợp hai tế bào trần với nhau.
1.1.4. Ưu và nhược điểm của kỹ thuật nhân giống in vitro
1.1.4.1. Ưu điểm
Thuận lợi của phương pháp vi nhân giống trên mơi trường bán rắn so
với phương pháp nhân giống truyền thống (giâm, chiết, ghép ) là:
- Những cây nhân giống in vitro đồng nhất về di truyền.
- Có khả năng tái sinh cây con từ các vùng mơ và cơ quan khác nhau
của cây như: trục thân, lóng thân, phiến lá, cuống lá, hoa, chồi phát hoa, hạt
phấn… mà ngồi tự nhiên khơng thể thực hiện được.
- Hệ số nhân cao, sản xuất được số lượng lớn cây giống trong một
thời gian ngắn nhằm đáp ứng nhu cầu thương mại.
- Được ni cấy trong điều kiện vơ trùng, cây khỏe mạnh, sạch virus
thơng qua xử lý nhiệt hay ni cấy đỉnh sinh trưởng.
- Sản xuất quanh năm và chủ động kiểm sốt được các yếu tố ngoại
cảnh như nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm…
- Tạo cây có khả năng ra hoa, tạo quả sớm.
- Tạo dòng tồn cây cái (cây chà là) hoặc tồn cây đực (cây măng
tây) theo mong muốn.
- Dễ dàng tạo giống cây trồng mới bằng phương pháp chuyển gen.
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 08111100868
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
Ngồi ra, phương pháp vi nhân giống còn giảm được nhiều cơng sức
chăm sóc, nguồn mẫu dự trữ lâu dài và chiếm ít khơng gian so với phương
pháp nhân giống truyền thống.
1.1.4.2. Nhược điểm

Dễ xuất hiện các biến dị soma trong q trình ni cấy, đặc biệt tái
sinh qua mơ sẹo.
Q trình nhân giống phức tạp gồm nhiều giai đoạn liên quan và cần
khoảng thời gian dài trước khi có thể thích ứng trồng ngồi vườn ươm.
Nhân giống trên mơi trường bán rắn có giá thành sản xuất vẫn còn cao
(do sử dụng agar) và thời gian cấy chuyền dài. Khi sản xuất ở qui mơ cơng
nghiệp, chi phí cho năng lượng và nhân cơng vẫn còn rất lớn.
Sự đa dạng của dòng sản phẩm nhân giống rất hạn chế cụ thể như đối
với các lồi ngũ cốc và sự tái hình thành cây in vitro thường khó xảy ra, đặc
biệt với các cây thân gỗ.
1.2. Tình hình sản xuất hoa Lan trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất hoa Lan trên thế giới
Hiện nay nhu cầu về hoa Lan trên thị trường thế giới rất lớn, ngày
càng tăng và mang lại lợi nhuận kinh tế cao. Tỷ lệ hàng năm của ngành sản
xuất hoa trên thế giới là 10%, đạt khoảng 40 tỉ USD. Trong năm 2000, kim
ngạch xuất nhập khẩu của Lan cắt cành và cây Lan trên thế giới đạt 150 triệu
USD, trong đó Lan cắt cành đạt 128 triệu USD.
Thị trường tiêu thụ hoa Lan ở Châu Âu rất hấp dẫn. Năm 2006, khối
EU có sản lượng xuất khẩu hoa Lan trên thế giới đạt 55 tỉ sản phẩm, mang
lại giá trị kim ngạch xuất khẩu hoa Lan là 73 EUR. Trong đó, Hà Lan là
quốc gia duy nhất ở Châu âu có cơng nghiệp trồng Lan xuất khẩu, do trồng
nhà kính nên Hà Lan có thể xuất khẩu hoa quanh năm, đồng thời là đầu mối
trung gian nhập khẩu hoa Lan (37%) từ các nước khác trên thế giới. Năm
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 08111100869
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
2006, Hà Lan xuất khẩu hoa Lan chiếm 95% (52.049 ngàn sản phẩm) trên
tổng sản lượng hoa Lan trong khối EU (Nguồn: AIPH/Union Fluer:
International Statistics Flowers an Plants 2007).
Mặc dù, khối châu Âu có sản lượng xuất khẩu hoa Lan cao hơn so với
các khối khác nhưng do nhu cầu tiêu thụ hoa Lan trong khối EU cao nên

