Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tìm hiểu diện và hàng thừa kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.84 KB, 18 trang )

Tìm hiểu Diện và Hàng Thừa kế
LỜI MỞ ĐẦU
Thừa kế là hình thức chuyển quyền sở hữu tài sản của cơng dân khi chết, đó là sự chuyển quyền
sở hữu tài sản của người đã chết cho những người còn sống theo sự định đoạt của người có tài
sản trước khi chết hoặc theo quy định của pháp luật.
Pháp luật dân sự Việt Nam từ xưa tới nay đều quy định hai hình thức thừa kế. Đó là, hình thức
thừa kế theo di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản của người có tài sản trước khi chết, và hình
thức thừa kế theo pháp luật thể hiện việc áp dụng mang tính nguyên tắc các quy định của pháp
luật, mhững điều kiện và trình tự thừa kế phải theo quy định của pháp luật dựa trên những quan
hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Thừa kế theo pháp luật là một bộ phận quan trọng trong
chế định thừa kế của luật dân sự Việt Nam, vì trong cuộc sống thường ngày không phải ai cũng
lập di chúc để định đoạt tài sản của mình trước khi chết được. Có những trường hợp người có di
sản chết khơng để lại di chúc vì lý do nào đó hoặc có khi di chúc bị thất lạc, thậm chí của cả
trường hợp di chúc khơng hợp pháp một phần hay tồn bộ, như vậy trong trường hợp đó cần phải
áp dụng thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo pháp luật là việc di chuyển tài sản của người chết cho những người thừa kế theo
quy định của pháp luật. Do đó, địi hỏi những quy định của pháp luật thực sự thể hiện ý chí,
nguyện vọng của nhân dân trong lĩnh vực thừa kế; đảm bảo được truyền thống đoàn kết, tương
thân tương ái của các thành viên trong gia đình cũng như của tồn xã hội; đảm bảo sự cơng bằng
của xã hội và quyền con người trong dân sự.
Vì những lý do nêu trên nên em đã chọn đề tài: “Diện và hàng thừa kế – lý luận và thực tiễn” cho
bài tập học kỳ để từ đó thấy được sự hoàn thiện của Bộ luật Dân sự trong lĩnh vực thừa kế theo
pháp luật, góp phần đáp ứng được nhu cầu của nhân dân trong sự phát triển của nền kinh tế nước
ta trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo đồng thời cũng để thấy được thực tế của vấn
đề này trong giai đoạn hiện nay.
Do kiến thức trong lĩnh vực này còn nhiều hạn chế nên bài viết khơng thể tránh khỏi những thiếu
sót, vì vậy em mong nhận được những ý kiến đánh giá của quý thầy cô để bài viết của em được
đầy đủ và hoàn thiện hơn.

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp


luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm, theo dõi và bảo hộ. Việt Nam là một trong những nước


đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này
qua đời khác. Do đó đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán,
tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho khơng ít người bỏ qua việc
đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có những
người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không
rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút
đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt
Nam được giải quyết theo qui định của pháp luật. Vấn đề đặt ra ở đây là: Ai sẽ được hưởng di
sản của người chết để lại? Hưởng như thế nào? Hưởng bao nhiêu? Những điều này hoàn toàn do
pháp luật quy định. Vậy pháp luật quy định như thế nào? Chúng ta cần đi xem xét vấn đề về
“Diện và hàng thừa kế - lý luận và thực tiễn”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. THỪA KẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM.
1. Quy định chung:
a. Khái niệm về thừa kế.
Thừa kế di sản theo quan hệ pháp luật dân sự là sự dịch chuyển tài sản và quyền sở hữu tài sản
của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế; người thừa kế trở thành
chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Thừa kế là một quan hệ xã hội xuất hiện từ thời sơ khai của xã hội lồi người. Cũng chính từ thời
kỳ sơ khai đó, sở hữu và thừa kế đã xuất hiện như một yếu tố khách quan và mang tính chất là
một phạm trù kinh tế, giữa chúng có mối quan hệ dàng buộc, qua lại với nhau. Nghiên cứu về
thừa kế, Ph.Ăngghen đã nhận xét: “Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ
kể về bên mẹ và theo tập tục thừa kế nguyên thủy trong thị tộc mới được thừa kế những người
trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao cho
những người cùng huyết tộc với người mẹ”.
Thừa kế với nghĩa là một quan hệ pháp luật dân sự, trong đó các chủ thể của quan hệ thừa kế
tham gia vào việc nhận di sản thừa kế. Người được hưởng tài sản của người chết để lại gọi là

người thừa kế. Người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, mà không bao giờ là pháp nhân, cơ quan
nhà nước hoặc tổ chức; nhưng người thừa kế có thể là cá nhân, hoặc cơ quan nhà nước hay bất
cứ một chủ thể nào khác được người có tài sản chỉ định hưởng theo di chúc.
Thừa kế là một thực tế xã hội được thể hiện ở sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người
còn sống (bao gồm cá nhân, tổ chức), nó có gắn chặt với lợi ích của cá nhân, gia đình, cộng đồng
dịng họ…, vì thế trong bất kỳ tổ chức xã hội nào cũng có sự tác động của quy tắc xã hội. Quy
tắc đó được biểu hiện ở yếu tố phong tục, tập quán và cao hơn nữa là quy phạm pháp luật.
Theo quy định của pháp luật quyền thừa kế của cá nhân (theo Điều 631 – BLDS 2005): “Cá nhân
có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế
theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Như vậy thừa kế theo quan hệ pháp luật dân sự chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu
tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức, có quyền hưởng thừa kế; người thừa kế
trở thành chủ sở hữu của tài sản theo di chúc hay theo pháp luật (riêng đối với đất đai là thừa kế
quyền sử dụng). Sự chuyển dịch di sản của người chết sang người sống sẽ được thực hiện theo
hai căn cứ: nếu căn cứ theo ý chí, nguyện vọng của người chết thì được gọi là thừa kế theo di
chúc; nếu căn cứ theo các qui định của pháp luật thì được coi là thừa kế theo pháp luật.
b. Khái niệm quyền thừa kế
Trong khoa học pháp lý quyền thừa kế được hiểu dưới hai ý nghĩa là theo nghĩa rộng và theo


nghĩa hẹp.
Quyền thừa kế được hiểu theo nghĩa rộng là sự tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về
nguyên tắc, điều kiện, trình tự, hình thức để lại di sản và hưởng di sản thừa kế và quyền khởi
kiện yêu cầu bảo vệ quyền thừ kế của chính mình và phủ định quyền thừa kế của người khác.
Như vậy, quyền thừa kế chỉ có được trong một xã hội có tư hữu, có nhà nước và pháp luật.
Quyền thừa kế hiểu theo nghĩa hẹp là quyền dân sự cụ thể của người được thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật. Người thừa kế có quyền nhận, quyền từ chối, quyền hương di sản, quyền
khởi kiện hay không khởi kiện để yêu cầu bảo vệ quyền hưởng di sản của mình trong thời hiệu
khởi kiện về thừa kế.
Ngồi hai cách hiểu trên, quyền thừa kế còn được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự là quan

hệ giữa những người hưởng di sản với nhau và giữa những người thừa kế với người khơng có
quyền hưởng di sản. Quan hệ thừa kế là một qua hệ pháp luật về di sản.Quan hệ này là hệ quả
của quan hệ sở hữu và đồng thời cũng là căn cứ xác lập quyền sở hữu của người nhận di sản.
Tính chất hai chiều của quan hệ thừa kế đã tạo điều kiện cho sự hình thành các quan hệ về tài sản
khác của cac chủ thể tham gia vào quan hệ thừa kế. Nếu giải quyết được triệt để quan hệ thừa kế
thì cũng củng cố được mắt xích quan trọng trong chuỗi các quan tài sản khác mà hàng và diện
thừa kế theo pháp luật đóng vai trị khơng thể thiếu trong qua hệ đó.
Quyền thừa kế được hiểu là một bộ phận của chế định thừa kế, do vậy nó chứa đựng những yếu
tố, tính chất, đặc điểm của một chế định pháp luật. Chế định thừa kế bảo hộ quyền của cá nhân
đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của hộ trong việc để lại tài sản sau khi họ chết cho những
người cịn sống có quyền hưởng thừa kế theo hình thức nhất định (theo di chúc hoặc theo pháp
luật). Quyền thừa kế gắn liền với quyền sở hữu tài sản của cá nhân, vì vậy điều 58 Hiến pháp
năm 1992 quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của cơng dân”.
Các hình thức dịch chuyển di sản của một người đã chết cho những người còn sồng theo di chúc
hoặc theo pháp luật là những cơ sở xác lập quyền sở hữu đối với di sản của người thừa kế hợp
pháp.
c. Các nguyên tắc cơ bản của thừa kế:
- Ngun tắc tơn trọng ý chí của người có quyền thừa kế:
Pháp luật thừa kế ln tơn trọng ý chí của những người tham gia trong quan hệ thừa kế. Nếu như
người để lại di sản mà có để lại di chúc thì việc phân chia di sản theo di chúc bao giờ cũng được
ưu tiên giải quyết trước, phần tài sản chia cho những người thừa kế cũng tùy thuộc vào di chúc
mà người chết để lại. Đó chính là sự tơn trọng ý chí của người để lại di sản. Và ngược lại, những
người thừa kế có quyền đồng ý nhận tồn bộ di sản được thừa hưởng hoặc chỉ nhận một phần
hoặc khước từ việc thừa hưởng di sản từ người chết đó là sự tơn trọng ý chí của người thừa kế.
- Ngun tắc bảo đảm quyền bình đẳng của cơng dân về quyền thừa kế:
Theo Điều 632 – BLDS 2005: “Mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng về quyền để lại tài sản của
mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Theo điều luật
này thì mọi cá nhân đều có quyền để lại tài sản của mình cho người khác và mọi cá nhân đều có
quyền bình đẳng trong việc thừa hưởng tài sản theo di chúc tức là bất kì cá nhân nào cũng được
phép nhận tài sản theo ý chí của người chết. Cịn sự bình đẳng trong việc hưởng di sản là tất cá

