Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận chính sách công ở việt nam hiện nay – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.47 KB, 26 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CHÍNH SÁCH CƠNG

Đề tài:
CHÍNH SÁCH CƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP


1

MỞ ĐẦU

Chính sách cơng là một trong những vấn đề quan trọng của chính trị.
Chính sách cơng là một cơng cụ quan trọng của quản lý nhà nước. Thông qua
việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà nước được
hiện thực hóa. Chính sách cơng là quyết định của các chủ thể quyền lực nhà
nước, nhằm quy định mục đích, cách thức và chế định hành động của những đối
tượng liên quan, để giải quyết những vấn đề nhất định mà xã hội đặt ra. Đó là
tổng thể các chuẩn mực, biện pháp mà nhà nước sử dụng để quản lý xã hội..
Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi ban hành các chính sách để tạo ra những
nhân tố, môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì vậy, trong một
thời gian khá dài, Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng và ban hành các thể
chế, nhằm tạo các hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Điều đó
đã tạo nra những tiền đề nhất định cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, việc ban hành hàng loạt văn bản pháp luật trong khơng ít trường hợp
dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy
định pháp lý, mà cuối cùng là sự chi phối của chúng đối với các hoạt động kinh
tế - xã hội theo các chiều khác nhau, khiến cho những hoạt động này không đạt
được mục tiêu mong muốn. Nói cách khác, hàng loạt chính sách được ban hành,
có hiệu lực thi hành, song việc chính sách đó có hiệu lực thực tế như thế nào và


đáp ứng mục tiêu đặt ra đến đâu thì dường như không được quan tâm.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề, tác giả quyết định lựa chọn đề tài
“Chính sách cơng ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và giải pháp” làm đề tài
tiểu luận học phần mơn Chính sách cơng


2

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH CƠNG
1.1. Khái niệm chính sách cơng
Chính sách cơng” là một cụm từ được sử dụng phổ biến trong các tài liệu
và trên các phương tiện truyền thông, tuy nhiên nó là thuật ngữ khó có thể định
nghĩa một cách cụ thể và rõ ràng. Cho đến hiện tại, có rất nhiều quan niệm khác
nhau vể chính sách cơng, song có thể hiểu: Chính sách cơng là thuật ngữ dung
để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một
vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác
định..
Theo quan niệm về chính sách cơng nêu trên, có thể rút ra những đặc
điểm cơ bản về chính sách cơng sau:
Thứ nhất, chính sách cơng bắt nguồn từ các quyết định do Nhà nước ban
hành và nội dung của chính sách được thể hiện trong các văn bản, quyết định
của Nhà nước.
Thứ hai, chính sách cơng bao gồm một tập hợp các quyết định được ban
hành qua một giai đoạn dài và kéo dài sang cả giai đoạn thực thi chính sách.
Chính sách cơng ln khơng được thể hiện rõ ràng trong một quyết định đơn lẻ,
mà có xu hướng được xác định dưới dạng một chuỗi các quyết định gắn liền với
nhau. Thứ ba, chính sách cơng hướng tới giải quyết vấn để công và tác động đến
lợi ích của một hoặc nhiều nhóm dân số trong xã hội.
Thứ tư, chính sách cơng bao gồm hai bộ phận cấu thành là mục tiêu và

giải pháp chính sách.
Thứ năm, mục tiêu của chính sách cơng là tạo ra những thay đổi và nhằm
đạt được các mục tiêu phát triển của đất nước hoặc địa phương.
Thứ sáu, các chính sách công luôn thay đổi theo thời gian, bởi những
quyết định sau có thể có những điều chỉnh so với các quyết định trước đó, hoặc


3

do có những thay đổi trong định hướng chính sách ban đầu; hoặc là kinh nghiệm
về thực thi chính sách cơng được phản hồi vào q trình ra quyết định; và do
định nghĩa về các vấn đề chính sách cơng cũng thay đổi qua thời gian.
Cuối cùng, về cơ bản chính sách cơng được xem là đầu ra của q trình
quản lý nhà nước, là sản phẩm trí tuệ của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
và của cả xã hội.
1.2. Vai trị của chính sách cơng
1.2.1. Vai trị chung của chính sách cơng
- Vai trị định hướng: Trên thực tế chính sách của các quốc gia là chủ
trương tương đối dài hạn của nhà nước nhằm hướng dẫn, khai thong con đường
phát triển của đất nước. Là những quy phạm hành vi, chính sách góp phần định
hướng hoạt động của các chủ thể trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội theo những
mục tiêu, phương hướng, kế hoạch xác định của nhà nước. Đồng thời, nó cũng
hướng dẫn việc sử dụng và tận dụng các nguồn nhân tài, vật lực để giải quyết
những vấn đề mà nhà nước quan tâm.
- Vai trị kích thích phát triển: chính sách công được ban hành hướng vào
giải quyết một vấn đề bức xúc đang đặt ra trong đời sống xã hội, làm cho sự
phát triển lên một bước. Phần lớn chính sách cơng có vai trị kích thích, tạo ra
động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế xã hội (đây là điểm khác biệt của
chính sách cơng với các cơng cụ quản lý khác).
- Vai trị điều tiết: các chính sách là cơng cụ để nhà nước điều tiết các

quan hệ lợi ích (nhất là các quan hệ lợi ích vật chất). Trong xã hội có nhiều chủ
thể cùng theo đuổi những lợi ích với nhau sự khác biệt (thậm chí xung đột) về
lợi ích là điều khó tránh khỏi. Các chính sách có vai trị điều tiết sự mất cân
bằng hoặc những hành vi không phù hợp nhằm bảo đảm sự ổn định, phát triển
của xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Chẳng hạn, nhà nước có thể
sử dụng các chính sách để điều tiết nền kinh tế thị trường như: chính sách thuế,
chính sách giá cả, chính sách cho vay vốn đối với các hộ nơng dân nghèo, chính


