Tìm hiểu các hoạt động can thiệp của Ngân hàng nhà nước đối với thị trường
tiền tệ...
“Tìm hiểu các hoạt động can thiệp của Ngân hàng nhà nước đối với thị trường tiền
tệ hiện nay và cơ sở pháp lý cho sự can thiệp này”
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ
1. Thị trường tiền tệ
1.1. Khái niệm thị trường tiền tệ:
Thị trường tiền tệ được biết đến là thị trường vốn ngắn hạn, nơi diễn ra các hoạt
động của cung và cầu về vốn ngắn hạn bao gồm cả trái phiếu ngắn hạn, có kỳ hạn
tức là mua bán những món nợ ngắn hạn rủi ro thấp, tính thanh khoản cao. Thị
trường tiền tệ là thị trường phi tập trung tại các phịng kinh doanh của các ngân
hàng và các cơng cụ kinh doanh đầu tư chuyên nghiệp thông qua mạng lưới điện
thoại, internet rộng lớn. Các nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ là nghiệp vụ chuyển
giao vốn có khả năng thanh tốn cao, ít xảy ra rủi ro đối với người đầu tư.
1.2 Các yếu tố cấu thành thị trường tiền tệ:
Có thể thấy rằng, thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay đã có các bộ phận cấu thành
của thị trường đã hình thành ở một mức độ nhất định. Đó chính là thị trường nội tệ
và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc, các hoạt động
nghiệp vụ tiền tệ của NHNN như nghiệp vụ cho vay của NHNN dưới các hình thức
cho vay cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở,
nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ…thành viên tham gia thị trường, hàng hoá giao dịch
trên thị trường cũng như doanh số hoạt động của các nghiệp vụ thị trường tiền tệ
đều được từng bước mở rộng: hoạt động của thị trường đã từng bước được hiện đại
hoá, đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Trước hết, cần phải kể đến thị trường nội tệ
và ngoại tệ liên ngân hàng, nơi thực hiện hiện việc điều tiết vốn ngắn hạn bằng
đồng Việt Nam và ngoại tệ giữa các ngân hàng.
Thị trường nội tệ liên ngân hàng được hình thành từ năm 1993 dưới hình thức ban
đầu là một thị trường tập trung, có tổ chức qua Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, từ
năm 1997, hoạt động của thị trường diễn ra theo hình thức các ngân hàng trực tiếp
vay mượn lẫn nhau không thực hiện thơng qua Ngân hàng Nhà nước. Nhìn chung,
các ngân hàng thường có quan hệ với nhau đã dựa trên mức độ tín nhiệm để thoả
thuận phương thức giao dịch, thời hạn, lãi suất cũng như các điều kiện đảm bảo
tiền vay. Đến nay, phần lớn các giao dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các
hình thức tín chấp, bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay…
thậm chí một số ngân hàng đã thực hiện quan hệ vay mượn dưới hình thức gửi tiền
lẫn nhau. Do vậy, doanh số hoạt động trên thị trường đã tăng đáng kể, phương thức
giao dịch của thị trường ngày càng đổi mới, hầu hết các giao dịch đều thực hiện
qua mạng.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: Từ khi chính thức hình thành năm 1994 đến
nay, thị trường đã có những chuyển động đáng kể, đóng vai trị người mua bán
cuối cùng. Ngân hàng Nhà nước thực hiện can thiệp thị trường khi cần thiết nhằm
thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Từ năm 1999 đến nay, bên
cạnh việc điều hành linh hoạt tỷ giá, việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện các biện
pháp can thiệp kịp thời trên thị trường đã hỗ trợ cho các ngân hàng cân đối ngoại tệ
và đặc biệt là góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối của Nhà nước.
2. Cơ sở kinh tế - xã hội tác động đến hoạt động của ngân hàng nhà nước đối với
thị trường tiền tệ.