trong năm 2006 sản lượng nhập khẩu hoa Lan từ các nước lên tới 155 tỉ sản
phẩm, giá trị kim ngạch nhập khẩu đạt gần 90 tỉ EUR (Nguồn: AIPH/Union
Fluer: International Statistics Flowers an Plants 2007).
Hoa Lan hiện nay đang là mặt hàng xuất khẩu chiến lược, mang lại
nguồn lợi kinh tế cho nhiều quốc gia Châu Á. Thái Lan là nước xuất khẩu
chủ yếu là hoa Lan nhiệt đới, đặc biệt là Dendrobium, phổ biến nhất là
Dendrobium sonia và Jumbo White. Ngồi ra cũng còn một số lồi nổi tiếng
khác như Aranda, Mokara, Vanda và Oncidium. Hơn 80% Dendrodium trên
thị trường thế giới là từ Thái Lan. Chỉ với loại hoa Lan chủ lực là
Dendrobium, Thái Lan đạt doanh thu mỗi năm gần 600 triệu USD từ giá trị
xuất khẩu loại hoa này.
Trong khi đó, Đài Loan là nước đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất
khẩu hoa Lan Hồ Điệp bằng qui trình cơng nghệ cao, giá trị doanh thu từ
xuất khẩu loại hoa này hàng năm khoảng 43 triệu USD. Trên thị trường thế
giới, sản phẩm chủ yếu của hoa Lan Hồ Điệp là hoa chậu, sản phẩm này có
giá trị kinh tế cao gấp nhiều lần so với Lan Hồ Điệp cắt cành.
Hàng năm, Đài Loan sản xuất được 36 triệu cành Phalaenopsis. Trong
đó, 12 triệu cành hoa Lan được xuất khẩu ra các nước như: 3 triệu cành đến
Nhật Bản; 3 triệu cành đến Trung Quốc; 2,5 triệu cành tới Hoa Kỳ và 3,5
triệu cành cho các quốc gia khác. Vào tháng 6/2004, Hoa Kỳ đã cấp giấy
phép xuất khẩu Phalaenopsis cho Đài Loan trên thị trường Hoa Kỳ (Nguồn:
The world’s fascination with potted orchid- Floraculture Itn.htm).
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008610
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
1.2.2. Tình hình sản xuất hoa Lan ở Việt Nam
Tại Việt Nam ngành sản xuất kinh doanh hoa kiểng nói chung và Lan
nói riêng trong vòng 10 năm trở lại đây rất phát triển với nhiều chủng loại.
Diện tích trồng hoa ở Việt Nam hiện nay là 2.500 ha nhưng hoa Lan
chỉ chiếm 5- 6%. Nước ta bắt đầu sản xuất và thương mại hoa Lan tập trung
khoảng 6 năm trở lại đây nhưng tốc độ phát triển khá nhanh. Chỉ riêng TP.

HCM diện tích vườn Lan tới nay đã gần 80 ha, hoa Lan đang mang lại thu
nhập cao cho nhiều nơng hộ. Tuy nhiên hiện nay do cây giống trong nước
khơng đủ cung cấp cho sản xuất, nên các nhà vườn nhập cây giống từ nước
ngồi như: Thái Lan, Đài Loan và Trung Quốc (Nguồn: Báo cáo điều tra
thống kê của Sở NN& PTNT TP.HCM, năm 2008).
Theo thống kê của Sở NN& PTNT TP.HCM trong năm 2003, doanh
số kinh doanh hoa Lan, cây kiểng chỉ đạt 200 - 300 tỉ đồng nhưng đến năm
2005 đã tăng đến 600 - 700 tỉ đồng ngay từ những tháng đầu năm.
Theo TS. Dương Hoa Xơ - Trung tâm Cơng Nghệ Sinh Học TP.
HCM, đến nay đã hồn thiện qui trình nhân giống in vitro cho 7 nhóm giống
hoa Lan, có khả năng cung cấp 200.000 cây con hoa Lan cấy mơ thuộc các
nhóm Mokara, Dendrobium, Phalaenopsis, Catteya. Năm 2007, Trung tâm
đã cung cấp cho các nhà vườn khoảng 50.000 cây hoa Lan cấy mơ các loại.
Năm 2008, sản xuất 100.000 cây giống hoa Lan cấy mơ, tập trung cho nhóm
hoa Lan cắt cành Mokara, Dendrobium và một số giống lan rừng q.
Đặc biệt Đà Lạt là nơi sản xuất hoa Lan sớm nhất cả nước với nguồn
cây giống phong phú được tìm trong rừng sâu. Lâm Đồng dẫn đầu cả nước
về nguồn lợi Lan rừng với 101 chi và 396 lồi, chiếm 55,3% về chi và
76,5% về lồi Lan rừng của Việt Nam. Khơng ít lồi Lan được phát hiện lần
đầu tiên trên thế giới mang tên Đà Lạt, 10/12 lồi Lan q của Việt Nam
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008611
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
phân bố ở vùng rừng Lâm Đồng. Những năm 1980, Đà Lạt đã xuất khẩu số
lượng lớn cành hoa sang các nước Đơng Âu.
Những năm gần đây, ngành sản xuất hoa Lan ở Đà Lạt đã hồi sinh và
phát triển mạnh mẽ nhờ ứng dụng kỹ thuật cơng nghệ cao vào sản xuất. Với
cơng nghệ hiện đại, đã giúp làm giảm chi phí trồng từ 40.000 - 70.000
đồng/gốc Lan trước đây, xuống chỉ còn 4.000 - 7.000 đồng/gốc. Sử dụng
cơng nghệ ni cấy mơ in vitro và đặc biệt bằng phương pháp gây vết
thương kết hợp ni cấy lỏng.

