Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành triết học lễ phục sinh của công giáo ở việt nam – ý nghĩa và giá trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 76 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------

HOÀNG THÁI PHƯƠNG

LỄ PHỤC SINH CỦA CƠNG GIÁO VIỆT NAM

u

iệ

il



Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ

U

VN
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


--------------------------

HOÀNG THÁI PHƯƠNG

LỄ PHỤC SINH CỦA CƠNG GIÁO VIỆT NAM
Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ

u

iệ

il


VN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

U

NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. VŨ VĂN CHUNG

Hà Nội - 2019


Lời cảm ơn

Trong suốt q trình làm khố luận, đã có rất nhiều cá nhân cùng cộng
đồng đã giúp đỡ, hộ trợ em. Trước tiên với tình cảm sâu sắc và chân thành nhất,
cho phép em được bày tỏ lòng biết ơn đến tất cả các cá nhân và tổ chức đã tạo
điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài
này.
Để hồn thành khóa luận này, em xin tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến thầy Vũ
Văn Chung, đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình viết Khoá
luận tốt nghiệp.
Em chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong khoa Triết học cùng Bộ môn Tôn
giáo học, Trường Đại học KHXH và NV đã tận tình truyền đạt kiến thức trong



những năm em học tập. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong q trình học

il

iệ

khơng chỉ là nền tảng cho q trình nghiên cứu khóa luận mà cịn là hành trang

u

q báu để em bước vào đời một cách vững chắc và tự tin.

VN

Do kinh nghiệm thực tế còn non yếu, nên chắc chắn em còn nhiều thiếu sót

U


nên rất mong các thầy cơ bỏ qua. Đồng thời mong nhận được nhiều ý kiến đóng
góp từ các thầy cơ để giúp em tích lũy thêm kinh nghiệm để hoàn thiện bài báo
cáo tốt nghiệp sắp tới đạt kết quả tốt hơn. Em xin kính chúc quý thầy, cô dồi dào
sức khỏe và thành công trong sự nghiệp cao quý.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 29 tháng 4 năm 2019
Phương
Hoàng Thái Phương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
NỘI DUNG.......................................................................................................... 6
Chương 1: LỄ PHỤC SINH CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO TRONG
TRUYỀN THỐNG KITÔ.................................................................................. 6
1.1. Lịch sử và vị trí lễ Phục sinh trong truyền thống Kitơ ............................ 6
1.1.1. Lịch sử hình thành ....................................................................................... 6
1.1.2. Vị trí của ngày lễ Phục Sinh trong năm Phụng Vụ của các tín đồ Kitơ
giáo. ..................................................................................................................... 10
1.2. Ý nghĩa và phong tục ngày lễ Phục Sinh trong truyền thống Kitô. ..... 12
1.2.1. Ý nghĩa Phục sinh trong truyền thống Kitô. ............................................. 12
1.2.2. Một số phong tục trong ngày lễ phục sinh. ............................................... 15



1.3. Lễ Phục sinh của người Công giáo. ......................................................... 20

il


iệ

1.3.1. Những quan niệm về Phục sinh của người Cơng giáo. ............................ 20

u

1.3.2. Cách tính ngày lễ Phục sinh theo truyền thống của Giáo hội. ................. 24

VN

1.3.3. Quy định của Giáo hội về tổ chức ngày lễ Phục sinh. .............................. 27

U

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................. 30
Chương 2: MỘT SỐ BIỂU HIỆN Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ NHÂN SINH
TRONG LỄ PHỤC SINH CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ........................................................................................................ 31
2.1. Khái quát chung về Công giáo ở Việt Nam. ........................................... 31
2.1.1. Quá trình du nhập và phát triển. ............................................................... 31
2.1.2. Đặc điểm của Công giáo ở Việt Nam........................................................ 39
2.2. Lễ Phục sinh trong đời sống đạo của người Cơng giáo Việt Nam. ....... 41
2.2.1. Quá trình chuẩn bị và những qui định trước và trong mùa lễ Phục sinh. 41
2.2.2. Không gian, thời gian và đặc điểm lễ Phục sinh của người Công giáo Việt
Nam hiện nay. ...................................................................................................... 46


2.2.3. Vị trí của lễ Phục Sinh trong đời sống đạo của các tín đồ Cơng giáo ở
Việt Nam. ............................................................................................................. 48

2.3. Giá trị của thánh lễ Phục sinh đối với giáo dân Công giáo Việt Nam. 49
2.3.1. Giá trị thần học của lễ Phục sinh trong đời sống đạo của người Công
giáo Việt Nam. ..................................................................................................... 50
2.3.2. Giá trị nhân sinh của thánh lễ Phục sinh đối với người Công giáo Việt
Nam. .................................................................................................................... 53
2.3.3. Sự đóng góp của thánh lễ Phục sinh đối với không gian văn hoá Việt
Nam. .................................................................................................................... 57
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................. 59
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 62

u

iệ

il



PHỤ LỤC .......................................................................................................... 67

U

VN


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 24 NQ-TW ngày 16/10/1990 của
Bộ Chính trị khóa VI về “Tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới” đã

chỉ rõ: “Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và
tơn giáo có những giá trị văn hóa đạo đức phù hợp với chế độ mới” [30]. Tín
ngưỡng, tôn giáo đã, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tơn giáo chính là là bộ phận của khối
đại đồn kết dân tộc.
Cơng giáo đã du nhập vào Việt Nam được hơn 4 thế kỷ. Sự du nhập này đã
mang theo các loại hình văn hóa mới ở Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, từ kiến
trúc, nghề in, báo chí, văn học, đến sân khấu, kịch, điêu khắc, nghệ thuật… đã



xuất hiện nhiều nét mới lạ. Cùng với thời gian dần dần Công giáo đã trở thành

u

iệ

của đất nước.

il

mạch sống bên trong bản sắc dân tộc, trở thành một trong những tôn giáo lớn

VN

So với các tôn giáo khác tại Việt Nam, Công giáo du nhập vào chưa lâu và
gặp nhiều khó khăn, nhưng trong q trình truyền bá nhưng đã và đang có ảnh

U


hưởng sâu sắc đối với đời sống tinh thần trong xã hội Việt Nam. Đặc biệt, trong
công cuộc giao lưu và tiếp biến với văn hóa Việt Nam. Vị thế của Cơng giáo
trong đời sống kinh tế, văn hóa xã hội nước ta khơng ngừng gia tăng. Cho tới
nay số tín đồ Công giáo tại Việt Nam đã chiếm tới xấp xỉ 10% dân số nước ta,
đứng thứ 2 sau Phật giáo [6, tr.1]. Cùng với sự gia tăng về số lượng tín đồ, q
trình nhập thế của văn hóa Cơng giáo đối với văn hóa bản địa Việt Nam vẫn
khơng ngừng diễn ra. Văn hóa Cơng giáo in dấu trong văn hóa Việt Nam và
ngược lại. Cơng giáo cũng đem đến những giá trị mới cho văn hoá Việt như
tiếng chuông nhà thờ mỗi giờ lễ, những lời kinh phụng vụ được Việt hoá theo
thơ ca, vần điệu Việt Nam, những bài thánh ca, bài giảng mang đầy giá trị giáo
dục. Đặc biệt, Cơng giáo cịn đem tới Việt Nam những ngày lễ hội phương Tây
đa dạng và có tính nhân văn sâu sắc.
1