2.1. Cơ sở kinh tế:
Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách kinh tế tài chính quốc gia. Trong hệ thống chính sách kinh tế - tài chính, ngồi chính sách
tiền tệ quốc gia cịn có nhiều chính sách khác như chính sách tài khóa, chính sách
thuế, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách thu nhập,… Các chính sách vĩ mơ
này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và mỗi chính sách đều có vị trí và vai trị
riêng của nó. Trong đó, chính sách tiền tệ quốc gia có vai trị hết sức to lớn nhằm
điều hịa, kiểm sốt lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Để đạt được các mục tiêu
kinh tế vĩ mô đã hoạch định trong một thời kỳ nhất định, Chính phủ cần phải phối
kết hợp sử dụng nhiều chính sách trong đó có chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân
hàng trung ương là người hoạch định và vận hành chính sách tiền tệ quốc gia. Do
chính sách tiền tệ ln hướng vào việc thay đổi lượng tiền cung ứng cho nền kinh
tế nên chủ thể nào thực hiện chức năng phát hành tiền và điều hịa lưu thong tiền tệ
thì chủ thể đó phải trực tiếp vạch ra và thực hiện chính sách tiền tệ. Theo quy định
của luật Ngân hàng nhà nước, mặc dù thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ là
Quốc hội nhưng Ngân hàng nhà nước Việt nam với tư cách là ngân hàng trung
ương có trách nhiệm xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để xem xét trình
Quốc hội và ngân hàng nhà nước là cơ quan trực tiếp tổ chức thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia sau khi đã được Quốc hội phê duyệt. Mục tiêu tổng quát của chính
sách tiền tệ quốc gia là ổn định giá trị đồng tiền (bao gồm ổn định sức mua đối nội
và sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia, nó được thể hiện qua việc kiểm soát
lạm phát và ổn định tỉ giá hối đối) và góp phần thực hiện một số mục tiêu kinh tế
vĩ mô khác như: tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm,… Trong bất kì một nước
nào thì hệ thống tài chính – ngân hàng đều được coi là hệ thần kinh của cơ thể sống
là nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên mỗi nền kinh tế đều có những đặc điểm riêng
của mình, phụ thuộc vào chế độ chính trị và chính sách kinh tế theo từng thời kì.
Ngồi ra cịn một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động can thiệp của ngân hàng đó
là:
- Thực hiện chính sách cam kết mở cửa, chính phủ cho phép các tổ chức tín dụng
nước ngồi hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng với những hình thức và cách thức
đa dạng. Với những cam kết này đặt ra cho hệ thống pháp luật việt Nam nhiều
nhiệm vụ cùng với trách nhiệm quản lý và quyền hạn của ngân hàng nhà nước
trong các hoạt động như tiền tệ, tài chính…
- Đối với Thị trường tiền tệ số lượng tổ chức tín dụng cung ứng dịch vụ trên thị
trường còn hạn hẹp.
- Nhu cầu mở rộng phạm vi, hình thức kinh doanh, nhu cầu về vốn trong kinh
doanh của các ngân hàng ngày càng gia tăng là một trong những yêu cầu thực tế
của bất kì chủ thể kinh doanh nào khi thị trường phát triển
2.2. Cơ sở xã hội:
Ngân hàng trung ương ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của q trình hoạt động
tín dụng và sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế hàng hóa. Chính trị có vững
mạnh hay khơng dựa vào ngân hàng trung ương có vai trò và ảnh hưởng quan
trọng đối với sự thịnh vượng hay suy thoái của nền kinh tế. Nhà kinh tế học người
Mỹ P.Samuelson đã cho rằng: Ngân hàng trung ương là một trong ba phát minh vĩ
đại nhất với lịch sử phát triển của xã hội loài người bên cạnh lửa và bánh xe. Ngân
hàng trung ương chịu trách nhiệm cung ứng tiền vào lưu thơng và điều hịa lưu
thơng tiền tệ quốc gia. Với vai trị này, thơng qua các nghiệp vụ đặc thù riêng của
mình như nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái cấp vốn hay nghiệp vụ ngoại hối,
Ngân hàng trung ương thực hiện cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế
(nghiệp vụ phát hành tiền) đưa thêm tiền vào lưu thông hoặc rút tiền khỏi lưu
thông theo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kì (nghiệp vụ điều
hịa lưu thơng tiền tệ trong q trình thực thi chính sách tiền tệ quốc gia) nhằm
điều chỉnh tốc độ tăng trưởng và xu hướng phát triển của nền kinh tế đất nước
trong từng giai đoạn lịch sử. Ngân hàng trung ương bảo đảm sự vận hành an toàn,
hiệu quả của hệ thống ngân hành trong nền kinh tế thông qua việc thực hiện chức
năng quản lí, giám sát đối với hoạt động ngân hàng. Với chức năng quản lí nhà
nước đối với hệ thống tiền tệ, ngân hàng nhà nước khơng chỉ giữ cho hệ thống tổ
chức tín dụng hoạt động an tồn, có hiệu quả mà cịn đảm bảo sự ổn định xã hội.
Mặt khác do chức năng đặc thù của mình, Ngân hàng trung ương có vai trò quan
trọng trong việc hoạch định và tổ chức thực thi các chương trình, kế hoạch hay
chính sách phát triển kinh tế xã hội đất nước như chính sách tài chính – ngân hàng,
chính sách phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là chính sách tiền tệ quốc gia.