4

sách đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu…
Các chính sách có vai trị phân phối lợi ích. Trong xã hội, lợi ích cá nhân
kết hợp chặt chẽ với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Nhà nước có thể sử dụng
chính sách để bảo hộ, ưu đãi nhằm thảo mãn nhu cầu lợi ích của số đơng hoặc
kiềm chế nhu cầu lợi ích của một số người, bảo đảm hài hịa quan hệ lợi ích
trong xã hội. Việc phân phối lợi ích này là một q trình vận động không ngừng,
bao hàm các nội dung sau:
+ Lựa chọn lợi ích (xác định đối tượng thụ hưởng của chính sách): trong
xã hội có giai cấp, chính sách có lien quan đến phân phối lợi ích của nhà nước
phải phù hợp với quan điểm, lợi ích của giai cấp thống trị. Xuất phát từ những
điều kiện lịch sử, trong những thời điểm cụ thể, chính sách có thể ưu tiên cho
nhóm người này hoặc nhóm người khác.
+ Tổng hợp lợi ích: là chủ thể nắm giữ quyền lực công, khi phân phối lợi
ích, nhà nước phải xét đến mối tương quan lợi ích của các thành viên trong xã
hội. Để giải quyết những mâu thuẫn lợi ích nảy sinh trong quan hệ lợi ích phức
tạp, nhà nước cần xem xét trên cơ sở tổng hợp nhu cầu của các chủ thể lợi ích
khác nhau để đề ra chính sách cho phù hợp.
+ Phân phối lợi ích: việc thực hiện chính sách sẽ đem lại lợi ích cho một
bộ phận xã hội (do họ được tiếp nhận những nguồn lực nhất định). Như vậy,

chính sách có vai trị phân phối lợi ích cho các thành viên trong xã hội. Một
trong những đặc điểm lớn nhất của chính sách là bảo vệ lợi ích lâu dài, lợi ích
của đa số và lợi ích cơ bản của xã hội.
+ Thực hiện lợi ích: việc quán triệt nội dung của chính sách vào thực tiễn.
Việc phân phối lợi ích chỉ có kết quả thong qua triển khai thực hiện chính sách.
Nếu chính sách khơng được thực hiện thì đối tượng của chính sách khơng nhận
được lợi ích từ chính sách.
Tóm lại, chính sách là sự phân phối lợi ích đối với tồn xã hội. Đó là một
sự phân phối có chọn lọc, sau khi đã cân nhắc các mâu thuẫn lợi ích và sự phân
phối đó chỉ trở thành hiện thực sau khi chính sách được thực thi.


5

1.2.2. Vai trị của chính sách cơng trong thực thi quyền lực chính trị
Chính sách cơng là cơng cụ thực hiện quyền lực chính trị: khi một giai
cấp thực hiện được sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước,
tất yếu sẽ nảy sinh nhu cầu sử dụng công cụ đặc quyền ấy để tổ chức, xây dựng
chế độ xã hội mới nhằm thực hiện lợi ích khách quan của mình bằng việc triển
khai các chính sách trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nước có vai trị
đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
lựa chọn chính sách, phương thức điều tiết kinh tế vĩ mơ. Nhà nước khơng thể
thực hiện sự quản lý có hiệu quả nếu khơng sử dụng cơng cụ chính sách để giải
quyết những vấn đề kinh tế - xã hội đang đặt ra cho đất nước. Như vậy, chính
sách cơng là mọt trong những nội dung quan trọng nhất của việc thực hiện
quyền lực nhà nước; là chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm
hoặc chi phối quyền lực cơng cộng. Nhà nước có vai trị đặc biệt quan trọng
trong việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, lựa chọn chính sách,
phương thức điều tiết kinh tế vĩ mơ.
Chính sách cơng ra đời nhằm giải quyết các mâu thuẫn trong xã hội:

trong cơ chế thực hiện quyền lực, các thiết chế chính trị khác (các đảng chính trị,
các tổ chức chính trị - xã hội) luôn tác động hoặc gây áp lực lên quá trình ban
hành chính sách của nhà nước. Vì vậy, chính sách công luôn là sản phẩm đầu ra
của hệ thống chính trị. Chính sách cơng, xét đến cùng, được hoạch định nhằm
giải quyết mâu thuẫn giữa khả năng hữu hạn và nhu cầu vô hạn của con người.
Về thực chất, chính sách là tập hợp các phương án giải quyết cá mâu thuẫn, các
xung đột về giá trị xã hội trong một cộng đồng, có mục đích cuối cùng là tạo ra
một trật tự quan hệ lợi ích mà xã hội có thể chấp nhận thong qua ý chí của chủ
thể cầm quyền. Việc đưa ra giải pháp phân phối giá trị, quyết định và thực hiện
nó chính là việc hoạch định và thực hiện chính sách cơng. Việc đó chỉ có thể
được thực hiện bởi tổ chức quyền lực đương nhiên có khả năng quy định sự tuân
phục của mọi thành viên xã hội là nhà nước.
Chính sách cơng thực chất là sự thể hiện quyền lực chính trị của chủ thể


6

cầm quyền. Nhà nước, về hình thức, là tổ chức đại diện quyền lực công, về bản
chất lại là sự thể hiện tập trung quyền lực của giai cấp thống trị. Như vậy, về
ngun tắc, chính sách cơng được quyết định bởi quyền lực công, song thực tế
quyền lực công lại bị chi phối, quyết định bởi quyền lực chính trị. Hình thức thể
hiện trực tiếp của quyền lực chính trị là các quyết định chính trị (cương lĩnh, chủ
trương, chính sách quan trọng đối với tồn xã hội). Theo cách gián tiếp, quyết
định của quyền lực chính trị thể hiện tập trung thơng qua việc chỉ đạo q trình
hoạch định và thực hiện chính sách cơng của tổ chức nhà nước – hình thức tổ
chức được thừa nhận phổ biến và đương nhiên là đại diện cho quyền lực cơng,
có quyền quyết định chính sách cơng. Trong hệ thống chính trị tư sản, nhà nước
là chủ thể nắm trực tiếp và tồn bộ quyền lực chính trị. Điều đó giải thích tại sao
trong hầu hết các định nghĩa về chính sách, các nhà khoa học phương Tây
thường mặc nhiên đồng nhất chủ thể nắm quyền lực chính trị là nhà nước.