Nhắc tới ngày lễ của Công giáo, hầu hết tất cả mọi người đều nhớ tới lễ
Giáng Sinh đầu tiên – một ngày lễ trọng không chỉ đối với người Cơng giáo mà
cịn đối với các Kitơ hữu trên khắp thế giới. Ngày lễ Giáng Sinh ở Việt Nam
được ăn mừng to khơng kém gì các nước phương Tây. Khắp các cửa hàng đều
trang trí và bán đồ lưu niệm cho lễ Giáng Sinh. Không chỉ những người theo đạo
mà kể cả những người không theo Công giáo cũng đều chung vui ăn mừng đêm
Chúa Jesus ra đời. Có thể nói, đối với những người khơng theo đạo, lễ Giáng
Sinh là ngày lễ lớn nhất trong Công giáo.
Tuy nhiên, trên thực tế đối với người Công giáo, ngày lễ Phục sinh mới là
ngày lễ lớn nhất. Ở các nước phương Tây, lễ Phục sinh được ăn mừng và tổ
chức lớn khơng kém so với lễ Giáng Sinh. Cịn tại Việt Nam, khi nhắc tới lễ
Phục sinh, đa phần những người không theo đạo lại không biết hoặc cho rằng




đây là ngày lễ kém quan trọng hơn so với ngày Giáng Sinh. Đối với một số bộ

iệ

il

phận giáo dân theo đạo cũng chưa hiểu biết kỹ về ngày lễ này mà chỉ cho rằng
đây là một ngày lễ buộc phải tham dự chứ không hiểu rõ ý nghĩa của ngày lễ

u

VN

Phục sinh. Điều này có thể gây ảnh hưởng tới niềm tin tơn giáo của một bộ phận

U

tín đồ Cơng giáo. Như vậy, lễ Phục sinh của Công giáo tại Việt Nam không
được nhiều người biết tới trong khi đây là một ngày lễ long trọng mang trong đó
tồn bộ giá trị và ý nghĩa đức tin của người Công giáo, sự kiện Phục sinh trong
Kinh Thánh còn đánh dấu sự ra đời của Giáo hội Công giáo. Không chỉ vậy,
việc tổ chức lễ Phục sinh tại các giáo xứ kết hợp với những tục lệ dân gian của
Việt Nam đã góp phần tạo ra nét riêng của Cơng giáo Việt Nam đồng thời cũng
làm đa dạng hoá văn hoá Việt.
Để làm rõ những đặc điểm, giá trị của lễ Phục sinh cũng như Công giáo
Việt Nam, tôi chọn đề tài Lễ Phục sinh của Công giáo ở Việt Nam – ý nghĩa và
giá trị làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Đơng Nam Á là khu vực tồn tại những bản sắc văn hố riêng nổi bật. Bởi
vậy khi Cơng giáo du nhập và có sự giao thoa với văn hố Việt Nam đã có rất

2


nhiều cơng trình nghiên cứu của các học giả về Công giáo Việt Nam, về đời
sống tinh thần cũng như sinh hoạt tơn giáo của các tín đồ Cơng giáo.
Một số cơng trình nổi bật như Tơn giáo trong mối quan hệ văn hoá và phát
triển ở Việt Nam (2004), Nghi lễ và lối sống công giáo trong văn hoá Việt Nam
(2001), Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam (2010)… của tác giả
Nguyễn Hồng Dương. Trong các công trình này, tác giả đã đề cập đến tác động
qua lại của văn hóa tơn giáo được xem là một thành tố quan trọng của văn hóa
Việt Nam. Đồng thời, có giành riêng một phần nói về sự hội nhập của văn hóa
Cơng giáo đối với văn hóa Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như Hội họa, kiến trúc,
điêu khắc, văn học, nghệ thuật diễn xướng, thơ ca, lễ hội, âm nhạc.... Tuy nhiên
trong khuôn khổ của một cuốn sách có giới hạn số trang nhất định, tác giả mới
chỉ nêu vấn đề mà chưa có sự phân tích một cách hệ thống và sâu sắc đến từng



vấn đề cụ thể.

iệ

il

Trong luận án Ảnh hưởng qua lại giữa đạo Công giáo và văn hoá Việt Nam
(2008) của Phạm Huy Thông, tác giả đã trình bày có hệ thống những tác động

u

VN


qua lại giữa Cơng giáo và văn hố Việt Nam, đồng thời phác thảo quá trình biến

U

đổi và phát triển của Cơng giáo trong mối quan hệ với văn hố dân tộc cũng như
phân tích một số đặc điểm của Công giáo Việt Nam thông qua một số ngày lễ
Công giáo.
Luận án Triết lý nhân sinh trong Phúc Âm và ý nghĩa của nó đối với lối
sống của tín đồ Công Giáo Việt Nam hiện nay (2017), TS. Đỗ Xuân Hiển đã
phân tích và hệ thống hố các nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong các
sách Phúc Âm, trong đó sự kiện Phục Sinh, đồng thời làm rõ ý nghĩa của triết lý
nhân sinh trong Phúc âm đối với lối sống của tín đồ Cơng giáo Việt Nam.
Ngồi ra cịn có nhiều nghiên cứu, luận văn, luận án bài báo trên các tạp
chí, Internet cũng đề cập đến Lễ Phục sinh.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu đều đã phân tích, làm rõ các đặc
điểm cũng như sự du nhập của Công giáo vào Việt Nam, bên cạnh đó cũng làm
rõ đời sống sinh hoạt của giáo dân trong năm Phụng Vụ cũng như trong các dịp
3


lễ đặc biệt là lễ trọng như Lễ Phục sinh, tuy nhiên, các cơng trình trên vẫn chưa
đề cập chi tiết cũng như làm rõ các đặc điểm, ý nghĩa của Lễ Phục sinh của
Công giáo ở Việt Nam cũng như ảnh hưởng của ngày lễ này đối với các tín đồ
Cơng giáo một cách có hệ thống.
3.
-

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu của khố luận là phân tích, làm rõ những nội dung,

đặc điểm của thánh lễ Phục sinh ở Việt Nam, từ đó đưa ra ý nghĩa của lễ Phục
sinh nói chung và ý nghĩa đối với các tín đồ Cơng giáo nói riêng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích như đã nêu ở trên, khóa luận có những nhiệm vụ cụ
thể như sau:



Thứ nhất là trình bày khái quát được về Lễ Phục Sinh của Công giáo ở Việt

iệ

il

Nam: lịch sử hình thành và phát triển, biểu hiện, nội dung hành lễ, ý nghĩa của
ngày lễ và một số biểu tượng trong ngày lễ.

u

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

U

hóa tinh thần của giáo dân.

VN

Trên cơ sở đó chỉ ra giá trị nhân sinh và vai trị của nó đối với đời sống văn


- Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là nội dung và ý nghĩa cũng như giá
trị của lễ Phục sinh của Công giáo Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của khoá luận là ý nghĩa và giá trị nhân sinh, giá trị
thần học của lễ Phục sinh trong đời sống đạo của người giáo dân Công giáo Việt
Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận: Khoá luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như quan điểm của Đảng và
Nhà nước về vấn đề tôn giáo.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp chủ yếu là phân tích - tổng
4


hợp, thống nhất lịch sử - logic, khái quát hoá, trừu tượng hố, so sánh, đồng thời
kế thừa có chọn lọc một số kết quả điều tra, nghiên cứu của các cơng trình
nghiên cứu đi trước. Các phương pháp được sử dụng đan xen để làm rõ mục
đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn.
Luận văn đã làm rõ nội dung và đặc điểm của lễ Phục sinh của Kitơ giáo
nói chung và Cơng giáo Việt Nam nói riêng. Đồng thời chỉ ra ý nghĩa và giá trị
của thánh lễ này đối với người Công giáo cũng như đóng góp của thánh lễ với
văn hố Việt Nam.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
-

Ý nghĩa lý luận: Khóa luận đã góp phần làm rõ vai trị của lễ Phục sinh
trong đời sống tinh thần của người Công giáo Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể làm tài liệu




-

8. Kết cấu của đề tài.

u

iệ

il

tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập.