những người thừa kế theo qui định của pháp luật đều có quyền hưởng phần tài sản bằng nhau.
- Nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế:
Điều 635 – BLDS 2005 đã qui định: “ Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời
điểm mở thừa kế...” Với đặc trưng cơ bản của sự thừa kế là sự tiếp nối về sở hữu tài sản giữa
người sống với người chết nên người thừa hưởng di sản đương nhiên phải là người còn sống.
Việc dịch chuyển di sản từ người chết này sang người chết khác là không thực hiện được. Tiếp


đó là việc người cịn sống đó phải cịn sống ở thời điểm mở thừa kế. Có thể người thừa kế đã
chết nhưng khi mở thừa kế thì ơng ta cịn sống hoặc đã chết hay mất tích nhưng chưa bị tuyên bố
là đã chết hoặc ngày tuyên bố nguời đó chết là sau ngày mở thừa kế, khi đó ông ta việc chuyển
giao di sản cho ông ta vẫn được thực hiện và nó sẽ được tính vào tài sản của người đó.
Trong trường hợp người thừa kế bị tuyên bố là đã mất tích hoặc chết nhưng sau đó người đó cịn
sống trở về thì người đó vẫn được coi là còn sống và được quyền hưởng di sản sau khi tịa án hủy
bỏ tun bố mất tích hoặc đã chết.
- Người thừa kế có quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại:
Quyền luôn luôn đi kèm với nghĩa vụ. Do đó những người thừa kế có quyền thừa hưởng di sản
để lại từ người chết theo di chúc hoặc theo pháp luật, phần di sản họ được hưởng có thể bằng
nhau hoặc khơng bằng nhau tùy theo ý chí của người chết. Đồng thời họ có nghĩa vụ thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo Điều 637 – BLDS 2005, nghĩa vụ tài sản họ phải thực
hiện sẽ tùy theo phần mà họ được hưởng. Nếu người thừa kế khước từ hoặc không được nhận
phần di sản để lại của người chết thì họ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản của người
chết.
2. Thừa kế theo pháp luật
Theo điều 674 BLDS năm 2005 quy định: “ Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế,
điều kiện và trình tự hang thừa kế do pháp luật quy định”. Thừa kế theo pháp luật vừa đảo bảo
quyền đương nhiên của người có tài sản để lại của họ khi chết, vừa bảo vệ quyền của những
người có quan hệ huyết thống, gia đình, quan hệ ni dưỡng hay quan hệ thân thuộc với người
có tài sản để lại. Như vậy hình thức thừa kế theo pháp luật là hình thừc thừa kế truyền thống
được bảo tồn trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của xã hội loài người nhằm củng cố cơ sở vật

chất của mối quan hệ huyết thống gia đình – nền tảng của mọi xã hội.
Những trường hợp thừa kế theo pháp luật:
Theo quy định tại điều 675 BLDS, thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp
sau:
+ Không có di chúc;
+ Di chúc khơng hợp pháp;
+ Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc khơng cịn vào thời điểm mở thùa kế;
+ Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản,
hoặc từ chối quyền hưởng di sản;
Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
+ Phần di sản không được định đoạt theo di chúc;
+ Phần di sản có liên quan đến phần di chúc khơng có hiệu lực pháp luật;
+ Phần di sản có lien quan đến người được hưởng thừa kế theo di chúc nhưng họ khơng có quyền
được hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng khơng cịn vào thời
điểm mở thừa kế.
II. DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ
1. Diện thừa kế
Khi người để lại di sản không để lại di chúc, di chúc không hợp pháp hoặc khi những người thừa
kế theo di chúc đều chết trước hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc…thì di sản được phân
chia theo pháp luật. Như vậy việc thừa kế tài sản gặp một trong những trường hợp nói trên sẽ
phát sinh thừa kế theo pháp luật, nghĩa là di sản sẽ được chuyển dịch cho các người thừa kế theo


quy định của pháp luật.
Khái niệm diện thừa kế theo pháp luật chỉ được nghiên cứu dưới góc độ học thuật mà không quy
định trong bộ luật dân sự bởi vì nó chỉ là sự suy đốn ý chí người để lại di sản của các nhà làm
luật. Do vậy, diện những người thừa kế theo pháp luật là phạm vi những người có thể có quyền
được hưởng di sản của những người đẫ chết theo quy định của pháp luật thừa kế.

Căn cứ vào mối quan hệ của người đã chết với người còn sống mà những nhà làm luật đã đưa ra
một phạm vi những người có thể có quyền được hưởng di sản của người đã chết. Theo tục lệ
cũng như trong pháp luật Việt Nam từ trước tới nay, người ta luôn căn cứ vào mối quan hệ họ
hàng xa hay gần hoặc mối quan hệ thân thuộc gần gũi giữa người quá cố và người còn sống để
quy định những người được hưởng di sản thừa kế của người đã chết. Pháp luật nước ta quy định
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật chỉ phạm vi những người có một trong ba mối
quan hệ với người chết:
+ Quan hệ hôn nhân
+Quan hệ huyết thống
+Quan hệ ni dưỡng
Nhưng trong số những người có một trong ba mối quan hệ trên với người quá cố, không phải ai
cũng được hưởng di sản thừa kế mà chỉ một số người nhất định có thể được hưởng di sản thơi.
Việc những người thừa kế có được hưởng di sản hay khơng cịn phụ thuộc vào sự sắp xếp của
hàng thừa kế.
Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất sẽ được hưởng thừa kế trước và thừa kế toàn bộ di
sản. Như vậy những người thuộc hàng thừa kế sẽ không được hưởng di sản mặc dù họ thuộc diện
những người thừa kế theo pháp luật. Họ chỉ có thể được hưởng di sản nếu như khơng cịn thừa kế
ở những hàng trước hoặc những người thừa kế đó khơng nhận. Vì vậy chúng ta gọi diện những
người thừa kế theo pháp luật là phạm vi những người có thể được hưởng di sản thừa kế.
Việc pháp luật lựa chọn và sắp xếp ai thuộc diện thừa kế theo pháp luật được căn cứ vào các mối
quan hệ trong xã hội có tính chất thân thuộc gần gũi nhất đối với người quá cố, mà dựa vào đó
pháp luật xác định phạm vi những người thừa kế theo pháp luật đó là:
a. Quan hệ hơn nhân
Quan hệ hơn nhân hợp pháp là quan hệ vợ chồng tuân thủ những quy định của pháp luật hôn
nhân về độ tuổi kết hơn, ý chí tự do, tự nguyện trong kết hơn, tự do thoả thuận, khơng có áp đặt ý
của một bên đối với bên kia trong kết hôn, không vi phạm quan hệ huyết thống, không vi phạm
chế độ một vợ một chồng và không vi phạm các điều cấm của pháp lluật trong kết hôn. Quan hệ
hôn nhân là quan hệ giữa vợ, chồng được xác lập thông qua việc kế hôn. Kết hôn là sự kiên pháp
lý làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa vợ - chồng, các quyền này được pháp luật bảo vệ,
trong đó các quyền thừa kế tài sản giữa vợ - chồng khi một bên chết trước theo điều 17 Luật hơn