TS. Dương Tấn Nhựt cùng các cộng sự ở Phân Viện Sinh Học Đà Lạt
đã nhân giống thành cơng Hồng Hài - lồi Lan hài duy nhất trên thế giới có
hương thơm, được Tổ chức Bảo vệ động thực vật hoang dã thế giới đưa vào
danh mục thực vật cần bảo vệ bởi chúng chỉ phân bố hẹp ở Việt Nam, khó
sống và khó sinh sản.
Theo TS. Dương Tấn Nhựt, Thành phố Đà Lạt là cỗ máy điều hòa
khổng lồ cho phép sản xuất địa Lan trong thiên nhiên theo hướng cơng
nghiệp với chi phí sản xuất chỉ bằng 1/10 so với các quốc gia phải trồng Lan
trong nhà kính, có hệ thống điều hòa nhiệt độ.
Lan Đà Lạt đã và đang mở rộng thị trường ra nhiều châu lục, trong đó
có những thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan Nhiều doanh
nghiệp trong và ngồi nước đang tiến hành khảo sát lập trang trại sản xuất
hoa Lan quy mơ lớn bởi tiềm năng, triển vọng đầu tư tại Đà Lạt là rất lớn so
với Trung Quốc và các nước ASEAN khác.
1.3. Giới thiệu về Lan Hồ Điệp
1.3.1. Nguồn gốc và phân bố
Lan Hồ Điệp là giống Lan có tên gọi Phalaenopsis. Tên gọi này bắt
nguồn từ tiếng Hi Lạp trong đó Phalaina có nghĩa là “con bướm” và Opsis
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008612
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
có nghĩa là “giống như”. Lan Hồ Điệp là lồi lan có hoa giống bươm bướm
phất phơ rất đẹp.
Lan Hồ Điệp được khám phá năm 1750, đầu tiên được ơng Rumphius
đặt tên là Angraecum album. Năm 1753 Linne đổi tên thành Epidendrum
amabile; và năm 1825 Blume một nhà thực vật Hà Lan định danh một lần
nữa là Phalaenopsis amabilis và tên đó được dùng cho đến ngày nay.
Lan Hồ Điệp có chừng 44 loại ngun giống, mọc trên dãy Himalaya
đến suốt châu Á và sang cả Úc châu. Lan Hồ Điệp phân bố chủ yếu ở:
Malaysia, Indonesia, Philipin, phía Đơng Ấn Độ và miền Bắc Australia. Lan
Hồ Điệp có thể mọc ở khí hậu nhiệt đới và đồi núi cao 2000m nên vừa chịu