U

gồm 2 chương, 6 tiết.

VN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài

5


NỘI DUNG
Chương 1: LỄ PHỤC SINH CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO
TRONG TRUYỀN THỐNG KITƠ
1.1.


Lịch sử và vị trí lễ Phục sinh trong truyền thống Kitơ
1.1.1. Lịch sử hình thành
Kitơ giáo là một tơn giáo lớn có lịch sử lâu đời do Đức Jesus Christ (theo

như trong Kinh Thánh là con của Chúa Sáng Thế) sáng lập ra vào khoảng những
năm đầu của thế kỉ I tại vùng Trung Đông, thuộc Đế chế Roma. Trải qua các lần
phân chia, Kitô giáo đã phân chia, hình thành các hệ phái khác nhau như: Cơng
giáo Roma, Chính Thống giáo Đơng phương, Tin Lành, Anh giáo… với nhiều
sự khác biệt trong tổ chức giáo hội, giáo lý, giáo luật cũng như quan điểm về



thần học. Tuy nhiên, đối với các Kitơ hữu, ln có những ngày lễ trọng đại phải

il

được cử hành, đặc biệt là lễ Phục sinh – là một trong những ngày lễ quan trọng

u

iệ

nhất trong năm và có lịch sử lâu đời nhất, chỉ sau lễ Sabbath.
Lễ Phục Sinh là ngày lễ kỷ niệm sự phục sinh của Chúa Jesus. Ngài đã bị

VN

chính quyền La Mã bắt và hành hình. Ngày thứ Sáu sau khi bị các quan chức Đế


U

Quốc La Mã bắt và tuyên án tử hình, Chúa đã chết đi và sau đó hồi sinh. Sự kiện
này được ghi chép lại trong Phúc Âm rằng Đức Giêsu đã biết trước sự chết để
đền tội cho loài người và sự phục sinh của mình [Luca 9:22]. Sau 3 ngày chơn
táng, tức vào ngày Chủ Nhật, Ngài sống lại. Phúc Âm trong Tân Ước đều ghi
chép lại sự kiện này và đề cập đến việc Jesus gặp lại các môn đệ của mình cũng
như làm phép và giảng dạy trong quá trình truyền giáo ở các địa điểm khác nhau
trong suốt 40 ngày kể từ ngày phục sinh, rồi ngài lên trời [Luca 24:44 – 49]. Sau
đó 10 ngày, tức ngày thứ 50, Chúa Thánh Thần hiện xuống với các tông đồ và
loan báo tin mừng. Theo Tân Ước, đây được xem là ngày khai sinh ra Giáo hội,
Giáo hội được coi là thân mình và là hiền thê của Chúa Jesus Christ. Vì vậy mà
Lễ Phục Sinh được diễn ra nhằm tưởng niệm sự chết và phục sinh của Ngài. Đây
là một sự kiện đóng dấu mốc đặc biệt quan trọng trong lịch sử hình thành Kitơ

6


giáo. Do đó, trong năm phụng vụ Cơng giáo có mùa Phục Sinh đóng vai trị
quan trọng được kéo dài 50 ngày (ngũ tuần) tính từ Chúa Nhật Phục Sinh cho tới
Chúa Nhật Hiện Xuống.
Ngồi ra, có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, lễ Phục sinh (Easter), thực chất
có liên hệ nhiều với Lễ Vượt Qua (Passover) của Do Thái giáo – là ngày lễ diễn
ra vào ngày 14-15 tháng Nisan (tháng thứ nhất của năm tính theo niên lịch Do
Thái, thường là tháng ba hoặc tháng tư theo lịch Tây phương). Đây là lễ kỉ niệm
đêm trước ngày thiên sứ Moses lãnh đạo người Do Thái thoát khỏi sự nơ dịch
của Ai Cập. Trong sự kiện đó, máu cừu non (hay còn gọi là chiên) được sử dụng
để bảo vệ các gia đình người Israel. Để ăn mừng ngày lễ này, người ta thường
chọn một cừu non thuần khiết làm vật hiến tế cho lễ Vượt Qua. Trong Kitô giáo,
Chúa Jesus đã trải qua bữa tối cuối cùng với các mơn đệ của mình vào đêm




trước lễ Vượt Qua. Ngài chấp nhận bị đóng đinh để chịu tội thay cho lồi người

iệ

il

vào ngày hơm sau, đó là ngày thứ nhất của lễ Vượt Qua. Đồng thời, Kinh Thánh
Tân Ước cũng mô tả Jesus giống như một con chiên – vật tế của Chúa Trời

u

VN

“Kìa, Chiên Con của Đức Chúa Trời, là đấng cất tội lỗi của thế gian!” [Gioan

U

1:29] hay so sánh Chúa Jesus với cừu con lành lặn không tỳ vết được hiến tế vào
lễ Vượt Qua: “Nhưng ấy là bởi huyết báu của Đấng Kitô, giống như huyết của
chiên con lành lặn, không tỳ vết.” [1 Peter 1:19]. Như vậy, sự kiện Đức Jesus hy
sinh thân mình để chuộc lỗi cho toàn bộ loài người được Tân Ước mô tả trong
tương quan với sự kiện Moses giải phóng và dùng máu cừu để bảo vệ người Do
Thái trong sách Xuất Hành. Dựa vào các dữ kiện như vậy, có thể thấy, mặc dù lễ
Phục sinh có phần nào nguồn gốc từ lễ Vượt qua trong Do Thái giáo, nhưng lễ
Vượt Qua cùng với lễ Phục sinh của Kitơ giáo lại mang bộ mặt khác. Cụ thể,
thay vì là kỉ niệm ngày Moses giải phóng người Do Thái, thì lễ Phục sinh là để
kỉ niệm đức hy sinh, bao dung cùng sự màu nhiệm của Chúa, đồng thời kỉ niệm

sự khởi đầu của Kitô giáo.
Một nguồn gốc khác của lễ Phục Sinh được cho là bắt nguồn từ ngày hội
Xuân thời cổ đại. Thực tế, sự phục sinh của Chúa trong Kinh Thánh được nhắc
7


tới là sự “Sự Hồi sinh” – “The Resurrection”, còn lễ Phục Sinh – “Easter” theo
Từ điển Bách Khoa Công giáo mới (NCE - 1967), tập 5, cụm từ này xuất phát từ
cái tên “Ostera” trong thần thoại của Babylon.
Hay trong nghiên cứu của Thánh Bede, một tu sĩ người Anh ở tu viện
Thánh Peter Monkwearmouth và tu viện Thánh Paul Jarrow, Anh; đồng thời là
một nhà sử học nổi tiếng vào thế kỷ VII, ông viết rằng từ “Easter” thực chất đến
từ cái tên của nữ thần cổ Eostre (một số nơi gọi là Ostara) là nữ thần màu mỡ và
nữ thần hồng hơn – có nguồn gốc từ Scandinavia.
Cái tên này có khá nhiều phiên bản tuỳ thuộc vào nhiều ngơn ngữ khác
nhau, tuy nhiên nhìn chung các nhà sử học thế giới đều đưa ra nghiên cứu rằng
“Eostre”, “Ostera” hay “Ishtar”, là nữ thần mùa xuân của Tây Âu, là biểu tượng
của tháng 4 – vào thời cổ đại được gọi là “Eosturmonath” – ngày nay là “April”.