3. Hệ thống các văn bản pháp luật:
Hệ thống văn bản pháp luật có một vai trị rất quan trọng đối với sự vận hành và
phát triển của thị trường tài chính - ngân hàng. Hệ thống pháp luật này gồm luật và
các văn bản dưới luật. Nếu khuôn khổ pháp lý cịn có những bất cập thiếu đồng bộ
sẽ cản trở sự phát triển và tính hiệu quả của thị trường tiền tệ và ngược lại, nếu hệ
thống văn bản pháp luật đồng bộ, hợp lý sẽ góp phần tạo hành lang pháp lý để
Ngân hàng trung ương tiến hành chính sách tiền tệ hiệu quả. Hoạt động can thiệp
của Ngân hàng nhà nước đối với thị trường tiền tệ được thể hiện:
1. Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010 tại: Điều 2, Điều 3, khoản 6 Điều
4, Điều 11, Điều 12, Điều 24.
2.Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 08/2005/TT-NHNN ngày 30/12/2005 của
Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày
13/8/2001 về tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân và Nghị định số
69/2005/NĐ-CP ngày 26/5/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số
Điều của Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày 13/8/2001 của Chính phủ về tổ chức
và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân
3.Quyết định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước số 127/2005/QĐ-NHNN ngày
3/2/2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày
31/12/2001. Điều 1
4. Quyết định Số 351/2004/QĐ-NHNN ngày 07/04/2004 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế về môi giới tiền tệ. Tại Điều 6. Cơ quan
cấp Giấy phép hoạt động môi giới: “Ngân hàng Nhà nước (Vụ Các Ngân hàng
hoặc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố) cấp và thu hồi Giấy phép
hoạt động môi giới (sau đây gọi tắt là Giấy phép)”
5. Quyết định Số 923/QĐ-NHNN ngày 20/7/2004 của Thống đốc NHNN về lãi
suất tiền gửi dự trữ bắt buộc đối với các TCTD.
6. Thông tư số 02/2009/TT-NHNN Quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất
cho các tổ chức và cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất - kinh doanh.
7. Thông tư số 21/2009/TT-NHNN Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số
05/2009/TT-NHNN ngày 7/4/2009 của Ngân hàng Nhà nước Việt Namquy định
chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài
hạn ngân hàng thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất - kinh doanh.
8. Công văn 1436/NHNN-CSTT - Hướng dẫn cụ thể một số điểm về cơ chế hỗ trợ
lãi suất.
II. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ
TRƯỜNG TIỀN TỆ HIỆN NAY
1. Hoạt động của Ngân hàng nhà nước can thiệp vào thị trường tiền tệ với vai trò là
chủ tịch của thị trường
Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, luân chuyển vốn linh hoạt, tuy nhiên,
chính từ sự linh hoạt này làm sự kiểm soát nguồn vốn ở đây trở nên khó khăn.
Chính vì vậy, với vai trị như chủ tịch thị trường tiền tệ, ngân hàng nhà nước đã chỉ
đạo, phối hợp với các ngân hàng trung gian để quản lý nguồn vốn này.
1.1. Điều hành thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
Trước hết phải kể đến hoạt động điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Hoạt động
của ngân hàng liên quan đến sự ổn định hay thay đổi của tiền tệ về lưu lượng, chi
phí và giá trị. Vì những thay đổi nói trên tác động đến giá cả hàng hóa và giá trị tài
sản, thu nhập của nhân dân. Do tiền không tự nó sinh ra mà cũng khơng tự nó biến
đi, mọi thay đổi của nó đều do bàn tay của hệ thống tạo ra nó là ngân hàng trong
cái mà chúng ta gọi là “chính sách tiền tệ”. Tất cả các ngân hàng nhà nước của các
quốc gia trên thế giới hiện nay đều có những mục tiêu khá giống nhau trong việc
thiết kế chính sách tiền tề và điều tiết cung ứng, quản lý tiền tệ. Mục tiêu này
hướng tới sự ổn định và tăng cường khả năng khai thác, sáng tạo của nền kinh tế.
Chính điều này đã đặt ra sự cần thiết của việc quản lý tiền tề từ các ngân hàng
trung ương. Việc quản lý của ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ yếu diễn ra trong
hoạt động tăng hoặc giảm cung tiền, tức là hoạt động điều tiết phát hành tiền phù
hợp với yêu cầu của xã hội. Để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia hiệu quả,
Ngân hàng Nhà nước sẽ kết hợp linh hoạt các cơng cụ, đó là: tái cấp vốn, lãi suất,
dự trữ bắt buộc, tỷ giá hối đoái, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác. Việc
sử dụng linh hoạt các công cụ trên sẽ giúp Ngân hàng Nhà nước kiểm soát được thị
trường tiền tệ.