được khí hậu nóng ẩm vừa chịu được khí hậu mát.
Ở Việt Nam có khoảng 4 - 5 lồi Lan Hồ Điệp rừng như:
- Lan Hồ Điệp dẹt (Phalaenopsis coenu): cây sống phụ, rễ lớn,
khơng có thân, lá hình bầu dục thn dài. Phát hoa dài 30 cm, hoa màu vàng
xanh, có từ 6 - 12 hoa, hoa nở rất lâu tàn và có hương thơm. Cây mọc ở
miền Trung, có dáng đẹp, có thể trồng ở Đà Lạt; hoa nở vào mùa thu.
- Lan Hồ Điệp trung (Phalaenopsis parishii): cây nhỏ, lá hình trái
xoan, màu xanh bong, rụng vào mùa khơ. Phát hoa mọc thẳng đứng, mang
3- 9 hoa ở đỉnh màu vàng nhạt mơi hồng tươi, giữa có 2 vạch nâu. Cây mọc
đẹp, hoa đứng, màu sắc sặc sỡ nên được trồng làm cảnh, trang trí cho phòng
họp; hoa nở vào mùa xn.
- Lan Hồ Điệp ấn (Phalaenopsis mannii): cây mảnh, có lá dạng bầu
thn, hơi cong, màu xanh bóng. Phát hoa dài thường bng thòng xuống,
hoa tập trung ở đỉnh cánh màu vàng nghệ với vân màu đỏ. Cây mọc ở Trung
Bộ, Đà Lạt - Lâm Đồng; hoa nở vào mùa hè.
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008613
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
Hình 1.1. Lan Hồ Điệp ấn
- Lan tiểu Hồ Điệp hay Hồ Điệp nhài (Phalaenopsis pulcherrima).
Cây nhỏ sống trên đất cát trong các rừng, chồi và rễ mập khỏe, lá hình trái
xoan. Phát hoa nở dài mang hoa ở đỉnh. Hoa màu trắng, hồng tím…Hoa nhỏ,
cánh bầu dục , lưỡi có màu đậm hơn, họng màu tím. Cây mọc ở miền Trung,
Đồng Nai, Bình Châu… Cây ra hoa vào mùa mưa.
Hình 1.2. Lan tiểu Hồ Điệp
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008614
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
Ngồi ra còn một số cây như: Phalaenopsis gibbosa, Phalaenopsis
lobbii, Phalaenopsis fuscata, Phalaenopsis cornu x cervi, Phalaenopsis
petelotii… Những cây này thường có hương thơm.
Hình 1.3. Phalaenopsis cornu x cervi

1.3.2. Phân loại khoa học
Giới Plantae (Thực vật)
Ngành Magnoliophyta (Ngọc Lan)
Lớp Liliopsida (Hành)
Phân lớp Liliidae (Hành)
Bộ Orchidales (Lan)
Họ Orchidaceae (Lan)
Chi Phalaenopsis (Lan Hồ Điệp)
Lồi Phalaenopsis sp.
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008615
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
1.3.3. Đặc điểm hình thái
Lan Hồ Điệp là loại Lan đơn thân, ngắn, mập, lá to, dày mọc sát nhau.
Đây là giống gồm các lồi có hoa lớn và đẹp. Phát hoa mọc từ nách lá, dài,
cánh hoa phẳng, mơi hoa cong, dẹp, có 2 râu dài; trụ hoa hình bán nguyệt
với 2 phân khối u lên chứa đầy phấn hoa.
Lan Hồ Điệp là Lan có màu sắc hoa phong phú từ trắng, hồng, đỏ,
vàng, tím và có lồi có sự phối màu tự nhiên như có đốm hay sọc Thời kỳ
nở hoa thay đổi theo từng lồi, hoa lâu tàn khoảng 2 - 4 tuần.
Lan Hồ Điệp là một loại Lan đại chúng được xếp vào bậc nhất với hoa
to, hình dáng đẹp đẽ, nhiều màu, có hoa quanh năm. Nếu trồng đúng cách
Lan Hồ Điệp có thể sống rất lâu; có cây sống được trên 18 năm, sau đó ra
hoa ở ngọn rồi mới chết.
Lan Hồ Điệp rất đa dạng về di truyền nhưng chúng cũng có những đặc
tính chung về cấu tạo của cơ quan sinh dưỡng và cơ quan sinh sản.
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008616
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
Hình 1.4. Sự đa dạng và phong phú về màu sắc, hình dáng Lan Hồ Điệp
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008617
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh

1.3.3.1. Cơ quan sinh dưỡng
+ Thân:
Cây đơn thân khơng có giả hành, được tạo ra bởi một đỉnh sinh trưởng
hoạt động liên tục. Các đốt thân rất ngắn và thường được bao bọc bởi hai
hàng bẹ lá xếp dọc chiều dài thân.
+ Lá:
Lá đơn ngun, dày, khơng cuốn và có bẹ, mọng nước, có bẹ ơm lấy
thân. Hình dạng lá đơn giản với màu xanh đơn thuần hoặc tạp sắc. Thơng
thường một cây có từ 4 - 5 lá, mỗi lá có hai chồi xếp chồng, chồi bên trên
cho ra một trục phát hoa sau khi cảm ứng ra hoa, chồi bên dưới cho ra một
cây con trong trường hợp có sự cố về hoạt động của đỉnh sinh trưởng ngọn.
+ Rễ:
Rễ bất định, khí sinh phát triển mạnh, mọc từ gốc thân xun qua bẹ
lá. Xung quanh rễ có một màng xốp bao bọc. Lớp mơ xốp này dễ dàng hút
nước, muối khống và các chất dinh dưỡng cho cây. Số lượng rễ khá nhiều,
rễ to và hơi dẹp tạo thành một vành đai tăng diện tích tiếp xúc với ánh sáng.
1.3.3.2. Cơ quan sinh sản
+ Hoa:
Hoa mọc thành cụm, lưỡng tính, đối xứng hai bên. Bao hoa dạng
cánh, rời nhau, xếp thành hai vòng: ba mảnh vòng ngồi và hai mảnh vòng
trong bé hơn, mảnh thứ ba có hình dạng và màu sắc khác hẳn gọi là cánh
mơi. Gốc cánh mơi thường kéo dài ra, chứa tuyến mật. Nhị và nhụy dính liền
thành cột nhị nhụy. Hạt phấn thường dính lại thành khối phấn. Hai khối phấn
ngăn cách nhau bởi trung đới. Bộ nhụy gồm 3 lá nỗn dính nhau thành bầu
dưới, mang nhiều nỗn, đính bên (Hồng Thị Sản, 2003).
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008618
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
Phát hoa hình thành ở nách lá (thường là một phát hoa), có dạng thẳng
đơi khi phân nhánh. Trung bình một phát hoa cho 7 - 15 hoa, mỗi hoa bền
khoảng hai tháng.

+ Quả:
Quả của Lan Hồ Điệp thuộc dạng quả nang, mở bằng các khe nứt dọc
theo hai bên đường của giá nỗn. Quả Lan chứa vơ số các hạt nhỏ li ti, tùy
vào giống và lồi mà quả có thể chứa vào trăm đến vài ngàn hạt. Hạt cần trải
qua 130 - 150 ngày để trưởng thành, hạt mở sau 90 ngày. Hạt nhỏ được gió
mang xa như hạt bụi, phần lớn hạt bị chết vì chứa phơi chưa phân hóa.
Theo Bernard (1999), hạt Lan muốn nảy mầm phải nhiễm nấm
Rhizoctonia vì loại nấm này có tác dụng khởi phát sự tái lập phân bào. Trong
thực nghiệm, người ta có thể đánh thức các “phơi sơ khai” (protocorm) khi
sử dụng sốc thẩm thấu bằng cách ni cấy hạt trên mơi trường chứa sucrose
(Bùi Trang Việt, 2002).
+ Keiki:
Keiki chỉ một cây con mọc từ một mấu trên cuống hoa. Một số lồi có
hoa nhỏ như Phalaenopsis lueddemaniana thường tạo keiki trên cuống hoa.
Hiện tượng này được Williams mơ tả lần đầu tiên vào năm 1894 (Williams
và Williams, 1894).
Keiki còn có thể được hình thành ở nhiều lồi Phalaenopsis và một số
loại thuộc các chi lai. Chẳng hạn trong The Genus Phalaenopsis
(Sweet,1980) có trình bày rõ khả năng phát triển cây con từ đốt phát hoa
Phalaenopsis kunstleri ở Kew Gardens. Keiki còn có thể hình thành từ rễ ở
các lồi Philippin Phalaenopsis stuartiana (Williams và Williams, 1894) và
Phalaenopsis schilleriana (Davis và Steiner, 1952). Các cây Phalaenopsis
dưới điều kiện ni trồng khơng thuận lợi sẽ tạo ra keiki trên cuống hoa, đặc
biệt khi đỉnh đã bị cắt bỏ.
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008619
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
Hình 1.5. Keiki của Lan Hồ Điệp
1.3.4. Điều kiện sinh thái của Lan Hồ Điệp
1.3.4.1. Nhiệt độ
Lan Hồ Điệp là loại Lan có thể phát triển ở nhiệt độ tối thiểu 22