Ngày lễ Eostre được tổ chức vào thời điểm xuân phân, khi mà thời gian của ban

iệ

il

đêm và ban ngày ngang bằng nhau. Những biểu tượng của lễ Phục sinh như
trứng và thỏ cũng bắt nguồn từ ngày lễ này.


u

VN

Cụm “Easter” là phiên bản tiếng anh của cái tên này, mặc dù các nhà sử

U

học thế giới vẫn chưa tìm được khoảng thời gian chính xác mà nó bắt đầu được
sử dụng, các nhà nghiên cứu tôn giáo cho rằng thuật ngữ này là một trong những
từ tiếng Anh cổ xưa nhất đã tồn tại hơn một thiên nhiên kỉ. Lễ hội này có sự
trùng khớp về mặt thời gian với lễ mừng Chúa phục sinh. Chính điều này khiến
cho ngày lễ lớn của Kitơ giáo có sự hồ nhập với truyền thống văn hoá cổ xưa,
đặc biệt là truyền thống văn hoá Tây Âu của tộc người Slav cổ. Vì lẽ đó, cụm từ
này được sử dụng phổ biến. Ban đầu các tín đồ Kitơ muốn tơn giáo của mình dễ
dàng hồ nhập và tiếp cận với nhiều người hơn cho nên đã cố gắng hội nhập các
lễ nghi tôn giáo với các lễ nghi truyền thống và đôi khi đồng nhất chúng làm
một. Do vậy, những biểu tượng như Trứng Phục Sinh và Thỏ Phục Sinh vốn là
biểu tượng của mùa xuân đã gắn liền với mùa Phục Sinh của Kitô giáo như một
yếu tố quan trọng không thể thiếu. Các từ điển giải nghĩa thuật ngữ của Công
giáo đều nhắc tới “Easter” là thuật ngữ chỉ Lễ Phục sinh – “một ngày lễ quan
8


trọng nhất của Thiên Chúa giáo được cử hành nhằm tưởng nhớ tới ngày phục
sinh mầu nhiệm của Chúa Jesus sau khi bị hành hình như đã kể lại trong những
sách Phúc Âm” [24, tr. 256 - 257]; hay là “một trong các lễ trọng của Công giáo,
nhưng không cố định vào ngày nào trong lịch” [10, tr. 519 – 520].
Trong các tơn giáo có nguồn gốc từ Kitơ như Cơng giáo, Chính thống giáo,
Tin lành và Anh giáo, ngày diễn ra lễ Phục sinh thường rơi vào Chủ Nhật giữa

ngày 22 tháng 3 đến ngày 25 tháng 4. Ngày tiếp theo, thứ Hai được công nhận là
ngày nghỉ lễ chính thức của hầu hết các quốc gia có truyền thống Kitô giáo. Lễ
Phục sinh và các ngày nghỉ trong mùa Phục sinh thường khơng cố định bởi nó
được tính theo nhiều loại lịch khác nhau tuỳ theo quy định của các Giáo hội.
Mặc dù đều được tổ chức vào Chủ Nhật, nhưng ngày chính xác của lễ Phục sinh
hay ngày Chúa sống lại vẫn luôn là đề tài gây tranh luận giữa các giáo hội Chính



thống giáo phương Đơng và Công giáo phương Tây kể từ thế kỷ thứ II.

iệ

il

Để giải quyết vấn đề này, Công đồng Nicaea thứ nhất năm 325 đã được tổ
chức bởi Constantine Đại Đế. Constantine muốn Kitơ giáo tách biệt hồn tồn

u

VN

với Do Thái giáo và không muốn lễ Phục sinh được cử hành trong Lễ Vượt qua

U

của người Do Thái. Hội đồng Nicaea theo đó yêu cầu lễ phục sinh phải được cử
hành vào Chủ nhật và không bao giờ trong Lễ Vượt qua của người Do Thái. Vì
vậy, Cơng đồng Nicaea đã quyết định rằng lễ Phục sinh sẽ được tổ chức vào
Chủ Nhật sau ngày trăng trịn đầu tiên sau kì xuân phân [24, tr. 257]. Tuy nhiên

mùa xuân phân cũng không cố định mà thay đổi theo từng năm. Vấn đề này vẫn
cịn gây tranh cãi, vì vậy việc tính ngày cuối cùng dựa nhiều vào Giáo hội ở
Alexandria (Ai Cập), bởi họ được biết đến với sự thông thái trong thiên văn học.
Ngày xuân phân được xác định là ngày 21 tháng 3 âm lịch, và lễ Phục sinh sẽ
diễn ra theo cách tính bên trên. Đối với Giáo hội Cơng giáo mỗi nơi lại sử dụng
các cách tính lịch khác nhau như Giáo hội Tây phương sử dụng lịch Gregorian
để tính ngày, Giáo hội phương Đơng dùng lịch Julian, ngồi ra một số giáo hội
như Chính Thống giáo Đơng phương vẫn tính ngày diễn ra lễ Phục sinh dựa trên

9


ngày tổ chức lễ Vượt Qua. Vì vậy, ngày tổ chức lễ Phục Sinh ở các nơi thường
không trùng nhau.
Ngày nay lễ Phục Sinh không chỉ phổ biến trong phạm vi những tín đồ
Thiên Chúa giáo mà cịn lan rộng trở thành ngày lễ chung của nhiều người và
được tổ chức với quy mô lớn, đặc biệt là ở các nước mà Công giáo phát triển
như phương Tây. Tại Việt Nam, lễ Phục sinh không được biết đến nhiều và
được ăn mừng, tổ chức lớn như lễ Giáng Sinh. Nhưng đối với người Công giáo
đây vẫn là một ngày lễ quan trọng được tổ chức hằng năm với những nghi thức
được hội nhập với phong tục và văn hoá Việt.
1.1.2. Vị trí của ngày lễ Phục Sinh trong năm Phụng Vụ của các tín đồ
Kitơ giáo.
Trong Kitơ giáo, năm Phụng vụ là thời gian một năm bắt đầu từ Chúa nhật



mùa Vọng, trong đó Hội Thánh mừng các biến cố trọng đại cuộc đời Chúa
Phụng Vụ trong một năm.


u

iệ

il

Jesus, Đức Mẹ Mary và các thánh, hay cũng có thể coi là là chu kỳ các mùa

VN

Các mùa Phụng Vụ được ra đời nhằm mục đích cử hành những khía cạnh

U

khác nhau của màu nhiệm Vượt Qua của Đức Christ. Năm Phụng Vụ có 52 tuần,
khởi đầu với Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng và kết thúc với lễ Chúa Christ Vua
Vũ trụ. Trong 52 tuần này các mùa Phụng Vụ được chia thành 5 mùa theo thứ
tự là Mùa Vọng - gồm 4 Chúa nhật trước lễ Giáng sinh: chuẩn bị tâm hồn người
tín hữu mừng mầu nhiệm Chúa xuống thế làm người; Mùa Giáng Sinh – từ lễ
Giáng Sinh (25 – 12) đến hết lễ Chúa Jesus chịu Phép Rửa: mừng sự kiện Chúa
Jesus giáng trần trong hình hài con người; Mùa Chay – từ thứ Tư Lễ Tro đến lễ
Vọng Phục sinh: chuẩn bị tâm hồn tín hữu đón mừng mầu nhiệm Tử nạn Phục
sinh của Chúa Jesus; Mùa Phục Sinh - từ lễ vọng Phục sinh đến lễ Hiện xuống:
mừng việc Chúa Christ toàn thắng tội lỗi và tử thần; và cuối cùng là Mùa
Thường Niên – kéo dài khoảng 34 tuần lễ, gồm 2 thời kỳ: Từ sau mùa Giáng
sinh đến đầu mùa chay và từ sau lễ Hiện xuống đến hết tuần lễ Chúa Christ Vua.
Lễ Phục Sinh nằm trong mùa Phục Sinh, tuy nhiên vị trí của ngày lễ Phục Sinh
10