nhân gia đình Việt Nam năm 1986. Theo điều 17: “Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau
khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ - chồng thì chia đơi, phần tài sản của
người chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế”.
Trong trường hợp người quá cố không lập di chúc để định đoạt tài sản của mình hoặc vì lý do
nào đó mà di sản được phân chia theo pháp luật thì người chồng hay người vợ cịn sống sẽ là
người thừa kế hàng thứ nhất của người quá cố.
Việc pháp luật quy định như vậy là hết sức hợp trình hợp lý vì sự kiện kết hơn khơng chỉ gắn bó
tình cảm vật chất mà cịn làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ chồng. Về
tình cảm có thể nói vợ chồng có mối quan hệ gần gũi, gắn bó, mật thiết nhất. Mặt khác khi kết
hôn hai người dã tự nguyện cùng dóng góp xây dựng khối tài sản chung của gia đình, duy trì và
phát triển khối tài sản chung đó và cùng nhau hưởng thụ khối tài sản mà họ đã tạo ra sau khi kết


hơn.
Việc pháp luật quy định vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau nhằm đảm bảo quyền lợi
cho vợ - chồng, duy trì và gắn bó tình cảm yêu thương gắn bó giữa vợ chồng, mặt khác tạo ra sự
thông nhất trong hệ thống pháp luật, ổn định cho các mối quan hệ hơn nhân gia đình và thừa kế.
Tuy nhiên, pháp luật vẫn thừa nhận quan hệ hôn nhân một vợ nhiều chồng hoặc một chồng nhiều
vợ trong trường hợp: Ở miền Bắc những người có nhiều vợ trước ngày ban hành luật hơn nhân
và gia đình trước ngày 13/1/1960, cịn ở miền Nam có nhiều vợ trước ngày 25/3/1977 thì khơng
đặt vấn đề vi phạm luật. Do vậy quan hệ hôn nhân của vợ chồng xác lập trước ngày 13/1/1960
tuy có vi phạm chế độ một vợ một chồng nhưng vẫn tồn tại và coi là không trái pháp luật. Theo
quy định trên, khi chồng chết các vợ được thừa kế của chồng hoặc khi vợ chết thì chồng được
thừa kế của các vợ.
b. Quan hệ huyết thống
Pháp luật hơn nhân và gia đình bảo vệ lợi ích chính đáng của những người con xét về quan hệ
huyết thống đối với cha mẹ và nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ của con. Quyền thừa kế của
con khơng phụ thuộc vào hình thức hơn nhân của cha, mẹ đẻ. Việc xác định cha, mẹ là quyền
thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi con người và là danh dự, uy tín của mỗi người trong xã
hội.

Trong thực tiễn hoạt động của toà án, việc đương sự xin xác định cha cho con ngoài giá thú là
loại vụ việc phức tạp, giải quyết các loại khiếu kiện này thường phải dựa trên căn cứ sau:
+ Chứng cứ về mối quan hệ giữa những người được nghi vấn là cha mẹ của đứa trẻ trong mối
liên hệ về mặt thời gian khi đứa trẻ thành thai và những người được nghi vấn là cha, mẹ đứa trẻ
trong thời gian đứa trẻ được sinh ra.
+ Những chứng cứ về xử sự của người được nghi vấn là cha, mẹ của đứa trẻ với chính đứa trẻ
đó. Xác định huyết thống giữa cha mẹ và các con là một việc quan trọng. Mục đích xác định
quan hệ huyết thống nhằm bảo vệ những quyền lợi tài sản và nhân thân cho các cá nhân và là đạo
lý của đời sống xã hội, với quan điểm mỗi người sinh ra đều phải có cha, mẹ là cội nguồn của
mối quan hệ ruột thịt, là căn cứ để xác định nghĩa vụ và quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ
gia đình và xã hội. Và trong trường hợp cần thiết xác định trách nhiệm của họ đối với nhau và
nghĩa vụ giám hộ cho nhau, đại diện cho nhau trong các quan hệ dân sự và các quan hệ xã hội
khác.
c. Quan hệ nuôi dưỡng
Quan hệ nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau giữa những người thân thuộc theo
quy đinh của pháp luật.
Điều 20 luật hơn nhân gia đình năm 1986 và các điều 50, điều 56 đến điều 59 luật hơn nhân và
gia đình năm 2000 cũng theo nguyên tắc:
+ Cha mẹ có nghĩa vụ ni dưỡng con đã thành niên mà khơng có khả năng lao động ni sống
mình.
+ Con có nghĩa vụ kính trọng, ni dưỡng cha mẹ.
Quan hệ ni dưỡng cịn được thể hiện giữa anh chị em ruột với nhau trong hồn cảnh mồ cơi
cha mẹ hoặc cha mẹ cịn nhưng khơng có khả năng lao động hoặc đều khơng có năng lực hành vi
dân sự. Hay quan hệ ni dưỡng giữa ông bà nội, ngoại và các cháu nội, ngoại.
Quan hệ nuôi dưỡng giữa cha kế, mẹ kế với con riêng của vợ, của chồng. Trong thực tế cha kế,
mẹ kế với con riêng của vợ, của chồng đã thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng nhau
như cha con, mẹ con theo điều 679 BLDS họ được thừa kế của nhau. Nếu con riêng của vợ, của
chồng mà chết trước cha kế, mẹ kế, con của họ được thừa kế thế vị nhận di sản của ông bà kế khi
qua đời.



Quan hệ nuôi dưỡng giữa con nuôi với cha, mẹ nuôi theo pháp luật quy định ở điều 18 và điều 25
Luật hơn nhân và gia đình năm 1986 và điều 74 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000.
Phạm vi những người thừa kế theo pháp luật được xác định trên ba mối quan hệ như đã trình bầy
ở trên. Ba mối quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, huyết thống có tính độc lập tương đối, vì quan hệ
này là tiền đề của quan hệ kia. Tuy nhiên, từng quan hệ được xác định theo quy định của pháp
luật giữa người để lại di sản với người thừa kế. Chỉ có xác định diện những người thừa kế theo
pháp luật chuẩn xác mới ngăn chặn được sự mất đoàn kết trong dịng tộc và có tác dụng giáo dục
ý thức sống, ý thức pháp luật cho những người thuộc diện thừa kế.
2. Hàng thừa kế
Như chúng ta đã biết, di sản của người chết phải được dịch chuyển cho những người thân thích
của những người đó. Tuy nhiên, trong số những người thân đó thì mức độ gần gũi, thân thích của
mỗi người đối với người chết là khác nhau. Theo trình tự hưởng di sản thừa kế thì người nào có
mức độ gần gũi nhất với người chết sẽ được hưởng di sản mà người đó để lại, nhiều người có
mức độ gần gũi với người chết sẽ cùng dược hưởng di sản của người đó. Khi khơng có người gần
gũi nhất thì những người có mức độ gần gũi tiếp theo sẽ được hưởng di sản của người chết để lại.
Như vậy, không phải tất cả những người trong diện những người thừa kế theo pháp luật đều
được thừa kế cùng một lúc. Để những người thừa kế theo pháp luật theo trình tự trước, sau căn
cứ vào mức độ gần gũi giữa họ với người chết, pháp luật về thừa kế đã xếp những người đó theo
từng nhóm khác nhau. Mỗi một nhóm được gọi là hàng thừa kế theo pháp luật.
Vậy: “Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết
và theo đó họ được hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại”.
Đã có rất nhiều văn bản quy định về thừa kế như: thông tư 1742, thông tư 594, thông tư 81, Pháp
lệnh thừa kế, Bộ luật dân sự 1995. Những văn bản trên đã mắc phải những thiếu sót nhất định, và
những thiếu sót đó đã được bổ sung trong Bộ luật dân sự 2005.
Do sự thay đổi và phát triển về nhiều mặt của cuộc sống, các quy định trong Bộ luật dân sự 1995
đã có nhiều điểm trở lên bất cập và nhiều thiếu sót. Vì thế, nhà nước ta đã tiến hành sửa đổi bổ
sung bộ luật dân sự 1995 bằng Bộ luật dân sự 2005. Về hàng thừa kế theo pháp luật, Điều 676
Bộ luật dân sự 2005 quy định như sau:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi

của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của
người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cơ ruột, cậu
ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô
ruột, cậu ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2.1 Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi
của người chết. Ở hàng thừa kế này có hai mối quan hệ giữa những người hưởng di sản của
nhau:
a. Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng: Vợ - chồng là mối quan hệ giữa một người đàn ông với
một người đàn bà trên cơ sở hôn nhân được pháp luật thừa nhận. Quan hệ thừa kế giữa vợ và
chồng là một quan hệ thừa kế mang tính chất hai chiều hay cịn gọi là “thừa kế đối nhau”, “thừa
kế của nhau”, nghiã là trong đó, khi bên này chết thì bên kia là là người thừa kế ở hàng thừa kế
thứ nhất.
Khi xác định quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa vợ và chồng cần lưu ý các trường hợp sau:
Trường hơp thứ nhất: Vợ chồng đã chia tài sản chung nhưng không ly hơn, sau đó một bên chết
thì về mặt pháp lý quan hệ hôn nhân của họ vẫn tồn tại. Do đó người cịn sống vẫn được thừa kế


di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ hai: Vợ chồng đã sống ly thân về mặt tình cảm hầu như tình u giữa họ đã
khơng cịn nhưng về một lý do tế nhị nào đó nên họ khơng ly hơn, hơn nhân của họ vẫn đang tồn
tại. Vì vậy, người còng sống vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ ba: …Khi một bên chết, dù người kia còn sống đang sống chung với người khác
như vợ chồng một cách bất hợp pháp thì người đó vẫn được hưởng di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ tư: ...Vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được tịa án cho ly hơn hoặc đã được
tịa án cho ly hôn nhưng quyết định hoặc bản án cho ly hơn chưa có hiệu lực pháp luật mà một
bên chết thì người cịn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ năm: Nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hơn nhân đó đều được tiến
hành trước ngày 13 tháng 1 năm 1960 ở miền Bắc và trước ngày 25 tháng 3 năm 1977 ở miền