-

Chính sách cơng đóng vai trị quyết định trong việc giành, giữ và

thực hiện quyền lực chính trị. Các chính sách được xây dựng và tổ chức khoa
học, đáp ứng được nhu cầu của xã hội sẽ thúc đẩy sự tiến bộ. Ngược lại, những
chính sách bảo thủ, lỗi thời nếu không được điều chỉnh kịp thời sẽ trở thành vật
cản của sự phát triển. Có thể khẳng định, tính khoa học và thực tiễn của các
chính sách được thể hiện ở khả năng phản ánh đúng đắn, chính xác và kịp thời
những yêu cầu và thực trạng của đời sống xã hội, có ý nghĩa quyết định trực tiếp
đến sự thành cơng của các q trình chính trị. Năng lực hoạch định và tổ chức
thực hiện chính sách là sự phản ánh trình độ năng lực thực tiễn và nghệ thuật
quản lý điều hành xã hội của giai cấp cầm quyền; hiệu lực, hiệu quả của các
chính sách là thước đo đánh giá, thẩm định vai trò thực tế của giai cấp đó.
Lịch sử phát triển của xã hội đã chứng minh rằng, khơng thể có sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững nếu khơng có một chính phủ hiệu quả. Và hiệu
quả của một chính phủ chỉ đạt được khi nó có khả năng đề ra và thực hiện được
các chính sách đáp ứng những yêu cầu cơ bản cho sự phat triển quốc gia. Chính
phủ sẽ bị đổ nếu khơng xây dựng được chính sách hợp lòng dân, phù hợp với xu


7

thế phát triển của xã hội; cũng như sự thay đổi chế độ tất yếu dẫn đến sự thay
đổi về chính sách. Có thể nói: khả năng đưa ra và thực hiện được các chính
sách đúng đắn, hiệu quả, hợp lịng dân sẽqut định một cách cơ bản tính chính
đáng của quyền lực. Một quốc gia muốn tăng trưởng lâu dài thì phải có những
chính sách phát triển bền vững. Kinh nghiệm cho thấy, những nước có chính
sách hướng ra bên ngoài và hướng vào thị trường sẽ đạt được thành tựu. Trong
q trình này, nhà nước có vai trị chỉ đạo, nâng đỡ và động viên khích lệ các

tầng lớp dân cư, thong qua những chính sách, bước đi phù hợp, khắc phục khó
khăn và tận dụng mọi lợi thế cũng như cơ hội để phát triển.
-

Chính sách cơng là động thực thúc đẩy xã hội phát triển. Ngày nay,

phát triển (linh hồn là phát triển bền vững) với tính chất của một q trình
chuyển đổi xã hội đã trở thành mệnh lệnh của thời đại và là yêu cầu sống cồn
của các quốc gia – dân tộc. Đó là tư tưởng chủ đạo đang chi phối đời sống chính
trị thế giới đương đại và cũng là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Trong q trình
đó, nhà nước với vị thế là trung tâm quyền lực quốc gia có vai trị quyết định
trực tiếp cho q trình phát triển. Chỉ nhà nước – người đại diện cho quốc gia
mới có thể giải quyết được những khó khăn trong đời sống xã hội cũng như khả
năng khơi dậy các nguồn lực của quốc gia phục vụ cho yêu cầu phát triển. Cũng
chỉ có nhà nước mới có thể đề ra những chính sách cơ bản để giải quyết các vấn
đề về kinh tế - xã hội. Sự vận động của đời sống chính trị ngày càng khẳng định
vai trị của nhà nước trong việc tạo lập mơi trường, chính sách thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội và các chính sách cơng đóng vai trị là chìa khóa, người dẫn
đường cho sự phát triển. Sự cất cánh và phát triển thành công của các quốc gia
ngày càng gắn chặt với chính sách, cũng như vện mệnh của mỗi quốc gia phụ
thuộc vào chất lượng chính sách của các chính phủ. Hơn nữa, những vấn đề tồn
cầu ngày càng sâu sắc đang đòi hỏi sự nỗ lực phối hợp hành động của nhiều
quốc gia trong những chính sách chung. Chính sách là cơng cụ quan trọng của
quản lý nhà nước, vai trò của nhà nước ngày càng trở nên quan trọng trong việc
điều tiết nền kinh tế thì việc nhà nước sử dụng chính sách để quản lý các quá


8

trình kinh tế - xã hội ngày càng trở nên khách quan hơn. Kinh nghiệm của một

số quốc gia trên thế giới cho thấy: một chính phủ tốt là chính phủ biết đề ra các
chính sách đúng và biết tổ chức thực hiện chính sách đó có hiệu quả. Ngược lại,
những chính sách sai lầm sẽ gây ra những hậu quả tai hại khó lường cho xã hội.
Điều đó cho phép khẳng định, việc nghiên cứu và nắm vững khoa học về chính
sách cơng đã trở thành u cầu ngày càng cần thiết để nâng cao chất lượng hoạt
động của các cấp chính quyền nhà nước.