trong năm phục vụ của Giáo hội Tây phương và Chính thống giáo Đơng phương
cũng có nhiều sự khác nhau.
Đối với Giáo hội Tây phương, lễ Phục Sinh đánh dấu việc kết thúc Mùa
Chay – 40 ngày chay tịnh – giai đoạn ăn kiêng và sám hối để chuẩn bị cho lễ
Phục Sinh. Giai đoạn này bắt đầu từ ngày thứ Tư Lễ Tro và kéo dài trong
khoảng sáu tuần trước khi lễ Phục Sinh diễn ra.
Tuần trước ngày Phục Sinh, trong truyền thống Kitô giáo là một tuần lễ đặc
biệt gọi là Tuần Thánh. Tuần Thánh, đối với người theo Công Giáo hay Tin
Lành, thường bắt đầu từ thứ Năm cho tới Chủ Nhật. Thứ Năm Tuần Thánh là
ngày kỷ niệm Bữa tối cuối cùng của Chúa Jesus với các mơn đệ của mình, và
thứ Sáu Tuần Thánh để tưởng nhớ sự kiện Chúa bị đóng đinh trên thập giá. Ba
ngày thứ Sáu, thứ Bảy Tuần Thánh cùng với Chúa Nhật Phục Sinh được gọi là



Tam Nhật Phục Sinh (hay một số nơi cũng gọi là Tam Nhật Vượt Qua hoặc Tam

iệ

il

Nhật Thánh). Ở một số nước, có thêm ngày thứ hai gọi là "Thứ hai Phục sinh"
bởi Lễ Phục Sinh được kéo dài thêm 1 ngày. Đôi lúc cũng có nhiều Giáo hội bắt

u

VN

đầu lễ Phục sinh vào cuối buổi tối ngày Thứ bảy Tuần Thánh bằng một số lễ


U

như lễ Vọng Phục Sinh hay Canh thức Vượt Qua.

Không giống với Công giáo hay Tin Lành bắt đầu Mùa Chay vào Thứ Tư
Lễ Tro, thì đối với Giáo hội Chính thống giáo phương Đơng, Mùa Chay lại bắt
đầu vào đêm Chủ Nhật – sáng thứ Hai và kết thúc vào Thứ Bảy lễ Thánh
Lazarus. Tuy nhiên các tín đồ Chính Thống giáo vẫn sẽ tiếp tục ăn chay cho tới
lễ Phục Sinh. Tuần Thánh sẽ bắt đầu sau Chúa Nhật Lá, và Lễ Phục Sinh - hay
trong Chính thống giáo còn gọi là Pascha, bắt đầu vào cuối ngày thứ Bảy, vào
buổi tối, dựa theo quan niệm của người Do Thái rằng buổi tối đó là bắt đầu của
ngày Phục Vụ, đồng thời cũng để đảm bảo rằng khơng có lễ Phục Vụ Thánh nào
khác vào buổi sáng, khiến lễ này trở thành “Lễ của mọi lễ” trong năm phục vụ1.

Theo mục sư Moses Hibbard tại nhà thờ Chính Thống giáo Nicholas, Billings, Mỹ trong bài báo của Susan
Olp, Celebrating Easter looks differents for Eastern Orthodox, Catholic and Protestant churches, 2017.
1

11


Mùa phụng vụ từ Lễ Phục sinh đến Chủ nhật của các Thánh (Chủ nhật sau
Lễ Ngũ tuần) được gọi là Lễ Ngũ tuần ("năm mươi ngày"). Tuần bắt đầu vào
Chủ nhật Phục sinh được gọi là Tuần Sáng, trong đó người theo đạo sẽ khơng
phải ăn chay nữa, ngay cả vào Thứ Tư và Thứ Sáu. Giai đoạn hậu Lễ Phục sinh
kéo dài 39 ngày, với ngày Apodosis (nghỉ phép) vào ngày trước Lễ Thăng Thiên
của Chúa Jesus. Chủ nhật trong ngày lễ Ngũ tuần là ngày thứ năm mươi tính từ
lễ Phục sinh.
1.2.


Ý nghĩa và phong tục ngày lễ Phục Sinh trong truyền thống Kitơ.
Như trên đã trình bày, sự kiện Chúa Phục Sinh đóng vai trị trọng tâm trong

niềm tin của tín đồ đạo Kitơ. Người theo Kitô giáo tin rằng Chúa Jesus chết trên
thập tự giá nhưng sau đó 3 ngày, từ cõi chết, Ngài đã sống lại, gặp lại các mơn
đệ của mình rồi sau đó trở về trời. Có thể nói, đây là sự kiện đánh dấu bước tiến
quan trọng trong quá trình phát triển của Kitô giáo.



1.2.1. Ý nghĩa Phục sinh trong truyền thống Kitô.

il

iệ

Người theo Kitô giáo tin rằng Đức Chúa Trời đã mang Chúa Jesus sống lại

u

từ cõi chết sau khi bị hành hình. Sự phục sinh này giải thích theo ý nghĩa thần

VN

học đó là sự mặc khải2 của Thiên Chúa về mục đích của Người, đó là sự cứu

U

chuộc thế giới.


Sự màu nhiệm và ý nghĩa của sự phục sinh của Chúa Jesus được Lesslie
Newbigin nhắc tới trong cuốn The Gospel in Pluralist Society (Tạm dịch: Kinh
Phúc Âm trong một xã hội đa nguyên) như sau:
The end is the day when Jesus shall come again, when his hidden rule will
become manifest and all things will be seen as they truly are. That is why
we repeat at each celebration of the Supper the words which encapsulate
the whole mystery of faith: “Christ has died. Christ is risen: Christ shall
come again.”
(Tạm dịch: Sự kết thúc là cái ngày khi mà Chúa Jesus sẽ trở lại, khi quyền
lực còn ẩn giấu của ngài trở nên rõ ràng và mọi thứ được nhận biết với
Sự tác động trong tĩnh lặng của Thiên Chúa làm bộc lộ ra những điều thiêng liêng mầu nhiệm mà lý trí con
người khơng giải thích được.
2

12


đúng bản chất của chúng. Đó là lý do tại sao chúng ta thường hay lặp lại
những lời mà gói gọn trong đó tồn bộ mầu nhiệm của đức tin trong mỗi lễ
kỷ niệm Bữa Tối Cuối Cùng “Chúa Christ đã chết. Chúa Christ phục sinh:
Chúa Christ sẽ trở lại”.)
Có rất nhiều lý do khiến cho lễ Phục sinh là một trong hai lễ trọng trong
năm phục vụ của các Kitô hữu bên cạnh lễ Giáng sinh – ngày Chúa Jesus hạ thế.
Sự Phục Sinh của Chúa trước hết là sự chuộc tội cho loài người. Đối với
đức tin của người Kitơ giáo, việc Đức Jesus hy sinh thân mình là để trả giá cho
những tội lỗi của con người. Thiên Chúa đã đặt hình phạt đáng ra lồi người
phải chịu cho Jesus để lồi người có thể được biện minh trước Ngài thể hiện tình
yêu thương và bao dung của Ngài đối với con người. Vì vậy sự kiện Chúa Jesus
phục sinh là một sự xác nhận rằng Thiên Chúa đã chấp nhận sự trả giá của Đấng