Nam, thì khi người chồng chết trước tất cả các người vợ (còn sống) đều là người thừa kế ở hàng
thừa kế thứ nhất của ngừơi chồng và ngược lại.
Trường hợp thứ sáu: Nếu cán bộ chiến sĩ ở miền Nam, sau khi tập kết ra Bắc, lấy vợ ở miền Bắc
mà việc kết hôn sau khơng bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì những người đó
đều là người hừa kế ở hàng thứ nhất của người chồng khi người chồng chết trước và ngược lại.
Trường hợp thứ bảy: Đối với các trường hợp hôn nhân không đăng ký kết hơn nhưng được thừa
nhận là hơn nhân thực tế thì quan hệ vợ chồng giữa họ vẫn được thừa nhận và do vậy họ là người
thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất.
Trường hợp thứ tám, hai vợ chồng đã ly hơn nhưng sau đó quay lại sống chung với nhau trước
ngày luật hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật mà cuộc sống chung đó khơng bị hủy
bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì họ vẫn được thừa nhận là có quan hệ vợ chồng theo
hơn nhân nên vẫn là người thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất.
b. Quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ và con: Quan hệ thừa kế giữa một bên là cha, mẹ với một bên là
con cũng là quan hệ thừa kế mang tính chất hai chiều. Quan hệ này được xác định theo một trong
hai căn cứ. Nếu căn cứ vào quan hệ huyết thống thì đó là những người có cùng một dịng máu
trực hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau. Trong đó, cha đẻ, mẹ đẻ của một người là người đã
sinh ra người đó và được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, cha mẹ của người do mình sinh ra dù
trong hay ngoài giá thú nhưng được pháp luật thừa nhận đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất đẻ
hưởng di sản theo pháp luật khi người con chết. Và ngược lại, người con trong hay ngoài giá thú
đều là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản do cha hay mẹ mình để lại. Nếu
căn cứ vào quan hệ ni dưỡng thì đó là quan hệ những người nuôi dưỡng lẫn nhau theo cha –
con, mẹ - con hoặc cha, mẹ - con. Cha nuôi, mẹ nuôi của một người là người đã nhận người đó là
con ni của mình theo quy định của pháp luật. Cha nuôi, mẹ nuôi là những người ở hàng thừa
kế thứ nhất của con nuôi khi người con ni đó chết và ngược lại, con ni là người thừa kế ở
hàng thứ nhất của cha, mẹ nuôi cha, mẹ nuôi chết.
Đối với trường nhận con nuôi không đăng ký việc nhận con nuôi theo đúng quy định của pháp
luật thì cha, mẹ ni với con ni chỉ là ngưòi thừa kế thứ nhất của nhau khi được công nhận là
con nuôi thực tế. Trên thực tế hiện nay có rất nhiều hình thức con ni như: con ni có quyết
định cơng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, con ni thực tế tức chỉ có mối quan hệ
con ni miệng và có quan hệ ni dưỡng…Từ thực tế như vậy, thiết nghĩ pháp luật cần có quy

định cụ thể về vấn đề thừa kế của con nuôi.
Khi xác định về quan hệ thừa kế giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế điều 679, bộ luật dân sự
2005 quy định: “ Con riêng và bố bố dượng, nếu có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha
con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế theo quy định tại điều 676 và
điều 677 của bộ luật này”. Hiện nay thì việc xác định quyền thừa kế theo pháp luật của nhau giữa


con riêng và cha kế, mẹ kế là một vấn đề phức tạp và có nhiều quan điểm khác nhau trong việc
áp dụng quy phạm để giải quyết tranh chấp thực tế pháp sinh.
2.2 Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột
của người chết, cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Ta thấy có hai mối quan hệ giữa những người hưởng di sản của nhau.
a. Quan hệ giữa ông, bà với cháu. Theo điểm b, khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự 2005 thì căn cứ
để xác định mối quan hệ thừa kế này là hoàn toàn dựa vào quan hệ huyết thống mà không dựa
vào quan hệ nuôi dưỡng. Pháp luật không đương nhiên thừa nhận giữa cha đẻ, mẹ đẻ của một
người đối với người con ni của người đó có quan hệ thừa kế. Trước đây Bộ luật dân sự 1995
không xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà nên quan hệ thừa kế này chỉ có một chiều,
nhưng theo Bộ luật dân sự 2005 thì quan hệ thừa kế này là quan hệ thừa kế hai chiều. Do vậy,
nếu ông nội, bà nội, ơng ngoại, bà ngoại cịn sống vào thời điểm người cháu của mình chết sẽ là
người thừa kế theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ hai của người cháu đó. Ngược lại, khi ơng nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại chết thì cháu của người chết sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở
hàng thừa kế thứ hai của người đó. Cũng theo quy định của điểm b nói trên thì ơng, bà chết thì
cháu ruột mới được hưởng thừa kế của ông, bà ở hàng thừa kế thứ hai. Tuy nhiên cũng cần bàn
thêm rằng khi cháu chết thì ơng, bà ni (cha, mẹ nuôi của cha,mẹ đẻ của người chết hoặc cha,
mẹ đẻ của cha, mẹ ni của người chết) có được hưởng di sản của người cháu đó theo hàng thừa
kế thứ hai khơng, vì vấn đề này điểm b chưa quy định cụ thể. Nếu theo tinh thần của nghị quyết
02/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1991 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Con nuôi không
đương nhiên trở thành cháu của cha, mẹ của người ni dưỡng” thì con ni của một người
muốn được xác định có quan hệ ông cháu, bà cháu với cha, mẹ nuôi của mình phải được sự thừa
nhận của người đó. Tuy nhiên, khi giải quyết mối quan hệ thừa kế theo quy định này, theo tôi

cần xác định hai trường hợp:
Thứ nhất, nếu ông, bà là cha, mẹ nuôi của cha, mẹ đẻ người chết thì cần xác định ơng, bà là
người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai của người đó.
Thứ hai, nếu người chết là con ni của con đẻ hay con ni của ơng, bà thì ơng bà không đương
nhiên là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai của người chết.
b. Quan hệ thừa kế giữa anh ruột, chị ruột với em ruột. Đây là quan hệ thừa kế giữa hai bên,
trong đó một bên hoặc là anh ruột, hoặc là chị ruột, hoặc là cả anh ruột, chị ruột và mộ, bao gồm
những t bên là em ruột. Quan hệ thừa kế này được hình thành theo một căn cứ duy nhất là quan
hệ huyết thống bao gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ cùng một đời. Tuy nhiên
như thế nào được gọi là “anh, chị, em ruột” cịn có nhiều cách hiểu khác nhau. Pháp luật thời
phong kiến Việt Nam cũng như ngay một số văn bản pháp luật trước đây của nước ta như thông
tư 81 xác định “anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha” là khác với
“anh, chị em ruột”. Theo đó người ta vẫn thường hiểu rằng chỉ có anh, chị em cùng cha, cùng mẹ
mới được coi là anh, chị em ruột. Theo tơi, cứ người nào có liên quan về huyết thống với nhau
thì được coi là anh, chị em ruột dù quan hệ huyết thống giữa họ chỉ về bên người cha hay về bên
người mẹ. Theo cách hiểu này thì một người sinh ra bao nhiêu người con thì tất cả những người
con đều là anh,chị em ruột của nhau. Như vậy, anh chị em ruột bao gồm: Những người có cùng
cha, cùng mẹ, những người cùng mẹ tuy khác cha hay những người cùng cha nhưng khác mẹ.
Quan hệ thừa kế giữa anh, chị em ruột của nhau là quan hệ thừa kế hai chiều. Nghĩa là trong
quan hệ này, nếu anh hoặc chị hoặc cả hai anh, chị chết thì em ruột sẽ là người thừa kế ở hàng
thừa kế thứ hai để hưởng di sản của anh, chị đã chết. Ngược lại, nếu em chết thì anh, chị sẽ là
những người ở hàng thừa kế thứ hai để hưởng di sản của người em đã chết.
Cần lưu ý rằng khơng hình thành quan hệ thừa kế giữa anh, chị em từ quan hệ nuôi dưỡng, vì vậy


trong trường hợp một người có con ni, vừa có con đẻ thì giữa con ni và con đẻ của người đó
khơng phải là anh, chị em ruột của nhau nên họ không phải là người thừa kế theo pháp luật của
nhau.
2.3 Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột
của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì

ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Ở hàng thừa kế thứ ba bao gồm
hai mối quan hệ sau:
a. Quan hệ thừa kế giữa cụ với chắt. Nếu xét đơn thuần về huyết thống thì cụ nội của một người
là người đã sinh ra ông nội hoặc bà nội của người đó. Cụ ngoại của một người là người đã sinh ra
ơng ngoại hoặc bà ngoại của người đó. Như vậy, các cụ của một người là người đã sinh ra ông
nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của người đó, người đó là chắt của các cụ. Điểm c khoản 1 Điều
676 đã phân biệt các cụ thành nội, ngoại, thiết nghĩ điều này không quan trọng và không cần đặt
ra vì các cụ ngang quyền nhau khi hưởng di sản mà chắt để lại. Cái cần xác định là cụ ruột hay
khơng thì điểm c nói trên lại khơng quy định cụ thể. Căn cứ để xác định thừa kế giữa cụ với chắt
giống như căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa ông, bà với cháu. Quan hệ thừa kế giữa ông,
bà với cháu cũng như quan hệ giữa cụ với chắt là quan hệ ngành dọc theo một chuỗi thế hệ từ đời
thứ nhất đến đời thứ ba, đời thứ tư. Trong chuỗi thế hệ đó chỉ đơn thuần là huyết thống nhưng
cũng có thể đan xen cả huyết thống cả nuôi dưỡng. Về mặt pháp lý, luật chỉ quy định rằng khi
chắt đứng vào hàng thừa kế thứ ba để hưởng di sản của cụ thì phải là chắt ruột của người chết
cịn khi cụ ở hàng thừa kế thứ ba để hưởng di sản của chắt thì luật chưa xác định cụ ruột hay
khơng. Từ đó ta thấy việc xác định giữa cụ và chắt có quan hệ thừa kế với nhau trong những
trường hợp nào là một việc hết sức khó khăn. Tơi cho rằng theo ngun tắc bình bình đẳng trong
thừa kế nên nếu chắt ruột mới được hưởng di sản của cụ thì cũng là cụ ruột thì mới được hưởng
di sản của chắt. Tuy nhiên, do sự đan xen về huyết và ni dưỡng nói trên trong thực tế nếu mọi
trường hợp nhất đều áp dụng theo nguyên tắc sẽ có nhiều bất cập.
Theo quy định của điểm c, Khoản 1, Điều 676 BLDS 2005 thì quan hệ thừa kế giữa các cụ và
chắt được xác định như sau: Khi chắt chết các cụ là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ ba của chắt
và ngược lại, khi cụ chết, chắt ruột ở hàng thừa kế thứ ba để hưởng di sản thừa kế của người cụ
đã chết để lại.
b. Quan hệ thừa kế giữa bác ruột, chú ruột, cơ ruột, cậu ruột dì ruột với cháu ruột. Mỗi một địa
phương có cách gọi, xưng hơ giữa các thành viên trong một đại gia đình một cách khác nhau.
Chẳng hạn cũng là chị của mẹ nhưng ở vùng Trung du Bắc bộ được gọi là “bá”, ở vùng châu thổ
sông Hồng gọi là “già”, em gái của mẹ được gọi là “dì” (các con của chị, em gái được gọi là:
“con dì, con già”) nhưng ở miền Trung thì em gái hay chị gái của mẹ đều được gọi là “dì” (vì
thế, các con của chị, em gái được gọi là: “đơi bạn con dì”). Vì vậy, hiểu một cách chung nhất thì

bác ruột, chú ruột, cơ ruột, cậu ruột, dì ruột của một người là anh ruột, chị ruột, em ruột của cha
đẻ hoặc mẹ đẻ của người đó. Cơ sở hình thành mối quan hệ thừa kế những người này là quan hệ
huyết thống bàng hệ giữa hai đời liền kề nhau. Đây là những người có quyền hưởng di sản của
nhau theo hàng thừa kế thứ ba, nghĩa là khi cháu chêt trước thì chú, bác, cơ, dì, cậu ruột nếu cịn
sống là những người thừa kế ở hàng thứ ba của cháu. Ngược lại, nếu, cơ, dì, chú, bác, cậu ruột
chết thì cháu là người thừa kế ở hàng thứ ba của người chết
.
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THỪA KẾ.
1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thừa kế:
Mỗi vụ án thừa kế theo pháp luật thường nảy sinh khá nhiều vấn đề phức tạp cần xác định như:
thời hiệu khởi kiện về thừa kế, di sản thừa kế, diện và hàng thừa kế…Nhìn chung, các tịa án


ln đảm bảo xác định chính xác diện và hàng thừa kế, bảo vệ tất cả quyền lợi của những người
thừa kế liên quan. Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế,
cộng với tính chất phức tạp của vụ việc thừa kế, có khơng ít bản án giải quyết tranh chấp thừa kế
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, thậm chí giám đốc thẩm hoặc tái thẩm song
hầu hết nội dung kháng cáo, kháng nghị đó đều khơng liên quan đến vấn đề xác định diện và
hàng thừa kế.
Em xin được đưa ra hai vụ việc về thừa kế đã được xét xử tại TAND tỉnh Bắc Giang như sau:
1.1 Vụ án thứ nhất: Bản án số 25/DSPT ngày 27/3/2002 tại TAND tỉnh Bắc Giang về việc chia
thừa kế giữa:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Nhàn
Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Lương
Nội dung vụ án:
Cụ Nguyễn Hữu Vinh và cụ Phạm Thị Xuyến sinh được hai người con là Nguyễn Hữu Khi và
Nguyễn Thị Nhàn. Anh Khi kết hôn với chị Nguyễn Thị Bi, năm 1969 anh Khi hi sinh tại chiến
trường miền Nam, khi đó vợ chồng anh có một người con nuôi là Nguyễn Hữu Lương. Năm
1991 cụ Xuyến chết, năm 1999 cụ Vinh chết, các cụ không để lại di chúc.
Tại bản án sơ thẩm của TAND huyện Tân Yên cũng như bản án dân sự phúc thẩm số 25/DSPT

ngày 27/3/2002 của TAND tỉnh Bắc Giang quyết định:
- Xác định thời điểm mở thừa kế là năm 1999
- Xác định hàng thừa kế thứ nhất là: Nguyễn Thị Nhàn, Nguyễn Hữu Lương (Thừa kế thế vị)
Nhận thấy:
- Án số 25/DSPT ngày 27/3/2002 của TAND tỉnh Bắc Giang đã xác định thiếu thời điểm mở
thừa kế lần thứ nhất là năm 1991 khi bà Xuyến chết, hàng thừa kế thứ nhất là Nguyễn Hữu Vinh,
Nguyễn Thị Nhàn. Thời điểm mở thừa kế lần hai là năm 1999 khi cụ Vinh chết, hàng thừa kế thứ
nhất chỉ có một người là Nguyễn Thị Nhàn.
- Theo bản án, ông Nguyễn Hữu Lương là người thừa kế thế vị là không đúng vì ơng Lương
khơng phải là cháu ruột của người để lại di sản theo quy định của BLDS. Thực chất, ông Lương
chỉ là người có quyền, nghĩa vụ liên quan vì đang trực tiếp quản lý di sản của cụ Vinh và cụ
Xuyến.
1.2.Vụ án thứ hai: Bản án số 107/DSPT ngày 24/10/2001 của TAND tỉnh Bắc Giang về chia thừa
kế giữa:
Nguyên đơn: Chị Đồng Thị Tư
Bị đơn: Anh Hoàng Gia Lương
Nội dung vụ án:
Ơng Hồng Văn Sinh và bà Phạm Thị Kim sinh được bốn người con là: Hoàng Thị Thanh,
Hồng Gia Lương, Hồng Gia Kình và Hồng Thị Thản. Ngồi ra ơng Hồng Văn Sinh có một
người con riêng là Hồng Gia Cường.
Năm 1983 ơng Sinh chết. Năm 1997 bà Kim chết. Năm 1999 anh Kình chết. Vợ chồng anh Kình
và Chị Tư sinh được ba người con chung.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 13/DSST ngày 19/6/2001 của TAND huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc
Giang quyết định:
- Thời điểm mở thừa kế là năm 1997.
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm 5 người con (4 con chung và 1 con riêng): Hoàng Thị Thanh,
Hoàng Gia Lương, Hoàng Gia Kình (chết năm 1999, nay ba con hưởng thế vị), Hoàng Thị Thản,
Hoàng Gia Cường.
Nhận thấy:



- Cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm đều xác định thời điểm mở thừa kế là năm 1997 là chưa
chính xác. Vụ án trên có 3 thời điểm mở thừa kế:
+ Thời điểm mở thừa kế lần thứ nhất là năm 1983 khi ông Sinh chết. Khi đó hàng thừa kế thứ
nhất gồm: bà Phạm Thị Kim, Hồng Thị Thanh, Hồng Gia Lương, Hồng Gia Kình, Hồng Thị
Thản và Hoàng Gia Cường.
+ Thời điểm mở thừa kế lần hai là năm 1997 khi bà Kim chết. Khi đó hàng thừa kế thứ nhất
gồm: Hồng Thị Thanh, Hồng Gia Lương, Hồng Gia Kình, Hồng Thị Thản. Riêng anh Hoàng
Gia Cường là con riêng chỉ được hưởng thừa kế di sản của bà Kim nếu chứng minh được có mối
quan hệ chăn sóc, ni dưỡng nhau như mẹ con.
+ Thời điểm mở thừa kế lần ba là năm 1999 khi anh Kình chết. Khi đó hàng thừa kế thứ nhất
gồm chị Tư và ba người con chung của vợ chồng anh chị.
- Bản án phúc thẩm coi ba người con chung của chị Tư và anh Kình được thừa kế thế vị là khơng
chính xác. Như đã phân tích ở trên, phải xác định đúng thời điểm mở thừa kế đồng thời phải xác
định đúng diện và hàng thừa kế.
Qua thực tiễn, đánh giá xét xử của tòa án về những vụ án chia thừa kế cho thấy, những sai sót
của tịa án thường xảy ra trong việc xác định người thừa kế theo pháp luật, di sản thừa kế, người
không được quyền hưởng di sản và người thừa kế thế vị…Tỉ lệ án sửa, hủy của tòa án các cấp
vẫn còn cao, chủ yếu là các vi phạm: điều tra chưa đầy đủ, xác định sai tư cách người tham gia tố
tụng, xác định không đúng và chưa đầy đủ quan hệ pháp luật cũng như người tham gia tố tụng,
xác định chưa chính xác thời điểm mở thừa kế, xác định chưa đúng diện và hàng thừa kế…dẫn
đến thụ lý và giải quyết vụ án sai quy định của pháp luật; chia hiện vật, giá trị trong các vụ án
tranh chấp di sản thừa kế chưa hợp lý…Việc xác định thời điểm mở thừa kế và những người thừa
kế theo pháp luật, các tòa án vẫn thường thiếu sót, nhất là trong các vụ án có nhiều thời điểm mở
thừa kế. Bên cạnh đó, việc xác định những người hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật
trong trường hợp có con chung, con riêng, con ngồi giá thú của tịa án cịn nhiều thiếu sót. Từ
đó dẫn đến xác định không đầy đủ những người thừa kế theo pháp luật, quyền lợi của những
người thừa kế không được đảm bảo. Theo số liệu thống kê của Tịa án nhân dân tối cao thì trong
nhưng năm qua tồn ngành tịa án đã thụ lý một số lượng đáng kể các vụ tranh chấp thừa kế dân
sự. Lấy số liệu thống kê tương đối đầy đủ trong năm 1996 – 1998 của tòa an đã xét xử để thấy

được thực trạng này:
- Năm 1998, bản án sơ thẩm được giữ nguyên chiếm 35%. Bản án sơ thẩm hủy bỏ để xét xử lại
chiếm 15%. Bản án bị sửa toàn bộ chiếm 7%. Bản án bị sửa đổi một phần chiếm 30%.
- Trong tổng số vụ đã xét xử phúc thẩm trong 4 năm thì tỷ lệ số vụ sơ thẩm bị hủy bỏ, bị sửa đổi
toàn bộ, bị sửa đổi một phần chiếm tỷ lệ khá cao, Toàn ngành xét xử ở cấp phúc thâm trong bốn
năm là 1567 vụ, giữ nguyên án sơ thẩm là 464 vụ (29,44%), sửa một phần án sơ thẩm chiếm
28,74%; sửa toàn bộ án sơ thẩm chiếm 9.58%; hủy để xét xử lại chiếm 8,19%; các hình thức giải
quyết khác là 308 vụ.
2. Một số vấn đề cần bàn luận thêm về pháp luật thừa kế.
Một trong những thay đổi lớn so với những quy định về thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam 1945
đến nay là những quy định tại điều 676 và 677 BLDS năm 2005 về người thừa kế theo pháp luật
và thừa kế thế vị. Những quy định tại điều 676 và 677 đã đánh dấu một bước phát triển của quan
điểm lập pháp và trình độ lập pháp của nước ta trong 60 năm qua nhằm tạo ra những chuẩn mực
pháp lý cụ thể, rõ ràng để đảm bảo quyền thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam được
thực hiện một cách triệt để nhất.
Mặc dù bộ Luật dân sự 2005 ra đời đã khắc phục được những thiếu sót của những văn bản quy
định về thừa kế trước đó. Tuy nhiên thì những quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2005 về


thừa kế theo pháp luật vẫn còn một số điều vướng mắc mà cần bàn tới như:
a. Về thừa kế thế vị và hàng thừa kế theo pháp luật.
Theo quy định tại điề 674 BLDS thì: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hành thừa kế, điều
kiện và trình tự thừa kế theo pháp luật quy định”. Theo nguyên tắc phân chia di sản theo trình tự
hàng, người thừa kế ở hàng thứ nhất có quyền hưởng di sản trước tiên so với các hàng thừa kế
sau. Thừa kế theo hàng là thừa kế theo trật tự hàng gần hơn so với loại hàng xa hơn. Thừa kế
hàng mang tính chất trật tự tuyệt đối.
Theo quy định của pháp luật thừa kế, di sản thừa kế được chia theo pháp luật tuân theo trật tự
hàng thừa kế, do vậy khơng thể có trường hợp những người thừa kế thuộc hai hàng khác nhau
cùng được hưởng di sản chia theo pháp luật. Trong trường hợp những người thừa kế tại hàng
thừa kế thứ nhất vẫn còn những người thừa kế tại hàng thứ hai được hưởng di sản. Theo quy định

tại khoản 3 điều 676 BLDS thì: “Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu
khơng cịn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di sản, bị truất quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”. Theo quy định trên thì sự hốn vị thừa kế xảy ra trong
trường hợp đặc biệt sau:
Người lập di chúc đã định đoạt tài sản của mình cho những người khác hưởng một phần tài sản
và truất quyền thừa kế của những người thừa kế ở hàng thừa kế nhất không phải là cha, mẹ, vợ,
chồng, các con chưa thành niên mà truất quyền các con đã thành niên và có khả năng lao động,
do vậy di sản thừa kế của người lập di chúc sau khi chết thì một phần được chia theo di chúc một
phần được chia theo pháp luật cho những người thừ kế ở hàng thứ hai.
Trường hợp thứ nhất, ở hàng thừa kế thứ nhất chỉ còn các con đều đã trưởng thành mà người lập
di chúc đã truất quyền thừa kế của toàn bộ các con nhưng sau đó có một người con đã chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc mà người này có con. Theo hiệu lực pháp luật
của di chúc thì phần di chúc liên quan đến người con đã chết trước hoặc cùng thời điểm với ông,
bà vô hiệu. Phần di sản liên quan đến phần di chúc vô hiệu được chia theo pháp luật phần di sản
tương ứng với phần di sản của người con được hưởng theo pháp luật hay chia toàn bộ di sản của
người để lại di chúc cho cháu của người là ông, bà nội, ngoại có cha, mẹ chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người để lại di chúc là ông, bà nội, ngoại được thừa kế thế vị? Giải quyết vấn
đề đặt ra, cần thiết phải xác định những mối quan hệ sau đây liên quan đến quy định của pháp
luật thừa kế.
Di chúc trong trường hợp này chỉ vô hiệu một phần, phần do chúc liên quan đến người con bị
truất quyền thừa kế nhưng người này lại chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc, tính phần thừa kế theo pháp luật của người đó cịn sống thì hưởng, để cho con của người
này được thừa kế thế vị; phần di sản còn lại được chuyển giao cho những người thừa kế ở hàng
thứ hai được hưởng.
Ví dụ: Ơng A có ba người con là B, C và D đều đã trưởng thành. Ông A chết có để lại di chúc
truốt quyền thừa kế của B, C và D nhưng không chỉ định cho ai khác hưởng di sản. Nhưng anh C
chết cùng thời điểm với ông A do tai nạn giao thông, vào thời điểm này anh C có hai người con
là E và Q. Di sản của ơng A có 360.000.000 đồng. Theo cách lập luận trên thì di sản của ơng A
được thực hiện theo một trong hai cách hiểu rất khác nhau.
+ Cách hiểu thứ nhất: Anh B, C và D đều bị ông A truốt quyền hưởng di sản nhưng anh C đã