o
C -
25
o
C ban ngày và 18
o
C vào ban đêm. Nhiệt độ lý tưởng để cây phát triển tốt
là 25
o
C - 27
o
C.
Lan Hồ Điệp khơng chịu được điều kiện q nóng hay q lạnh, lại
khơng cần nhiều ánh sánh cho nên thích hợp trồng trong nhà hay trong nhà
kính. Khi cây đang ra nụ, nhiệt độ hay độ ẩm thay đổi bất thường sẽ làm cho
nụ hoa hép rụng.
1.3.4.2. Độ ẩm
Lan Hồ Điệp chịu ẩm cao, cần ẩm độ 50 - 80 % nhưng khơng chịu
nhiều nước. Giàn che lan cần phải thích hợp che được 70% nắng. Lan Hồ
Điệp cần nhiều ẩm hơn nước tưới.
1.3.4.3. Ánh sáng
Lan Hồ Điệp cần ánh sáng yếu vì đây là lồi ưa bóng mát, biên độ khá
rộng 5000 - 15000m/m
2
, ánh sáng chỉ cần 20% - 30% là đủ. Tuy nhiên
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008620
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
khơng trồng Lan Hồ Điệp ở nơi q râm mát vì ánh sáng rất cần cho sự sinh
trưởng và trổ hoa. Ánh sáng khuếch tán vừa phải rất tốt; nếu chiếu sáng
được 12h - 16h mỗi ngày, 12h cho cây lớn và 16h cho cây nhỏ thì cây sẽ

phát triển tốt hơn.
Trồng Hồ Điệp trong nhà kính cần có hệ thống làm mát, ánh sáng
nhân tạo thích hợp để Lan phát triển tốt; còn trồng trong nhà thì cần để Lan
ở gần cửa sổ có ánh nắng hoặc khơng cũng được.
1.3.4.4. Độ thơng thống
So với các lồi Lan khác, sự thơng thống rất cần thiết cho Lan Hồ
Điệp. Lan Hồ Điệp hay bị bệnh thối nhũn lá (phỏng lá), sự thơng thống
giúp lá cây mau khơ sau khi tưới và bộ rễ khơng bị úng nước nên hạn chế
bệnh rất nhiều. Ở nước ta vào mùa mưa Lan Hồ Điệp tăng trưởng mạnh,
nhưng những giọt mưa nặng hạt có thể làm thối đọt cây; do đó để ngăn ngừa
tình trạng trên Lan cần phải được che chắn cẩn thận. Cần cung cấp đủ nước
cho cây tránh sự héo rũ, nhăn lá vào mùa gió nhiều và mùa nắng.
1.3.4.5. Nhu cầu nước tưới
Lan Hồ điệp là cây đơn thân nên khơng có giả hành để dự trữ dinh
dưỡng và nước, hơn nữa nước thường tập trung ở lá vì Lan Hồ Điệp có lá
lớn, diện tích tiếp xúc nhiều nên rất dễ thốt hơi nước và chúng khơng có
mùa nghỉ vì thế phải cung cấp cho cây một lượng nước đầy đủ.
Tránh để Lan q khơ vào mùa nắng có thể tưới 3 lần/ngày: sáng,
trưa, chiều. Chú ý khi tưới nước vào buổi trưa phải tưới thật đẫm để tránh
nắng sẽ làm sốc cây Lan. Mùa mưa thì tuỳ theo điều kiện thời tiết mà tưới
nước cho phù hợp, có thể khoảng 10 ngày tưới một lần. Nên tưới vào buổi
sáng để lá cây sẽ khơ, tránh nước đọng vào ngọn, lá non dễ bị thối và cây sẽ
chết.
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008621
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
1.3.4.6. Dinh dưỡng
Lan Hồ Điệp cần dinh dưỡng thường xun, quanh năm vì khơng có
mùa nghỉ. Khi tưới phân khơng nên tưới với nồng độ cao và đừng tưới lên
ngọn cây, nhất là lúc lá non mới nhú ra từ đỉnh sinh trưởng. Tùy từng độ tuổi
của cây mà ta có lượng phân cần bón với tỷ lệ NPK thích hợp. Ngồi việc