Christ và tha thứ cho loài người, đem lại sự trong sạch cho loài người. Ý nghĩa

iệ

il

này cũng được nhắc tới trong Phúc Âm Thánh Romans 4:25: “Chúa Jesus đã bị
nộp để chịu chết vì những tội lỗi của chúng ta, ngài được phục sinh để chúng ta

u

VN

được tuyên bố là công chính.” Vì vậy lễ Phục sinh là ngày mà các giáo dân thể

U

hiện lịng biết ơn và kính u đến Chúa Jesus cũng như Thiên Chúa.
Sự sống lại của Đức Jesus cũng cho thấy sự chiến thắng màu nhiệm của
Chúa đối với cái chết. “Cái chết là kẻ thù của nhân loại và là hình phạt cho
những người mang tội lỗi, cịn món q Đức Chúa Trời ban là sự sống vĩnh cửu
qua Đấng Jesus Christ, Chúa của chúng ta” [Romans 6:23]. Chúa Jesus đã sống
lại từ cõi chết vì cái chết khơng cịn giữ được Ngài nữa, “sự chết khơng cịn làm
chủ trên Ngài” [Romans 6:9], và vì vậy chúng ta khơng cịn phải sợ chết vì Chúa
Jesus đã chiến thắng nó. Cái chết khơng cịn là kẻ thù vì trong Chúa Jesus,
chúng ta khơng cịn phải sợ hình phạt xảy ra sau cái chết nữa.
Bên cạnh đó, sự phục sinh của Đức Christ cịn có nghĩa rằng các tín đồ đã
được hợp nhất với Người. “Chúng tơi biết rằng Đấng đã làm Chúa Jesus sống lại

và cũng sẽ làm chúng tôi sống lại giống như Chúa Jesus, và sẽ đưa chúng tơi
cùng anh em đến trình diện trước Chúa Jesus.” [2 Corinthians 4:14]. Đối với các
13


tín đồ, khi họ tin vào Chúa, có nghĩa là họ đã hợp nhất với Chúa trong đức tin.
Sự hợp nhất với Chúa Christ cho thấy rằng khi Thiên Chúa nhìn vào lồi người,
Ngài khơng nhìn vào sự bất chính của chúng ta, mà nhìn vào sự cơng bình của
Chúa Jesus, tội lỗi của loài người đã chết theo Đấng Christ. Sự hợp nhất cũng
được nhắc đến trong Tân Ước: “Nếu đã chết với Đấng Christ, chúng ta tin rằng
mình cũng sẽ sống với Ngài” [Romans 6:8]. Do vậy lễ Phục sinh mang ý nghĩa
nhắc nhở các tín đồ rằng giờ đây họ có thể sống thoải mái trong cuộc sống với
một cái tơi mới của bản thân mình bởi vì họ được ràng buộc với Đức Christ bởi
Đức Chúa Trời.
Lễ Phục Sinh cũng là ngày lễ mà trong đó các tín đồ Kitơ giáo tìm thấy
niềm hy vọng vào cuộc sống. Những tín hữu được Thiên Chúa ban cho một
niềm hy vọng to lớn khi được tha thứ cho mọi tội lỗi và được cơng chính trước



Ngài. Đối với họ, khoảnh khắc Chúa Jesus phục sinh là khoảnh khắc vị thế của

iệ

il

họ được thay đổi từ những kẻ tội đồ trở thành những đứa con được Chúa bao
dung và được thừa kế một gia tài vĩnh cửu ở trên thiên đàng. Điều này được ghi

u

VN

chép lại trong Tân Ước rằng:

U

Chúc tụng Đức Chúa Trời, Cha của Chúa Giêsu Kitô chúng ta, vì theo lịng
thương xót lớn lao của ngài, ngài làm cho chúng ta được sinh ra lần nữa để
nhận niềm hy vọng sống qua sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, để nhận
phần thừa kế không mục nát, không ô uế và không suy tàn. Phần thừa kế ấy
dành sẵn trên trời cho anh em [1 Peter 1:3 – 4]
Sự phục sinh của Chúa Jesus trong ngày Phục sinh đồng thời đã xác nhận
tính mầu nhiệm của Đức Chúa Trời. Đức Christ sống lại đúng như lời tiên báo
trong thời gian rao giảng tin mừng của Thiên Chúa [Isaiah 53:2 – 12]. Điều này
là một minh chứng với các tín đồ, cho họ thấy rằng mọi lời Chúa đều là chân
thật và không thể sai lầm.
Cuối cùng, lễ Phục Sinh là ngày khẳng định sự công minh của Thiên Chúa.
Bởi sự sống lại của Chúa Jesus có nghĩa rằng Ngài sẽ phán xét thế giới trong sự
cơng bình. Điều này được ghi lại trong sách Công Vụ 17:30-31: “ Chúa đã bỏ
14


qua những thời người ta thiếu hiểu biết, nhưng nay ngài tuyên bố mọi người
khắp nơi đều phải sám hối. Vì ngài đã định một ngày để phán xét thế gian một
cách cơng chính bởi người mà ngài đã chỉ định; và ngài đảm bảo điều này với
mọi người qua việc làm cho người ấy sống lại”. Đối với các tín đồ, đức tin là
những gì kết nối họ với Chúa và cho phép họ được cứu rỗi khỏi những tội lỗi
của bản thân mình. Họ tin rằng sự sống lại của Đức Jesus là bằng chứng to lớn
hùng hồn chứng thực sự vĩ đại của Thiên Chúa, và rằng những người tin vào sự
hiện diện của Chúa sẽ được ngài ban thưởng. “Vả lại, khơng có đức tin thì chẳng

thế nào làm vui lịng Đức Chúa Trời, vì người nào đến gần Đức Chúa Trời phải
tin rằng có Đức Chúa Trời và ngài là đấng ban thưởng cho những ai sốt sắng tìm
kiếm ngài.” [Hebrews 11:6].
Tóm lại, đối với người Kitô giáo, Lễ Phục Sinh là ngày lễ trọng trong niên



lịch Phụng Vụ Kitơ Giáo, nói lên sự hiệp nhất và tuyên xưng đức tin của Giáo

iệ

il

Hội. Theo Công Đồng Vaticanô II, “Từ ngày Hiện Xuống, ngày Giáo Hội xuất
hiện nơi trần gian với các giáo hữu kiên tâm theo lời giáo huấn của các Sứ Đồ,

u

VN

cùng nhau qui tụ để cử hành mầu nhiệm phục sinh, loan truyền sứ điệp cứu rỗi

U

để mọi người nhận biết một Thiên Chúa duy nhất và chân thật, cùng Đấng Ngài
sai là Chúa Giêsu Kitô” [Kinh Phụng Vụ, 6 - 9]. Lễ Phục sinh là ngày các tín đồ
chịu ban phước, ăn năn và được Chúa tha tội, là ngày để họ bày tỏ sự biết ơn và
niềm tin lớn lao vào tình u thương, tính màu nhiệm của Chúa và cũng là ngày
đem lại hy vọng cho những người theo đạo. Ngồi ra Lễ Phục Sinh cịn là biểu
tượng của mùa xn, vì vậy dù là cộng đồng người Kitơ giáo hay những người

ngoại đạo cũng thường tổ chức ngày lễ này để đón mừng mùa xuân với hy vọng
cho vạn vật sinh sôi nảy nở.
1.2.2. Một số phong tục trong ngày lễ phục sinh.
Mặc dù lễ Phục Sinh đều mang ý nghĩa mừng Chúa Jesus sống lại đối với
tất cả các tín đồ Kitơ giáo, một số phong tục để kỷ niệm ngày lễ này có sự khác
nhau tuỳ vào văn hoá và truyền thống các nước khác nhau và các nhánh khác
nhau của Kitô giáo. Đa phần khi nhắc đến lễ Phục sinh ta thấy các nước thường
15