chết cùng thời điểm với ông A, phần di chúc liên quan đến C vô hiệu, phần di chúc liên quan đến
B và D có hiệu lực pháp luật. Vậy di sản của ông A được chia như sau: Anh C được 360.000.000
đồng : 3 = 120.000.000 đồng. Do anh C đã chết cung một thời điểm với ông A, các con của anh
C là E và Q được thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 BLDS. Theo đó con của C được
120.000.000 đồng : 2 = 60.000.000 đồng; di sản cịn lại của ơng A được chuyển giao cho nhhững


người thừa kế ở hàng thứ hai được hưởng là: 360.000.000 đồng – 120.000.000 đồng =
240.000.000 đồng.
+ Cách hiểu thứ hai: Ba người con của ông A đều bị truất quyền hưởng di sản nhưng anh C đã
chết cùng thời điểm với ông A, do vậy phần di chúc liên quan đến anh C vơ hiệu và tồn bộ di
sản của ông A được chia theo pháp luật. Do anh C chết cùng thời điểm với ông A, do vậy hai
người con của anh C được thừa kế thế vị. Tại hàng thừa kế thứ nhất của ông A chỉ còn một suất
thừa kế liên quan đến C và các con của anh C được thừa kế thế vị là: E = Q = 360.000.000 đồng :
2 = 180.000.000 đồng.
Cách hiểu thứ hai đúng pháp luật vì vẫn tuân theo nguyên tắc hưởng di sản theo trình tự hàng
thừa kế và khơng thể có hai hàng thừa kế cùng được hưởng di sản. Cách hiểu thứ nhất không
đúng với nguyên tắc phân chia di sản theo pháp luật vì những người thừa kế thuộc hai hàng thừa
kế khác nhau cùng được hưởng di sản. Với hai cách hiểu khác nhau như trên ta có thể thấy được
việc áp dụng pháp luật thừa kế để giải quyết những tình huống cụ thể có những sai sót. Vì vậy
khi giải quyết tình huống phân chia di sản theo pháp luật cụ thể thì việc áp dụng pháp luật phải
thuân theo nguyên tắc hàng thừa kế.
Trường hợp thứ hai, nếu tại hành thừa kế thứ nhất của người để lại di sản chỉ cịn có các con đã
trưởng thành và đều bị người lập di chúc truất quyền thừa kế và người lập di chúc cũng không
định đoạt cho ai khác thừa kế theo di chúc. Các con của người để lại di sản đều đã có con nhưng
họ đều đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc thì trong trường hợp này di
chúc vơ hiệu, theo đó toàn bộ di sản của người chết lại được chia theo pháp luật cho những người
thừa kế là các con của người để lại di sản ở hàng thừa kế thứ nhất được hưởng nếu còn sống, để
cho các cháu được thừa kế thế vị hay di sản của người chết được chia cho những người thừa kế ở
hàng thứ hai? Trong thường hợp này các con của người để lại di sản đều đã trưởng thành và đã

có con, họ đều bị người lập di chúc truất quyền hưởng di sản nhưng họ đều đã chết trước hoặc
chết cùng thời điểm với người lập di chúc, do vậy di chúc vơ hiệu.
Ví dụ: Ơng A có hai người con là B và C. Anh B có con là E và F, anh C có con là Q và K. Ông
A chết cùng thời điểm với B và C có để lại di chúc truất quyền thừa kế của B và C và không chỉ
định cho bất kỳ ai khác hưởng di sản của ơng. Di sản của ơng có 720.000.000 đồng.
Vậy di sản của ông được chia như sau: B = C = 720.000.000 đồng : 2 = 360.000.000 đồng. Do
anh B và C chết cùng thời điểm với ông A. Do vậy con của họ được thừa kế thế vị theo quy định
tại điều 677 BLDS. Theo đó, E = F = 360.000.000 đồng : 2 = 180.000.000 đồng; Q = K =
360.000.000 đồng : 2 = 180.000.000 đồng. Trong trường hợp này di sản của ông A không thể
chuyển giao cho những người thừa kế thuộc hàng thứ hai được vì hiệu lực pháp luật của di chúc
vơ hiệu.
Trường hợp thứ ba, nếu tồn bộ người ở hàng thừa kế thứ nhất đều bị người để lại di sản truất
quyền thừa kế theo di chúc và tại hàng này khơng có cha, mẹ, vợ hoặc chồng của người để lại di
sản. Thì di sản của người chết được chuyển giao cho những người thừa kế ở hàng thứ hai được
hưởng.
Trường hợp thứ tư, người thừ kế tại hàng thừa kế thứ nhất đều đã chết trước người để lại di sản
và trong số họ có người đã có con do vậy di sản của người chết khơng thể chuyển xuống cho
hàng thứ hai được hưởng mà vẫn chia di sản cho hàng thừa kế thứ nhất để có căn cứ xác định
phần di sản của người được hưởng thừa kế thế vị.
Ví dụ: Ơng A có ba người con là anh B, C và chị D. Anh C có hai người con là M và N. Cả ba
người con của ơng đều chết trước ơng. Ơng A qua đời vào tháng 3 năm 2007, không để lại di
chúc. Vậy di sản của ông A được chia như sau: Hàng thừa kế thứ nhất của ơng A có ba người
nhưng đều đã chết trước ông nhưng anh C đã có con, vậy di sản của ơng được chia cho một suất


thừa kế ( là anh C nếu còn sống nếu thừa kế được hưởng) và trong trường hợp này, các con của
anh C đươc thừa kế thế vị.
Theo những nội dung trên, ta có thể nhận thấy pháp luật về thừa kế của nước ta còn nhiều vấn đề
liên quan đề thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc và trường hợp người bị truất quyền
hưởng di sản trong mối liên hệ thừa kế thế vị và trường hợp được chuyển giao cho những người

thừa kế ở hàng thứ hai.
b. Về các hàng thừa kế theo pháp luật dân sự hiện hành.
Về các hàng thừa kế theo quy định tại điều 676 BLDS, còn tồn tại một số vấn đề mà ta cần phải
xem xét sau:
* Thứ nhất, về phạm vi những người thừa kế theo hàng: Nếu xét theo đời từ trên xuống theo
quan hệ huyết thống trực hệ thì có các cụ nội của người để lại di sản là bậc trên và bâc thấp nhất
có các chắt của người để lại di sản. Như vậy, đã có 06 đời theo quan hệ huyết thống thuộc hàng
thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Sáu đời có quan hệ huyết thống trực hệ, nếu xét về
quan hệ huyết thống theo thời gian trung bình của thế hệ này đến thế hệ kia theo cách tính trung
bình khoảng từ mười năm đến hai mươi năm thì tổng số năm của 06 đời thấp nhất là 100 năm và
cao nhất là 120 năm. Cách dự liệu của pháp luật về những người thừa kế theo trình tự hàng là
tương đối hiện thực và phù hợp với quy luật tự nhiên của cuộc sống con người. Theo cách tính
huyết thống bàng hệ thì có chú, bác, cơ, dì, cậu ruột của người để lại di sản; có anh, chị, em của
người để lại di sản và có các con của anh, chị, em ruột của người để lại di sản.
* Thứ hai, xét về cơ cấu người trong một hàng thừa kế.
- Tại hàng thừa kế thứ nhất: Bề trên có cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của người để lại di sản;
ngang bậc có vợ chồng bề dưới có các con đẻ, con nuôi của người chết. Tại hàng thừa kế thứ
nhất gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ với người để lại di sản bề trên và bề dưới;
có quan hệ hơn nhân giữa vợ hoặc chồng của người chết. Những người này có nghĩa vụ chăm
sóc, ni dưỡng nhau và là diện đương nhiên của nhau theo quy định của pháp luật. Xét về bản
chất của pháp luật thừa kế thì những người được quy định tại hàng thừa kế thứ nhất là phù hợp.
Tuy nhiên vợ chồng có quyền thừa kế theo pháp luật của nhau tại hàng thừa kế thứ nhất khơng
hẳn là khơng có những quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng không nên xếp vợ hoặc
chồng của người để lại di sản vào hàng thừa kế thứ nhất của nhau. Vì thừa kế có bản chất là để
lại cho các con, các cháu của người chết được hưởng, còn vợ hoặc chồng của người này đã có
một nửa tài sản với tư cách là đồng sở hữu chung hợp nhất được chia rồi. Tuy vậy, pháp luật quy
định vợ và chồng có quyền thừa kế di sản của nhau nhằm xác định quan hệ bình đẳng của vợ
chồng trong quan hệ nhân thân và tài sản. Địa vị pháp lý của người vợ và người chồng được đặt
ngang với quan hệ huyết thống. Đây là một cuộc cách mạng xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ
và mất bình đẳng trong quan hệ vợ chồng. Dù nhiều quan điểm khác nhau xung quanh việc vợ