Thực tế đã cho thấy, ngay từ đầu năm 2011, thực hiện Kế hoạch triển khai của
ngành Ngân hàng nhằm thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 9/01/2011 của
Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2011, Ngân hàng Nhà
nước đã có những điều chỉnh trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm chủ động
kiểm sốt lạm phát và bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ. Cụ thể:
- Điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán
điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ, lãi
suất kỳ hạn 7 ngày trên nghiệp vụ thị trường mở từ mức 9%/năm lên mức
11%/năm.
- Điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ (nghiệp vụ thị trường mở, tái
cấp vốn, hoán đổi ngoại tệ) nhằm hỗ trợ vốn thanh tốn cho các tổ chức tín dụng,
đáp ứng khả năng chi trả trong dịp Tết Nguyên đán Tân Mão.
- Điều chỉnh tăng 9,3% tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ mức 18.932 lên mức
20.693 VND/USD áp dụng tại ngày 11/02/2011 và thu hẹp biên độ ấn định tỷ giá
giao dịch của các tổ chức tín dụng so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ ± 3%
xuống ± 1%.
- Chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố phối hợp với các cơ quan
chức năng triển khai các đợt kiểm tra và đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành
phố phối hợp chỉ đạo việc kiểm tra, xử lý các trường hợp đầu cơ, găm giữ, kinh
doanh trái pháp luật vàng, ngoại tệ làm rối loạn thị trường.
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về những giải
pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh
xã hội, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp điều
hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng nhằm kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng
tưởng tổng phương tiện thanh tốn, dư nợ tín dụng, chuyển dịch cơ cấu tín dụng và
đảm bảo khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Cụ thể:
- Yêu cầu các tổ chức tín dụng xây dựng và thực hiện nghiêm túc kế hoạch tăng
trưởng tín dụng dưới 20% trong suốt cả năm 2011; tập trung vốn tín dụng cho lĩnh
vực phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp
hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực
phi sản xuất trong tổng dư nợ xuống mức 22% đến 30/6/2011 và 16% đến
31/12/2011. Ngân hàng Nhà nước xử lý nghiêm những trường hợp tổ chức tín
dụng xây dựng và thực hiện tốc độ tăng trưởng tín dụng trên 20% trong năm 2011.
- Từng bước điều chỉnh tăng các mức lãi suất điều hành; trong đó, lãi suất tái cấp
vốn và lãi suất cho vay qua đêm được điều chỉnh tăng dần từ mức 11%/năm lên
mức 14%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng dần từ mức 7%/năm lên 13%/năm, lãi
suất nghiệp vụ thị trường mở từ mức 11%/năm lên mức 15%/năm. Điều chỉnh tăng
dần tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng
(tăng 2% kể từ kỳ dự trữ bắt buộc tháng 5/2011 và tăng 1% kể từ kỳ dự trữ bắt
buộc tháng 6/2011).
- Điều hành lượng tiền cung ứng, nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với nhu cầu
của thị trường tiền tệ .
- Ban hành mới và sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách cho phù hợp với
mục tiêu ổn định thị trường tiền tệ và điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận
trọng của Ngân hàng Nhà nước, như: Quy định lãi suất huy động tối đa bằng VND
và ngoại tệ của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng; quy định tổ chức tín dụng
áp dụng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn đối với tổ chức, cá nhân rút tiền gửi trước
hạn; quy định về thu phí trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng; thu hẹp
đối tượng cho vay bằng ngoại tệ của các tổ chức dụng...