dùng phân vơ cơ, ta còn có thể tưới xen kẽ thêm phân hữu cơ với nồng độ
lỗng có pha thêm thuốc trừ nấm.
Lan Hồ Điệp cần bón phân với nồng độ lỗng và có thể tưới nhiều lần
trong tuần. Có thể tưới thêm phân hữu cơ như: bánh dầu, vitamin B1 kích
thích ra rễ Các chất dinh dưỡng cần thiết nhất là Đạm (N), Lân (P), Kali
(K) và Canxi (Ca). Sự thiếu các chất dinh dưỡng này có thể làm ảnh hưởng
đến sự tăng trưởng, phát triển và làm giảm năng suất hoa.
1.3.4.7. Một số sâu bệnh và cách phòng trị
+ Bệnh nhiệt thán: (bệnh đốm nâu)
Là một trong những bệnh hại do nhiễm nấm đĩa gai gây ra, chủ yếu
gây hại trên lá. Thời kì đầu phát bệnh thường có những chấm nhỏ màu xám
nhạt hoặc nâu sẫm, dần dần lan rộng thành đốm bầu dục hoặc tròn có vùng
màu vàng bao quanh đốm đen.
Có thể dùng zineb 0,2% lưu huỳnh - vơi 0,3%, hay benlat 0,1% để trị
bệnh.
+ Bệnh mảng trắng:
Do hạt khuẩn nhỏ gây ra chủ yếu là gây hại trên mầm mới của cây
Lan, sau khi bị nhiễm bệnh chồi của mầm non sẽ bị phân hủy thấm ra chất
dịch màu vàng và mục rữa khiến cây lan bị rụng chết.
Nên thay chậu kịp thời, cắt bỏ rễ cây hư và dùng dung dịch CuSO
4
hoặc RD20 rửa sạch cây lẫn chậu lan, sau khi hong khơ thì đem đi trồng lại
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008622
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
với vật liệu mới. Có thể dùng dung dịch benlat hoặc các loại thuốc chứa
benomyl xịt vào cây Lan, góc lá và rễ.
+ Bệnh khơ lá:
Lá xuất hiện những chấm nhỏ màu nâu đỏ, sau đó nhanh chóng lan ra
thành đốm bệnh hình tròn, đốm bệnh phát sinh ở mép lá có hình bán nguyệt,
làm cho lá Lan bị khơ với diện tích lớn có thể nhanh chóng gây chết cây.

Cắt bỏ lá bệnh và dọn sạch các lá rụng, có thể phun thuốc zineb 0,2%
truban, banor hoặc benlat 0,1% để phun xịt.
+ Bệnh đốm tròn:
Đốm bệnh hình tròn màu đen, ở cả hai mặt lá lõm xuống, khi bệnh
nặng tồn bộ lá trải đều những đốm đen khơ và chết, bệnh sinh sản nhanh.
Có thể dùng Truban, Banort, Zineb 0,2 % hoặc Benlat 1,2 % phun xịt.
+ Bệnh mốc:
Do khuẩn mốc xâm nhập vào lá gây ra. Bệnh thường phát sinh ở mặt
lưng của lá, với những đốm màu vàng cam hay dạng mốc sết trên lá. Bệnh
thường phát sinh vào mùa hè nóng bức và khi trồng Lan khơng thơng gió.
Cắt bỏ những lá bị bệnh nặng, tưới nước kịp thời và hong khơ lá. Trị
bằng Benlat 0,1% hoặc bất cứ loại thuốc nào có chứa Benomyl.
+ Nhện đỏ:
Sống tập trung ở dưới lá bánh tẻ và lá già, hút nhựa làm lá vàng, cháy
khơ xơ xác. Dùng Cascade 5EC, Comite 73EC, phun kỹ mặt dưới lá khi
nhện mới xuất hiện và kết hợp các biện pháp phòng trị bọ trĩ và rệp.
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008623
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
Hình 1.6. Nhện đỏ hại Lan
1.3.4.8. Chậu, giá thể và cách trồng
Cách trồng tốt nhất cho các loại Lan Hồ Điệp là chậu thật thống, có
nhiều lỗ có thể sử dụng chậu đất nung có nhiều lỗ hay chậu nhựa cũng được.
Chậu phải thật sạch khơng có rêu bám trên thành chậu. Thơng thường các
nhà vườn trồng Lan với số lượng lớn (vài ngàn cây) thường dùng than, dớn,
xơ dừa, mút làm giá thể để trồng Lan Hồ Điệp. Có rất nhiều cách trồng
Lan Hồ Điệp tùy theo từng vùng; nhưng có điểm chung là than, mút nằm
dưới đáy chậu, còn xơ dừa hay dớn sẽ nằm trên miệng chậu. Cách trồng này
giúp cây thốt nước tốt vào mùa mưa, khơng bị thối rễ và phát triển tốt.
Trong thời gian khoảng 2 năm ta thay chậu một lần, nếu cây lớn q nhanh
có thể thay chậu sớm hơn.