kỉ niệm bằng những quả trứng phục sinh đầy màu sắc, hoặc biểu tượng chú thỏ
phục sinh mang theo quả trứng tới từng nhà. Tuy nhiên bên cạnh đó, các nước
có những cách độc đáo để biến tấu những hình tượng này sao cho phù hợp với
văn hoá của họ.
Để chuẩn bị cho lễ Phục sinh không thể thiếu Mùa Chay. Trong mùa Chay,
các tín đồ sẽ ăn chay kiêng thịt, kiêng đồ ăn vặt, kiêng thoả mãn những nhu cầu
cá nhân không cần thiết, đặc biệt là trong ngày Lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh
trước lễ Phục sinh hai ngày. Mọi nguồn lực dư ra thường được đem tặng cho
người nghèo hoặc đóng góp cho nhà thờ.
Lễ Phục Sinh là ngày Chúa Jesus sống lại từ cõi chết, ngày mà các con chiên
của Chúa được xoá bỏ tội lỗi mà sinh ra lần nữa, cũng là ngày đánh dấu sự bắt
đầu của mùa xuân. Vì vậy những biểu tượng, phong tục trong lễ Phục sinh thường



mang ý nghĩa mong cho vạn vật sinh sôi nảy nở, xua đi sự lạnh lẽo của mùa đông.

iệ

il


Thế nên biểu tượng trứng phục sinh và lửa phục sinh là không thể thiếu.
Ở Đức nổi tiếng với phong tục đốt lửa phục sinh ở các nhóm dân cư, hàng

u

VN

xóm, bạn bè. Họ thường tụ tập lại và đốt lửa vào ngày thứ Bảy trước lễ Phục

U

Sinh, hoặc một số vùng vào ngày Chủ Nhật hoặc thứ Hai. Ngoài ra ở vùng
Lügde thuộc bang Nordrhein-Westfalen những bánh xe bằng gỗ cháy rừng rực
lăn từ núi Phục sinh xuống, kéo theo sau một vệt lửa dài hàng trăm mét hay ở
Florence, Ý, có một truyền thống là người dân sẽ diễu hành một chiếc xe ngựa
bốn bánh được bao quanh bởi pháo hoa được qua các con phố bởi những người
mặc trang phục thế kỷ XV đầy màu sắc và cuối cùng dừng lại tại nhà thờ lớn
(Duomo). Sau đó trong thánh lễ Phục Sinh, Tổng giám mục của Tổng giáo phận
Florence sẽ châm ngòi nổ khiến chiếc xe phát sáng rực rỡ [41]. Bắt nguồn từ
những tập tục trước công nguyên, lửa phục sinh mang ý nghĩa đem theo hơi ấm
và ánh sáng xua đi mùa đông, lửa cũng khiến cho đất đai trở nên màu mỡ và là
niềm hy vọng cho một vụ mùa bội thu, hình ảnh bánh xe lửa theo truyền thống
cũng được xem như biểu tượng của mặt trời – nguồn sống của con người và theo

16


truyền thống Kitơ giáo thì lửa phục sinh tượng trưng cho ánh sáng mới mà Chúa
đã mang đến cho muôn loài sau khi sống lại.

Một biểu tượng quen thuộc khác bên cạnh lửa là Trứng Phục sinh. Vào
ngày lễ này, mọi người thường sử dụng những quả trứng rỗng ruột hoặc đã được
luộc chín và vẽ lên nhiều màu sắc để trang trí trong và ngồi nhà. Trứng theo
quan niệm của người phương Tây là biểu tượng của thiên nhiên, của sự tái tạo
và sống lại. Bên cạnh đó, ý nghĩa quan trọng nhất của trứng là biểu tượng cho sự
khởi nguyên của sự sống. Đối với các tín đồ Kitơ, họ quan niệm rằng hình ảnh
con gà con tự mổ vỏ trứng chui ra cũng giống như hình ảnh Chúa Jesus trải qua
những giai đoạn khổ cực của quãng đường vác thánh giá và bị đóng đinh, chết
và an táng trong mộ rồi sau đó đập vỡ cửa mồ và sống lại. Cùng với đó, trong
các sách Phúc âm cũng ghi lại rằng Đức Mẹ Mary – người sinh ra Chúa Jesus đã



đứng cạnh cây thập giá của ngài rất lâu vào buổi chiều ngày thứ Sáu Tuần

iệ

il

Thánh. Ở Đông Âu, người ta cho rằng bà đã mang theo một giỏ trứng đặt cạnh
cây thập tự giá. Những quả trứng bị nhuộm đỏ bởi máu từ vết thương của Chúa

u

VN

rơi xuống. Bởi vậy, trứng quả trứng được sơn màu đỏ theo Kitơ giáo để ghi nhớ

U


sự đóng đinh của Chúa. Một truyền thuyết khác kể lại rằng, Mary – một trong
hai người phụ nữ đến ngôi mộ vào sáng sớm ngày đầu tiên của tuần khi lễ
Sabbath kết thúc – đã mang theo một giỏ trứng. Khi bà đến nơi, bà trở thành
người đầu tiên chứng kiến sự phục sinh của Chúa, và khi đó những quả trứng
trắng chuyển màu phản chiếu phép màu trước mắt bà. Sau đó, bà tới toà án của
Hoàng đế Tiberus Caesar, cầm theo trong tay một quả trứng và tuyên bố câu nói
nổi tiếng: “ Chúa Kitô đã phục sinh” [44].
Những phong tục, nghi lễ với trứng phục sinh cũng rất đa dạng. Tại Đức,
thường có những hoạt động truyền thống như “tìm trứng thỏ” cho trẻ em. Trong
hoạt động này, những qua trứng phục sinh sẽ được giấu đi trong các khu vườn
và sau đó trẻ em sẽ được mời vào để tham gia cuộc thi tìm trứng, hoặc những
cuộc thi trang trí trứng thường được tổ chức cho trẻ em tham gia.

17


Ln đi kèm với Trứng Phục sinh đó là Thỏ Phục sinh. Có nguồn gốc từ
những tín đồ thuộc giáo hội ở Đức, Thỏ Phục Sinh ban đầu đóng vai trò một
người phân xử, đánh giá xem liệu những đứa trẻ đã cư xử ngoan ngỗn hay là
khơng vâng lời vào lúc bắt đầu mùa Phục sinh, bên cạnh đó, thỏ cũng là một con
vật mang biểu tương sinh sôi nảy nở, màu mỡ phồn thịnh, biểu tượng của mùa
xuân. Theo truyền thuyết, thỏ Phục Sinh mang những quả trứng có màu trong
giỏ của mình, kẹo và đơi khi cả đồ chơi đến nhà của trẻ nhỏ. Bởi vậy mà hình
ảnh thỏ mang theo giỏ trứng phục sinh dường như gắn liền với truyền thống lễ
Phục Sinh ở mọi nơi. Tuy nhiên tại Australia, thỏ lại thường được coi là lồi vật
ni gây hại cho mùa màng và đất đai. Bởi vậy vào năm 1991, tổ chức Rabbitfree Australia đã phát động một chiến dịch thay thế hình ảnh thỏ phục sinh bằng
hình ảnh chú chuột đất – một lồi chuột có hình dáng lai giữa thỏ và chuột túi




đang trên đà tuyệt chủng. Bởi vậy ngày nay ở Australia vào lễ phục sinh, thay vì

iệ

il

bày bán những sản phẩm có hình thỏ thì nhiều nơi đã sản xuất những sản phẩm
bánh kẹo hay đồ lưu niệm trang trí mang hình chuột đất cho mùa phục sinh để

u

VN

góp phần kêu gọi bảo về loài động vật này [41].