chồng có quyền thừa kế di sản tại hàng thừa kế thứ nhất tính đến thời điểm hiện nay là phù hợp.
Vì vợ và chồng có quan hệ hôn nhân, là đại diện đương nhiên của nhau và cịn có nghĩa vụ chăm
sóc, ni dưỡng nhau trong trường hợp một bên khơng có khả năng lao động. Vợ và chồng là
những người có quan hệ thân thiết nhất, theo đó họ có nghĩa vụ theo luật định đối với nhau và có
quyền thừa kế di sản của nhau là hợp lý.
- Tại hàng thừa kế thứ hai, gồm những người có quan hệ huyết thống trực hệ bề trên và bề dưới
với người để lại di sản là ơng, bà nội, ngoại. Những người có quan hệ huyết thống bàng hệ là
anh, chị, em ruột của người để lại di sản.
Theo quy định trên pháp luật đã quan tâm đến về cơ cấu địa vị pháp lý của chủ thể trong quan hệ
thừa kế theo hàng, vì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại được thừa kế của cháu ruột, và ngược
lại cháu ruột được thừa kế của ông bà trong cùng một hàng. Quy định đối xứng như vậy đã làm


rắc rối thêm cho việc giải quyết liên quan đến việc hưởng di sản thừa kế theo hàng thừa kế thứ
hai. Bởi vì, cháu đã được thừa kế thế vị tại điều 677 BLDS, do vậy không nên quy định các cháu
nội, ngoại của người để lại di sản trong hàng thừa kế thứ hai. Nếu quy định như pháp luật hiện
hành thì cháu là một chủ thể được ưu tiên hưởng di sản thừa kế nếu không thừa kế thế vị thì thừa
kế theo hàng khi có đủ các điều kiện nhận di sản theo hàng thừa kế thứ hai hoặc thừa kế thế vị
của ông bà nội, ngoại.
- Tại hàng thừa kế thứ ba, cũng theo phép đối xứng như hàng thừa kế thứ hai các cụ nội, ngoại
được thừa kế theo hàng thừa kế thứ ba của chắt, theo đó chắt cũng được thừa kế thứ ba của người
chết mà người chết là cụ nội, ngoại. Chắt được quy định thừa kế thế vị theo quy định tại điều 677
BLDS, không nên quy định chắt được thừa kế theo hàng thừa kế thứ ba. Bởi vì, theo logic chắt
được hưởng thừa kế thế vị là một cách hưởng di sản theo quy định của pháp luật lợi ích của chắt
được bảo đảm trong quan hệ thừa kế thế vị, là hưởng di sản có điều kiện cha, mẹ chắt chết trước
hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản mà không phải tuân theo nguyên tắc hàng thừa kế.
IV. HƯỚNG HOÀN THIỆN
Việc xét xử các vụ án thừa kế là một loại việc khó và phức tạp, dễ mắc sai sót. Để hạn chế những
thiếu sót đó, trước tiên cần có một hệ thống pháp luật hồn chỉnh, bên cạnh đó là chun mơn
nghiệp vụ và nỗ lực của các thẩm phán. Hiện nay đang thi hành BLDS 2005, các văn bản hướng

dẫn áp dụng pháp luật đối với những quy định mới của BLDS nói chung và thừa kế nói riêng
chưa kịp ban hành là một nguyên nhân gây khó khăn cho hoạt động xét xử của Tịa án. Bên cạnh
đó, cũng có trường hợp do nhận thức của thẩm phán chưa thật sự đúng đắn hoặc do sai sót của
thẩm phán khi giảit quyết vụ án chưa xác định đúng khối di sản thừa kế, xác định sai thời điểm
mở thừa kế, xác định chưa đúng những người thuộc diện và hàng thừa kế. Bởi vậy, việc hoàn
thiện các điều luật về thừa kế theo pháp luật nên chăng dựa trên các tư tưởng chủ đạo sau:
Thứ nhất, cần có những văn bản hướng dẫn thật đầy đủ và cụ thể đối với trường hợp thừa kế thế
vị.
+ Đối với điều 677 BLDS nên cần được sửa đổi, bổ sung như sau:
a. Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại
di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu được hưởng nếu còn sống; nếu
cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản (kể cả cháu chết trước hoặc
cùng thời điểm với ông bà) thì chắt được hưởng phần di sản mà cha mẹ của chắt được hưởng nếu
còn sống. Cứ tuơng tự như vậy, trong trực hệ bề dưới, thế vị đến vơ hạn.
b. Nếu cha mẹ của cháu, chắt khi cịn sống đã bị kết án về một trong các hành vi quy định khoản
1 điều 643 tại Bộ luật này thì cháu chắt vẫn được thừa kế thế vị.
c. Nếu con của ngừời để lại di sản khi còn sống đã từ chối hưởng di sản của bố mẹ hoặc bị bố,
mẹ truất quyền hưởng di sản thì cháu, chắt không được thừa kế thế vị.
+ Đối với thừa kế thế vị của con nuôi, theo tôi pháp luật nên quy định như sau:
a. Trường hợp người nhận nuôi con nuôi chết trước hoặc cùng thời điểm với cha mẹ đẻ của họ
thì người con ni của họ khơng được thừa kế thế vị.
b. Nếu người con nuôi chết trước hoặc cùng thời điểm với cha ni, mẹ ni thì người con đẻ
của người con nuôi không được thừa kế thế vị.
+ Đối với thừa kế thế vị của con riêng của cha kế, mẹ kế. Pháp luật nên làm sang tỏ khái niệm “
nuôi dưỡng” và khái niệm “ chăm sóc, ni dưỡng như cha con, mẹ con” để góp phần bảo vệ tốt
hơn nữa các về mặt nhân thân cũng như tài sản của công dân.
+ thừa kế thế vị của con sinh ra theo phương pháp khoa học. Ta thấy hiện nay có rất nhiều
trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học, nếu thế thì họ sẽ được thừa kế thế vị như thế



nào? Ví dụ: khi người vợ thực hiện sinh con theo phương pháp khoa học mà không phải tinh
trùng của người chồng mà là tinh trùng của người khác nhưng người chồng khơng thừa nhận đó
là con chung của vợ chồng mà đó là con chung của người vợ. Vậy thì người con sẽ hưởng thừa
kế như thế nào? Điều này liên quan trực tiếp vấn đề về xác định người thừa kế thuộc hàng thừa
kế thứ nhất, cụ thể là xác định cha đẻ, mẹ đẻ và con đẻ. Vì thế, pháp luật cũng cần sớm điều
chỉnh cụ thể vấn đề trên, từ đó làm cở sở giải quyết quyền lợi mọi mặt của những người liên
quan, trong đó có quyền thừa kế.
Thứ hai, về hàng thừa kế. Nên cấu trúc lại Điều 676 về người thừa kế theo pháp luật. Nên chia
hàng thứ hai thành hai hàng ( hàng 2 và hàng 3) :
• Hàng thứ nhất gồm: Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con ni của người chết.
• Hàng thứ hai gồm: Cháu gọi người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
• Hàng thừa kế thứ ba gồm: Ơng nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị, em ruột của người
chêt.
• Hàng thứ tư: cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột cảu
người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì
ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Quyền để lại thừa kế và quyền hưởng thừa kế là những quyền cơ bản của công dân, được Nhà
nước và pháp luật bảo hộ. Xã hội càng phát triển, vấn đề thừa kế càng trở nên đa dạng, sống
động và phức tạp. Những tranh chấp thừa kế là tranh chấp dân sự thương đối phổ biến hiện nay
và ngày càng có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt là những tranh chấp có liên quan đến di sản là
quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà là phổ biến và rất phức tạp. Những tranh chấp này đòi
hỏi tòa án nhân dân các cấp giải quyết đúng pháp luật và triệt để đảm bảo cơng bằng xã hội, góp
phần ổn định các quan hệ gia đình, dịng tộc, an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội. Do vậy,
các luật gia cần phải ngiên cứu thật kỹ để giải quyết những vấn đề liên quan đến thừa kế. Bên
cạnh đó cần phải điều chỉnh những quy định của pháp luật về thừa kế để tránh xảy ra tranh chấp
và bảo vệ quyền lợi của công dân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb: Giáo dục, năm
2009.
2. Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam. Nxb Hà Nội, 2008.
3. Phạm Văn Tuyết, Thừa kế - quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, Nxb Chính Trị quốc
Gia, Hà Nội – 2007.
4. Nguyễn Đức Bền – “ thừa kế của cháu, chắt theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Luận văn
thạc sĩ luật học năm 2009.


5. Phan Thị Kim Chi – “ diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự năm 2005”.
Luật văn thac sĩ luật học – Trường đại học Luật – năm 2006.
6. Nguyến Ngọc Thiện, Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ Tp. Hồ
Chí Minh – 2001.
7. Bộ Luật Dân sự năm 2005.
8. Luật Hơn nhân và gia đình.
9. Trang web: /> />


×