1.3.5. Giá trị kinh tế và tình hình sản xuất Lan Hồ Điệp
1.3.5.1. Giá trị kinh tế của Lan Hồ Điệp
Lan Hồ Điệp khơng chỉ phổ biến ở Nam Mĩ, trong những năm gần
đây, Lan Hồ Điệp trở thành loại hoa trồng chậu có giá trị nhất trong ngành
cơng nghiệp trồng hoa ở Hà Lan. Chúng còn là những món q xa xỉ ở các
nước Châu Á đặc biệt là Nhật Bản. Ngồi ra các lồi hoa đẹp, xa xỉ cũng
được nhập vào Mỹ để trang trí chậu hoặc dưới dạng q tặng cao cấp.
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008624
Khóa Luận Tốt Nghiệp GVHD: Th.S. Trònh Thò Lan Anh
Ngày nay, hoa Lan cắm chậu đã trở nên khá phổ biến ở hầu hết các
nước trên thế giới. Người ta có thể thấy Lan Hồ Điệp ở mọi nơi, trên truyền
hình, trong nhà, trong vườn, tạp chí thậm chí nơi bạn làm việc. Chứng tỏ,
càng ngày con người càng nhận thức được tầm quan trọng của những chậu
hoa trong cuộc sống thường nhật của mình. Lan Hồ Điệp, là một lồi Lan có
độ bền hoa cao trong điều kiện thích hợp, cũng là một lồi cây rất thích hợp
để trồng trong nhà, dễ ra hoa.
Hơn nữa, trong vài thập kỉ gần đây nền cơng nghệ trồng Lan phát triển
giúp người trồng đã giảm giá thành đáng kể đối với loại Lan này nên giá cả
phù hợp với những người mê hoa hay người mới tập trồng. Lan Hồ Điệp rất
được ưa chuộng và được trồng ở nhiều nơi. Trước đây, Lan Hồ Điệp có giá
khá cao, nên được xem là một loại hàng hố cao cấp trên thị trường. Trong
20 năm trở lại đây, cơng nghệ hiện đại và các nghiên cứu đã giúp cho loại
sản phẩm này trở nên phổ biến với người tiêu dùng, đặc biệt là trong các
ngày lễ. Thêm vào đó, cơng nghệ lai giống và gieo hạt ngày càng tạo nên
nhiều chủng loại giống mới, nổi bật về màu hoa, kích thước hoa… Điều này
làm cho người tiêu dùng rất thích thú với thú chơi Lan và tạo nên những cơn
sốt hoa Lan trên thị trường thế giới.
Lan Hồ Điệp được trồng ở mọi nơi trên thế giới, hầu hết là ở Đức,
Nhật bản, Phần Lan, Đài Loan, Thái Lan và Mỹ. Cây con được ni cấy mơ
ở các nước Phần Lan, Thái Lan, Đài Loan sau đó cây con lại được xuất khầu

cho các nước khác với cả Mỹ để trồng ra hoa.
Hàng ngàn các giống được lai và tạo dòng rất có giá trị trên thị
trường. Các nhà nhân giống đã gieo hạt được rất nhiều giống Lan Hồ Điệp
có chất lượng hoa và cây giống rất có giá trị như các tính trạng qui định màu
sắc hoa, và cấu trúc hoa, nhiều nhánh, nhiều vòi hoa, và gần đây là các giống
có hương thơm. Cuộc chạy đua diễn ra hầu hết tại Đài Loan, điều này dẫn
SVTH: Ưng Thò Mỹ Tiên MSSV: 081111008625

×