9

Chương 2
CƠNG TÁC XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH CƠNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY – THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN
2.1. Thực trạng việc xây dựng chính sách cơng ở Việt Nam
2.1.1. Thành tựu
Các chính sách là sản phẩm và cơng cụ trong q trình lãnh đạo và quản
lý của Đảng và Nhà nước để thực hiện các mục tiêu cách mạng. Trải qua hơn
nửa thế kỷ hình thành và phát triển, Nhà nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đã đưa đất nước vượt qua những thử thách thăng trầm của
lịch sử, đánh thắng giặc ngoại xâm, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, ổn
định và đang trên đà phát triển. Đặc biệt qua gần 30 năm tiến hành công cuộc
đổi mới vừa qua, trên cơ sở đường lối và những định hướng chính sách của
Đảng, Nhà nước ta đang tiến hành một loạt chính sách kinh tế - xã hội quan
trọng, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng, đạt được tốc độ tăng trưởng cao,
đồng thời đảm bảo sự ổn định và phát triển về mặt xã hội.
Để có được những quyết sách chính trị đúng đắn, trong q trình xây
dựng đường lối, chính sách, Đảng và nhà nước ta luôn tôn trọng nguyên tắc tập
trung dân chủ, thực sự cầu thị, nhờ đó đã phát huy được trí tuệ tập thể của tồn
Đảng, tồn dân. Nhiều chủ trương, chính sách được phát hiện, hình thành từ
sáng kiến của quần chúng. Đội ngũ các nhà khoa học, nhất là khoa học xã hội

ngày càng được huy động rộng rãi vào q trình xây dựng chính sách. Các chính
sách quốc gia do đó ngày càng được luận chứng đầy đủ hơn, dựa trên cơ sở khoa
học, có căn cứ lý luận trên cơ sở tổng kết và khái qt hóa thực tiễn. Trong q
trình xây dựng các chủ trương, chính sách, Đảng và Nhà nước ta ln chú ý
tham khảo, tiếp thu những tri thức và kinh nghiệm của các nước tiên tiến, cũng
như luôn lắng nghe ý kiến đóng góp của các chuyên gia, các nhà hoạch định
chính sách có trình độ cao và nhiều kinh nghiệm của thế giới. Về nội dung, quá
trình hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta luôn được đảm


10

bảo bởi tính hệ thống, tính kế thừa, tính khoa học và cách mạng, tính dân tộc và
thời đại; phát huy tính chủ động sáng tạo, tính độc lập và tự chủ, tránh rập khn
máy móc kinh nghiệm của nước ngồi. Tính tồn diện của hệ thống đường lối
chính sách được đảm bảo và thể hiện qua tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Vì vậy, cho dù thực tiễn cách mạng gặp nhiều khó khăn, thách thức với những
biến động lớn, nhưng nhờ có chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và chính
sách của Nhà nước nên chúng ta đều vượt qua mọi khó khăn, đi hết thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đã chứng minh
điều đó.
Khi tổng kết việc xây dựng đường lối, chủ trương nói chung và chính sách
nói riêng, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII đã khẳng định những thành tựu
của hơn 10 năm đổi mới là kết quả của quá trình tiến tới, đổi mới và bám sát thực
tiễn, phấn đấu gian khổ của Đảng và nhân dân ta. Trong hệ thống đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn trước đổi mới, có thể thấy
được những chủ trương, chính sách có ý nghĩa quyết định như: Nghị quyết trung
ương 6 khóa IV (1979) với những chính sách cho sản xuất “bung ra”; Chỉ thị 100
của Ban Bí thư (khóa IV) cải tiến cơng tác khốn, mở rộng khốn sản phẩm đến
nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp; các Quyết định

25-CP và 26-CP về các nguồn cân đối kế hoạch; Kết luận của Bộ Chính trị khóa
V về một số quan điểm lớn về kinh tế. Trên cơ sở đó, Đại hội VI đã đề ra đường
lối và chính sách đổi mới toàn diện đất nước, được Đại hội VII, VIII, IX, X và
XI , XII của Đảng bổ sung và hoàn chỉnh, đã đặt cơ sở cho việc xây dựng hệ
thống các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước ta và hoạch định hàng loạt các
chính sách đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trước mỗi bước ngoặt của cách mạng, Đảng ta luôn đưa ra những chủ
trương, đường lối đúng đắn, định hướng cho hoạch định chính sách của Nhà
nước ln sát hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh quốc tế, do đó chúng ta
thường tránh được những sai lầm đáng tiếc, nhất là về mặt chính trị. Trong
những năm gần đây, q trình xây dựng chính sách ngày càng được tổ chức một


11

cách khoa học, rút ngắn q trình thể chế hóa đường lối thành chính sách. Đảng
và Nhà nước ta chủ trương tiến hành đồng thời việc xây dựng chủ trương, đường
lối với các chính sách, giải pháp thực hiện. Qúa trình bàn bạc dân chủ rộng rãi,
thu hút trí tuệ của tồn Đảng, tồn dân vào việc góp ý xây dựng một chủ trương
nào đó thường gắn với việc xây dựng các biện pháp, chỉ tiêu và bước đi cụ thể
để hiện thực hóa chủ trương đó. Q trình tun truyền, phổ biến đường lối cũng
là lúc chuẩn bị cho ra đời một chính sách. Nói cách khác, xây dựng đường lối và
chính sách là một q trình đang ngày càng đi đến thống nhất và tập trung.
Thực tiễn cách mạng cho thấy rằng, nếu tách rời việc xây dựng đường lối và
chính sách cụ thể để hiện thực hóa đường lối đó sẽ dẫn đến kết cục là đường lối
đó khơng được thực hiện trên thực tiễn, cịn chính sách sẽ gặp phải sai lầm.
Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống chính sách ở nước ta ngày
càng được thể chế hoá bằng pháp luật nhiều hơn. Q trình đó tạo cơ sở pháp lý
vững chắc cho việc tổ chức, quản lý và điều hành đời sống kinh tế - xã hội. Có
thể nói hơn nửa thế kỷ lãnh đạo và quản lý đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã

tích luỹ được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong việc xây dựng và tổ chức
thực hiện các chủ trương và chính sách. Những bài học kinh nghiệm này gắn
liền với mỗi bước vận động và phát triển của thực tiễn cách mạng, của con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối, chính sách đó phản ánh đúng đắn mục
tiêu, lý tưởng của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tồn thể dân tộc;
phản ánh được xu thế vận động khách quan của thời đại, tương quan lực lượng
giai cấp trong xã hội. Đang và Nhà nước với tư cách là các chủ thể chính của
việc xây dựng chính sách ngày càng ý thức được rằng, việc xây dựng chính sách
khơng thuần t là vấn đề chính trị mà cịn có ý nghĩa về văn hoá, truyền thống
và tâm lý của dân tộc. Do đó, xây dựng chính sách rõ ràng là một khoa học và
phụ thuộc vào phẩm chất và năng lực của Đảng và Nhà nước ta.
2.1.2. Những hạn chế
Bên cạnh những thành tựu lớn lao nói trên, q trình xây dựng và thực thỉ


12

chính sách ở nước ta vẫn cịn tổn tại nhiều hạn chế:
Thứ nhất, có quá nhiều chủ thể tham gia vào hoạch định chính sách dẫn
đến tình trạng phức tạp, chồng chéo và thiếu thống nhất, thậm chí mâu thuẫn
nhau. Về nguyên tắc, các chính sách là do Nhà nước ban hành, nhưng trong thực
tế Đảng không chỉ đề ra đường lối (cương lĩnh, chiến lược, sách lược...) mà còn
đề ra nhiều chính sách, thậm chí là những chính sách cụ thể. Ví dụ, Đảng có
chính sách mặt trận đồn kết dân tộc, chính sách cán bộ, chính sách tơn giáo,
chính sách đối ngoại... Hơn nữa, trong thực tiễn chính trị ở nước ta, các tổ chức
chính trị - xã hội cũng có những đóng góp và vai trị nhất định trong việc xây
dựng và thực thi chính sách, đồng thời cũng đề ra những chính sách riêng của
mình. Chính thực tiễn xây dựng và thực thi chính sách với sự tham gia của nhiều
chủ thể phức tạp và không nhất quán như vậy, đôi lúc đã làm cho việc ban hành
nhiều chính sách bị chồng chéo, mâu thuẫn nhau, việc giám sát trách nhiệm thực

thi chính sách bị bng lỏng, xem nhẹ, dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực. Thực
tế cho thấy, nhiều khi các chính sách của Nhà nước đả được thể chế hố, luật
pháp hố lại khơng có hiệu lực và tính thực tiễn bằng các chính sách của Đảng
và các đồn thể xã hội. Có những chủ trương, chính sách của các cấp ủy Đảng
khi đưa vào triển khai đã dẫn đến những sai lầm, gây thiệt hại không nhỏ, nhưng
thường chỉ kiểm điểm, rút kinh nghiệm hay “xử lý nội bộ”. Ở một số địa
phương, nhiều cơ quan, ngành thi hành các nghị quyết cấp ủy lại trái với chính
sách, pháp luật của Nhà nước và ngược lại. Mâu thuẫn khơng đáng có này
thường gây khó khăn cho q trình xây dựng và thực hiện chính sách ở cơ sở.
Thứ hai, cịn thiếu sự phân cơng rành mạch việc hoạch định chính sách
giữa các cơ quan Đảng và Nhà nước, Trung ương và địa phương. Cũng như ở
các nước xã hội chủ nghĩa khác, ở nước ta, cơ quan hoạch định đường lối chính
sách cao nhất vẫn là Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính
trị, Ban cán sự Đảng trong các cơ quan nhà nước. Quốc hội, Chính phủ và các
cơ quan nhà nước khác thường chỉ làm nhiệm vụ thể chế hoá về mặt pháp lý các
chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật. Tuy nhiên, có


13

trường hợp các cơ quan hoạch định chính sách ở cấp cao (cấp trung ương) lại sa
vào chỉ đạo xây dựng và thực hiện những chính sách quá cụ thể, ở tầm vi mô.
Ngược lại, nhiều cấp cơ sở đề ra chủ trương, chính sách lại q chung chung,
khơng bám sát vào điều kiện cụ thể của địa phương, đơn vị mình.
Thứ ba, một số chủ trương, chính sách được xây dựng không dựa trên quy
luật khách quan và điều kiện cụ thể ở đất nước, gay hậu quả nặng nề. Giai đoạn
trước đổi mới, một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, do rập
khuôn kinh nghiệm nước ngồi, khơng căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất nước
nên đã mắc phải những sai lầm, gây hậu quả lớn. Ví dụ: chính sách cải cách
ruộng đất ở Miền Bắc những năm 1955 – 1956; Chính sách cải tạo cơng thương