U

Một yếu tố nữa khơng thể thiếu trong ngày Phục sinh đó là nến phục sinh.
Năm 384, lần đầu tiên ở Piacenca thánh Hieronymus (347- 419) đã viết trong
thư Tông đồ về ý nghĩa biểu tượng của nến phục sinh đó là sự sống. Năm 417,
Giáo Hồng Zosimus cũng đã cơng nhận nến phục sinh là hiện thân cho sự chết
và sống lại của Chúa Jesus. Từ thế kỷ thứ VII, Thánh địa La Mã đã công nhận
và sử dụng nến Phục sinh. Tới thế kỷ thứ X, nến Phục sinh chính thức được các
quốc gia theo Thiên chúa sử dụng trong nhà thờ và các buổi Thánh lễ, và điều
đó vẫn được duy trì cho đến tận ngày nay [41].
Trong đêm Phục sinh, theo phong tục lâu đời, nến Phục sinh sẽ được đốt
lên từ đống lửa trước nhà thờ. Sau đó, nến đã được đốt sáng được rước vào nhà
thờ, mỗi tín đồ thường cầm theo một cây nến riêng, và các tín đồ sẽ thắp sáng
nến của mình từ cây nến Phục sinh. Cả nhà thờ theo đó rực sáng bởi ánh nến. Đó
là dấu hiệu của sự sống, là sự chiến thắng trước tội lỗi và cái chết, mọi người reo

18


mừng “Christus ist das Licht - Gott sei ewig Dank”. Trong ngày lễ Phục sinh,
cây nến có ghi hình Thánh giá hoặc khắc tia ánh sáng mặt trời hay dòng nước.
Trên nến có cắm 5 dấu đinh, phía trên ghi mẫu tự Alpha và bên dưới là mẫu tự
Omega với ý nghĩa đầu tiên và cuối cùng của tiếng Hy Lạp, tượng trưng cho
chúa Jesus, nghĩa là khởi đầu và cũng là kết thúc. Xung quanh cây nến ghi năm
để nói lên “Chúa Jesus là Đấng cứu độ từ khởi đầu, hôm nay và mãi mãi”. Trong
các lễ rửa tội hay lễ an táng, nến phục sinh luôn được thắp sáng.
Trong nhà thờ Chính Thống giáo ở Billings, Mỹ, vào đêm thứ Bảy trước lễ
Phục sinh, một ngọn nến sẽ được thắp lên trên bàn thờ. Đó được coi là ánh sáng
của Chúa Christ phát ra từ ngôi mộ vào khoảnh khắc ngài sống lại. Những con
chiên tham dự lễ sẽ thắp sáng cây nến của mình từ lửa của cây nến trên ban thờ,
sau đó tất cả những người có mặt sẽ diễu hành xung quanh bên ngồi nhà thờ ba



lần, tượng trưng cho ba ngày Chúa nằm trong lăng mộ. Cuối cùng khi họ hoàn

iệ

il

thành buổi diễu hành và gõ cửa nhà thờ, toàn bộ nhà thờ sẽ thắp sáng đèn và
thay cho ngôi mộ được đặt ở trong sẽ là những đoá hoa. Điều này tượng trưng

u
VN


cho việc Chúa đã sống lại.3

U

Ngoài những phong tục truyền thống không thể thiếu trong ngày lễ Phục
sinh, các nước cũng có những phong tục riêng để mừng ngày lễ này, đa số đều là
những hoạt động mang ý nghĩa tường thuật hoặc diễn lại sự kiện Chúa Jesus bị
đóng đinh rồi sau đó sống lại.
Tại Vatican, Italy, vào thứ Sáu Tuần Thánh, đám đơng các tín đồ sẽ tập
trung tại quảng trường St. Peter xem chương trình biểu diễn kiểu Trung cổ tái
hiện các hoạt cảnh trong kinh thánh, bao gồm việc Chúa bị đóng đinh lên thánh
giá [41]. Thánh Lễ được cử hành vào tối Thứ bảy Tuần thánh và vào Chủ nhật
Phục sinh với sự tham dự hàng ngàn người tại Quảng trường Thánh Petros để
chờ đợi được ban phước. Chiều thứ Sáu Tuần Thánh năm 2019, theo báo
Vatican News đưa tin, Đức Giáo hoàng Francisco đã chủ sự nghi thức tưởng
niệm cuộc khổ nạn của Chúa Christ tại Đền thờ Thánh Petros. Đức Thánh Cha
Theo mục sư Moses Hibbard tại nhà thờ Chính Thống giáo Nicholas, Billings, Mỹ trong bài báo của Susan
Olp, Celebrating Easter looks differents for Eastern Orthodox, Catholic and Protestant churches, 2017.
3

19


Francisco đã nằm phủ phục trước tiền đình nhà thờ với sự hiện diện của gần
9.000 tín hữu, hơn 40 Hồng y và 50 Giám mục trong giáo triều Roma.
Hay tại Indonesia, từ thế kỉ XVI, lễ phục sinh được tổ chức để tái hiện cảnh
Chúa bị đóng đinh lên thập tự. Các nam thanh niên sẽ buộc mình vào thánh giá, sau
đó diễu hành cùng với tượng Chúa và Đức mẹ Maria khắp các đường phố. Việc
được đóng vai Chúa được coi là vinh dự to lớn và được rất nhiều người mơ ước.
Tại thị trấn Verges ở Tây Ban Nha, người dân thường hoá trang thành

những bộ xương, đeo mặt nạ theo đúng văn hoá truyền thống của Tây Ban Nha,
nhảy nhót và diễu hành qua những con phố vào thứ Năm Tuần Thánh. Màn diễu
hành và biểu diễn truyền thống được bắt đầu vào lúc nửa đêm, kéo dài 3 tiếng
đồng hồ cho tới mờ sáng và kết thúc bằng hình ảnh những người hố trang bộ
xương mang theo hộp tro tàn nhằm tái hiện lại cuộc khổ nạn của Chúa Jesus
Christ [41].



Tại Jerusalem, Israel - quê hương của Kitô giáo, các Kitô hữu ăn mừng

il

iệ

Thứ sáu Tuần thánh bằng cách đi theo con đường mà Chúa Jêsus đã từng đi

u

trong ngày Người bị đóng đinh trên cây thập tự. Để tưởng nhớ tới sự đau đớn

VN

của Chúa Jêsus, một số người cịn mang trên mình cây thập tự giá. Vào Chủ

U

nhật Phục sinh, nhiều người hành hương sẽ tham dự một buổi lễ tại nhà thờ
trong Khu vườn mộ (Garden Tomb), nơi được tin rằng là nơi người ta đã chôn
cất Chúa Jesus trong 3 ngày trước khi Ngài sống lại [41].

1.3.

Lễ Phục sinh của người Công giáo.
Đa số mọi người cho rằng Giáng sinh là là ngày lễ lớn nhất trong Công

giáo. Tuy nhiên cũng như cộng đồng Kitô giáo, ngày lễ Phục sinh vẫn ln là
trọng điểm trong niềm tin của các tín đồ Công giáo. Như Thánh Paul ghi lại
trong Tân Ước : “ Nếu Đấng Ki tô không được sống lại, công việc rao giảng
của chúng ta thật vơ ích, cả đức tin của anh em cũng vơ ích.” [1 Corinthians
15:14].
1.3.1. Những quan niệm về Phục sinh của người Công giáo.
Đối với các tín đồ Cơng giáo, Chúa Nhật Phục Sinh tượng trưng cho sự
hồn thiện đức tin của các tín đồ. Giống như lời của Thánh Paul, chỉ khi Chúa
20


×