nghiệp và tập thể hóa nơng nghiệp ở miền Nam những năm 1976 – 1985; chính
sách cơng nghiệp hóa kiểu cũ (ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng)… Đơi lúc
chúng ta có những chính sách đúng, nhưng việc tổ chức thực hiện (bước đi, biện
pháp) do giáo điều, chủ quan, duy ý chí nên đã phạm sai lầm như chính sách giá
– lương – tiền năm 1985.
Thứ tư, việc xây dựng một chính sách thường dựa vào tri thức kinh
nghiệm, nhấn mạnh tính chính trị hơn là tính kỹ thuật, pháp lý, ít khi tuân thủ một
quy trình có tính khoa học chặt chẽ. Nhiều chính sách do ít có điều kiện và khả
năng tính tốn đầy đủ, nên nay ban hành, mai lại thay đổi gây khó khăn cho việc
triển khai thực hiện. Nhiều chính sách chưa được thử nghiệm đã đưa vào áp dụng
trên quy mơ rộng, nên khi bộc lộ nhược điểm thì khó sửa đổi. Nhiều chính sách
đã lỗi thời nhưng chậm được thay đổi, bổ sung mới hoặc huỷ bỏ. Nhiều chính
sách chồng chéo nhau, không rõ ràng về mức độ và phạm vi tác dụng. Các chính
sách thường chú trọng đến mục tiêu, nhiệm vụ hơn là các biện pháp tổ chức thực
hiện. Dù có sự phân bậc rõ ràng về cấp độ giữa chủ trương, đường lối của Đàng
và chính sách của Nhà nước, nhưng nhiều chính sách lớn lại mang tính cương
lĩnh nhiều hơn là một chính sách với những giải pháp và bước đi cụ thể.
Thứ năm, vẫn cịn hiện tượng những người làm chính sách thường có xu
hướng bảo vệ lợi ích của nhóm, ngành, địa phương mình hơn là quan tâm đến


14

lợi ích chung. Xu hướng này thể hiện rõ nhất trong các chính sách về tiễn lương,
thu hút vốn dầu tư, tổ chức - cán bộ,.. Hơn nữa, trong quá trình triển khai thực
hiện, các ngành, địa phương thường tìm kẽ hở của chính sách, vận dụng sao cho
có lợi hơn cho địa phương, đơn vi mình. Do tính quy phạm pháp lý cao của
chính sách, lại trong điều kiện ở nước ta chưa có một cơ chế giám sát, đánh giá
chính sách hiệu quả, chưa có sự phân cấp cần thiết giữa các cấp độ có thẩm
quyền ra chính sách, nên người ta có thể hiểu và vận dụng một cách rất khác

nhau dẫn đến những hạn chế, sai lạc và có những ảnh hưởng tiêu cực khơng nhỏ
khi xét về hiệu quả toàn diện và thực chất của một chính sách.
Thứ sáu, trong quá trinh xây dựng chính sách, lợi ích vật chất và giá trị
tinh thần, lợi ích tập thê và lợi ích cá nhân chưa thực sự được xem xét, cân nhắc
một cách thấu đáo, khi thi quá nhấn mạnh, lúc khác lại bị xem nhẹ, bỏ qua. Nói
cách khác, mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần,
giữa lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân chưa được giải quyết thỏa đáng. Những
đối tượng chịu sự tác động của chính sách ít có điều kiện và khả năng thể hiện
nguyện vọng và thái độ của minh đối với các chính sách.
Thứ bảy, nhiều chính sách được hình thành và áp đặt từ bên trên nhưng
không sát hợp với thực tiễn, với những điều hiện khách quan ở cơ sở. Một số
chính sách do quá chú trọng đến cái chung, cái phổ biến, ít chú trọng đến cái
riêng, cái đặc thù của từng địa phương, đến khi áp dụng thường không mang lại
hiệu quả như mong muốn. Ngược lại, nhiều yêu cầu chính sách được phản ánh
từ dưới lên lại bị xem nhẹ, thậm chí bỏ qua. Trong một số trường hợp cịn có sự
trùng lặp hoặc mâu thuẫn nhau giữa các cơ quan, các cấp có thẩm quyền ban
hành chính sách về cùng một loại vấn đề. Kết quả là, trong cùng một lĩnh vực,
một vấn đề lại có những chính sách, quy định khơng đúng thẩm quyền, phạm vi
quyền hạn. Trong điều kiện chúng ta còn hạn chế về tài nguyên, nguồn lực như
hiện nay, thực tế này là một sự lãng phí lớn, gây trở ngại đến quá trình phát triển
chung của đất nước.


15

Nhìn trên tổng thể, chúng ta chưa có điều kiện để tổng kết lại tồn bộ q
trình xây dựng chính sách, chưa có quan niệm thống nhất về chính sách và q
trình ra chính sách. Đến nay chúng ta vẫn chưa có một chính sách, một quy định
pháp lý thống nhất quy định rõ chức năng, quyền hạn và phân công nhiệm vụ cụ
thể đối với các cơ quan làm chính sách. Thực tế là khơng ít cấp có thẩm quyền

phê duyệt chính sách lại khơng có đủ năng lực và điều kiện để có thể đưa ra
những luận cứ khách quan, đáng tin cậy trong việc thẩm định, chọn lọc và quyết
định các chính sách. Đây là một thực tế địi hỏi phải nhìn nhận nghiêm túc,
nhanh chóng đưa ra quy trình hoạch định chính sách ở nước ta lên ngang tầm
với nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
Để nắm lấy những cơ hội tương lai thì những bài học thất bại cũng quan
trọng không kém những bài học thành cơng. Thực tiễn đang địi hỏi chúng ta
phân tích lại những chính sách trong q khứ, từ đó phát triển các nguyên tắc
khoa học chính sách phù hợp với điều kiện Việt Nam làm cơ sở cho việc hoạch
định và thực thi các chính sách cho giai đoạn phát triển mới - giai đoạn cơng
nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước.
2.2. Nguyên nhân của thực trạng
2.2.1. Nguyên nhân của thành tựu
Chất lượng cơng tác hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước được
cải thiện mạnh mẽ, trong đó có việc nhìn nhận lại vai trị của Nhà nước trong
nền kinh tế cũng như các lĩnh vực khác đã đóng một vai trị quan trọng và được
thể hiện trong tồn bộ hệ thống chính sách của Việt Nam.
Những truyền thống lích sử trải qua nhiều thế hệ (nhà nước và nhân dân
ln có một sự gắn bó nội tại, tự nhiên; các giá trị cộng đồng luôn được đề cao;
…) đã kết tinh thành những tinh hoa của văn hóa chính trị Việt Nam. Đó là một
trong những yếu tố khách quan và là cơ sở để chúng ta xây dựng hệ thống chính
sách quốc gia có tính hiện thực và phù hợp với những nét đặc thù của đất nước,
với tâm lý dân tộc. Do đó, khi các chính sách bên hành dễ dàng đi vào cuộc
sống.


16

Trình độ của đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách ngày càng được nâng
lên thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng cả trong nước lẫn cử đi học ở nước

ngoài. Nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dường ngày càng được đổi mới theo
hướng tích cực.
Cơng tác đánh giá chính sách ngày càng được chú trọng. Các thủ tục hành
chính đang được cải cách theo hướng đơn giản và hiệu quả hơn, giảm bớt sự
chồng chéo, nhiều thủ tục phiền hà. Nhân lực và vật lực giành cho việc hoạch
định, tổ chức thực hiện chính sách cơng ngày càng được tăng cường.
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Sự hạn hẹp về nguồn vốn cũng là nguyên nhân dẫn đến chất lượng hoạch
định, tổ chức thực hiện chính sách cơng chưa đạt được hiệu quả cao. Thực tế,
khi dự thảo chính sách, do tính chất liên ngành của chính sách quốc gia, để thực
thi và đạt hiệu quả cao đòi hòi sự phối hợp của nhiều cơ quan, dẫn đến nguồn
ngân sách vốn hạn hẹp lại phải phân bổ cho nhiều đơn vị. Thực tế đó cũng dẫn
đến nhiều chính sách thụ động, có tính chất tình thế khi được thực thi đã làm
phát sinh khơng ít những hệ quả và vấn đề phức tạp khác; làm phân tán nguồn
lực, không thể đầu tư giải quyết được những vấn đề ở một lĩnh vực, một địa
phương nào đó một cách cơ bản, lâu dài. Cũng có những chính sách, về mặt kỹ
thuật, bộ may hoạch định chính sách có thể đưa ra được những đề xuất có khả
năng giải quyết dứt điểm, triệt để những bất hợp lý, mâu thuẫn của chính sách
cũ, song về điều kiện kinh tế - xã hội thì lại rất khó đạt tới. Do vậy, phần lớn giải
pháp, chọn lựa chính sách ở nước ta hiện nay mới chỉ dừng lại ở những khía
cạnh và tính chất ứng phó tình thế nhiều hơn là giải pháp đồng bộ, tồn diện.
Các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơn nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơch đị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơnh chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ yến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơu xuất phát từ các cơt phát từ các cơ các c ơ
quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước.c được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước.c giao nhiệm vụ quản lý nhà nước.m vụ quản lý nhà nước. quản lý nhà nước.n lý nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước.c. Như vậy, chính sáchy, chính sách
cơng được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước.c ban hành dựa trên suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơa trên suy xét, phân tích tình hình thựa trên suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơc tến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ và trên c ơ
s những mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đềng mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đền quản lý nhà nước.n lý củ yếu xuất phát từ các cơa từ các cơng cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước.c. Sựa trên suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơ tham gia đề
xuất phát từ các cơt ý tư ng hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơch đị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơnh chính sách, hoặc đóng góp vào xây dựng cácc đóng góp vào xây d ựa trên suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơng các
phương án, biệm vụ quản lý nhà nước.n pháp chính sách củ yếu xuất phát từ các cơa các đốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đềi tược giao nhiệm vụ quản lý nhà nước.ng bị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ ản lý nhà nước.nh h ư ng b i


17


chính sách là rất phát từ các cơt hạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơn chến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ. Rất phát từ các cơt ít các chính sách công đ ược giao nhiệm vụ quản lý nhà nước.c ban hành xu ất phát từ các cơt
phát từ các cơ ý tư ng củ yếu xuất phát từ các cơa những mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đềng đốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đềi tược giao nhiệm vụ quản lý nhà nước.ng bị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ chính sách chi phốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đềi, ản lý nhà nước.nh hư ng và
các biệm vụ quản lý nhà nước.n pháp thựa trên suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơc hiệm vụ quản lý nhà nước.n chính sách do những mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đềng nhà quản lý nhà nước.n lý xây d ựa trên suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơng nên.
Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho một số chính sácht trong những mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đềng nguyên nhân cơ bản lý nhà nước.n làm cho một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho một số chính sácht sốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đề chính sách
tính khản lý nhà nước. thi thấp, hoặc khi thực thi không đem hiệu quả như nhà quản lý mong
muốn.
Quy trình hoạch định chính sách cịn bị khép kín; việc lấy ý kiến tham gia
của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách cịn ít, nếu có thì
hình thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chưa thể hiện tính chủ động.
Mặt khác, chưa có quy định cụ thể đê huy động được trí tuệ của nhân dân, các
chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách là vơ hình
chung làm hạn chế cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Trong q trình hoạch
định chính sách công chưa tạo được kênh thông tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến
đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách. (Việc này ảnh
hưởng tới tính tự giác thực hiện chính sách...). Trong khi đó, chính sách khơng
thế là ý muốn chủ quan của cơ quan nhà nước, càng khơng phải là ý chí áp đặt
của cá nhân có thẩm quyền mà xuất phát từ hiện thực khách quan, từ việc tìm
kiếm, phát hiện, nhận thức một cách biện chứng các vấn đề nảy sinh trong đời
sống kinh tế - xã hội và có các phương án giải quyết phù hợp với thực tế. (Từ
thực tiễn đế hoạch định chính sách, đó cũng chính là biểu hiện tính khách quan
của chính sách). Một chính sách đúng đắn phải từ thực tế khách quan.
Việc hoạch định chính sách cơng chưa mang tính dự báo cho tương lai, chủ
yếu là theo tính chất bị động và tầm nhìn hẹp. Chẳng hạn chính sách giáo dục của
chúng ta hiện nay, từ trước đến nay các trường xác định chỉ tiêu đều dựa vào
những tiêu chí: số học sinh, sinh viên chính quy/giáo viên, giảng viên quy đối;
diện tích sàn xây dựng trực tiếp phục vụ đào tạo. Như vậy, việc cấp chỉ tiêu đào
tạo chưa hề dựa trên yếu tố dự báo hoặc nhu cầu nhân lực xã hội. Vì thiếu tính dự
báo trước nhu cầu nguồn nhân lực của tương lai nên khơng có chính sách khuyến
khích và định hướng cho học sinh dẫn tới tình trạng quá nhiều học sinh đua nhau



18

thi vào các ngành kinh tế kỹ thuật mà tỷ lệ thi các khối xã hội lại rất ít, đế rồi hiện
nay Bộ Giáo dục và đào tạo đưa ra quyết định khơng tuyển các ngành tài chính,
ngân hàng, kế toán trong các trường Đại học và Cao đẳng năm 2013 vì “bão hịa”.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐỔI MỚI, TĂNG CƯỜNG XÂY DỤNG
CHÍNH SÁCH CƠNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

3.1. Thống nhất quan niệm về chính sách, từ đó nâng cao hiệu quả
của việc xây dựng chính sách
Cần hiểu chính sách theo nghĩa rộng là tổng thể các quan điểm, quy định,
các biện pháp mà chủ thể lãnh đạo, quản lý (Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính
trị -xã hội) tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt đến một mục tiêu nào đó
trong một khoảng thời gian nhất định. Theo nghĩa hẹp, chính sách là quy định cụ
thể nhằm thực hiện đường lối, nhiệm vụ nhất định. Đó là sản phẩm của hoạt
động của chủ thể nắm quyền lực nhà nước nhằm giải quyết những vấn đề chung
có ảnh hưởng đến các cộng đồng dân cư trong xã hội. Chính sách địi hỏi xác
định mục đích, phương tiện, phạm vi, đối tượng, lĩnh vực và không gian, cụ thể.
Trong mỗi thời kỳ, khi mục tiêu, nhiệm vụ thay đổi thì chính sách cũng thay đổi.
Ở nước ta, khi Đảng chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, các chính sách của Nhà nước cũng tập trung vào những vấn đề cơ
bản: định hướng, khuyến khích các thành phần kinh tế; tập trung vào những cân
đối lớn của nền kinh tế; xây dựng các quy tắc chung tạo ra khung pháp lý an
toàn cho sự vận động của toàn bộ nền kinh tế; xây dựng và hồn thiện các chính
sách xã hội, văn hóa, an ninh – quốc phịng, đối ngoại. Nhà nước không can
thiệp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, từng
bước xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đó.

3.2. Xây dựng quy trình cơng nghệ hoạch định chính sách
Ở giai đoạn hình thành chính sách cần xác định mục tiêu, nhiệm vụ của


19

chính sách cụ thể, rõ rang, mang tính hiện thực, theo đường lối, chủ trương của
Đảng, tránh chủ quan, duy ý chí, áp đặt. Cần phân tích tình hình, dự đốn các
biến động có thể xảy ra trong tương lai có thể ảnh hưởng đến chính sách. Xác
định rõ đối tượng chịu tác động của chính sách, lựa chọn phương án tối ưu, vì
vậy phải huy động sự tham gia của các nhà khoa học, các đơn vị, cá nhân có uy
tín. Bước sang đoạn thực thi chính sách, trước hết phải huy động tối đa các
nguồn lực (từ Nhà nước, nhân dân, các tổ chức quốc tế…). Cần lựa chọn các cơ
quan thực hiện chính sách, có sự phân cơng nhiệm vụ, quyền hạn, lợi ích rõ rang
trong hoạt động phân phối. Thường xuyên theo dõi kiểm tra việc thực hiện và
khi cần thiết phải điều chỉnh chính sách. Trong khâu đánh giá, tổng kết chính
sách, cần rút kinh nghiệm, chỉ ra cái được và hạn chế của chính sách, đưa ra các
kiến nghị về triển vọng phát triển, các chính sách kế tiếp. Việc thiết kế quy trình
hoạch định chính sách khơng chỉ dân chủ, khoa hộc, mà còn phải phù hợp với
định hướng xã hội chủ nghĩa đã được chúng ta lựa chọn một cách có ý thức, có
trách nhiệm với tương lai của tồn dân tộc.
3.3. Xây dựng nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật
Chính sách là tổng thể các quan điểm, chủ trương của Đảng và các văn
bản pháp lý do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Do tính thống
nhất giữa nội dung và hình thức như vậy nên quan điểm, chủ trương, đường lối
của Đảng chỉ trở thành chính sách thực sự khi nó được thể chế hóa về mặt pháp
lý.
Trong nhà nước pháp quyền, mọi chủ trương, đường lối, chính sách đều
phải thực hiện thơng qua pháp luật. Q trình luật pháp hóa địi hịi các chính
sách phải được cân nhắc và được tổ chức xây dựng một cách khoa học. Pháp

luật sẽ quy định các cấp có thẩm quyền ra chính sách, quy trình ban hành chính
sách cũng được quy định đầy đủ, chặt chẽ, sẽ thể hiện rõ quan điểm của Đảng,
Nhà nước trong việc bảo vệ, khuyến khích hay hạn chế các hoạt động, các lợi
ích cụ thể. Và quan điểm, đường lối của Đảng sẽ càng có ý nghĩa xã hội nếu như



×