1.2. Điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối
Điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối là các hoạt động có vai trị quan trọng trong
công cuộc quản lý thị trường tiền tệ. Điều hành tỷ giá tức là sự điều chỉnh tỷ giá
tiền quốc gia so với ngoại tệ, tức là sự chênh lệch giữa đồng Việt Nam với tiền
nước ngoài. Sự điều chỉnh của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thể hiện ở việc sẽ
giảm tỷ giá hoặc tăng tỷ giá để thúc đẩy sự thu mua ngoại tệ, hoặc tranh sự tích lũy
ngoại tệ trong nước. Ngoại hối là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có
giá trị dùng để thanh toán giữa các quốc gia. Việc quản lý ngoại hối sẽ tạo sự cân
bằng giá trị tiền khi tham gia thương mại với nước ngoài. Tức là sự chênh lệch về
tỷ giá cũng như giá trị tiền trong các lần thương mại là ít, tạo sự ổn định đồng Việt
Nam trên thị trường quốc tế.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt là chỉ đạo tại
Nghị quyết 11/NQ-CP và Thông báo số 84/TB-VPCP ngày 13/4/2011 về quản lý
ngoại tệ và hoạt động kinh doanh vàng, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai đồng bộ
các giải pháp quản lí vàng và ngoại tệ:
- Phối hợp với các bộ, ngành có liên quan tổ chức các đợt kiểm tra và xử lý nghiêm
các trường hợp mua – bán, kinh doanh ngoại tệ, vàng trái pháp luật. Trình Thủ
tướng Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo hướng bổ sung và nâng mức xử phạt đối
với các hành vi vi phạm quy định về quản lý ngoại tệ và vàng. Yêu cầu Ngân hàng
Nhà nước các chi nhánh tỉnh, thành phố rà soát, kiểm tra và thu hồi Giấy chứng
nhận đăng ký Đại lý đổi ngoại tệ đối với các Đại lý khơng có địa điểm đặt bàn đổi
ngoại tệ theo đúng quy định và các Đại lý vi phạm các quy định về hoạt động đổi
ngoại tệ.
- Ban hành quy định chấm dứt huy động và cho vay bằng vàng của tổ chức tín
dụng. Ban hành mới quy định về việc mua bán ngoại tệ của Tập đồn kinh tế, tổng
cơng ty nhà nước theo hướng mở rộng đối tượng thực hiện gồm các Tập đoàn kinh
tế, Tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp thành viên là doanh nghiệp nhà
nước.
- Chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động hồn thiện quy định nội bộ và áp dụng các
biện pháp phòng ngừa rủi ro cần thiết trong kinh doanh ngoại tệ; Tiếp tục thực hiện
các biện pháp kiểm soát, hạn chế cho vay, thanh toán ngoại tệ nhập khẩu hàng hóa
khơng thiết yếu, hàng hóa khơng khuyến khích nhập khẩu; tăng cường hoạt động
mở thẻ thanh toán quốc tế để đáp ứng nhu cầu chi tiêu ở nước ngoài của người dân
và chủ động bán ngoại tệ tiền mặt để đáp ứng các nhu cầu hợp pháp của người dân
theo các quy định của pháp luật.
- Tập trung xây dựng, hoàn thiện nhiều dự thảo văn bản có liên quan, như: dự thảo
Nghị định mới về quản lý hoạt động kinh doanh vàng; Thông tư mới về mức ngoại
tệ tiền mặt tối đa người cư trú được phép mang ra nước ngồi khơng phải khai báo
hải quan; Thông tư quy định về hoạt động thanh tốn, niêm yết, quảng cáo bằng
ngoại tệ; Thơng tư quy định việc mua, bán ngoại tệ tiền mặt của tổ chức tín dụng
cho cá nhân; Nghị định về quản lý vay, trả nợ nước ngồi khơng có bảo lãnh của
Chính phủ; Quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép
hoạt động ngoại hối...
1.3. Hoạt động thanh tra, giám sát
Hoạt động thanh tra giám sát của ngân hàng nhà nước cũng thúc đẩy sự ổn định
của thị trường tiền tề. Ban hành các văn bản pháp luật sẽ tại một hành lang pháp lý
ổn định cho mọi hoạt động của thị trường tiền tệ, đây cũng là một chuẩn mực pháp
lý để các tổ chức tín dụng hoạt động, điều tiết nguồn vốn của mình phù hợp với sự
vận động của thị trường và phù hợp với ý chí của cấp lãnh đạo. Ban hành văn bản
pháp luật phải luôn đi kèm với hoạt đồng giám sát. Sự giám sát thúc đẩy sự thực
hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, kịp thời phát hiện những sai sót,
khắc phục, sửa chữa kịp thời những sai sót đó, từ đó tạo ra những chính sách tiền
tệ, chính sách tài chính phù hợp.
Về hoạt động này ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tăng cường trong việc thực
hiện. Hai quý đầu năm 2011, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai thực hiện:
- Nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của toàn hệ thống, Ngân hàng Nhà nước đã yêu
cầu các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay và cơ cấu lại thời hạn trả nợ, phân loại
tín dụng, trích lập dự phịng rủi ro và sử dụng dự phịng để xử lý rủi ro tín dụng
theo đúng quy định của pháp luật. Không được thực hiện các biện pháp nhằm che
giấu nợ xấu; thực hiện việc kiểm toán nội bộ, kiểm soát, đánh giá thực hiện quy
định của pháp luật và quy định nội bộ về tín dụng, phát hiện và có biện pháp xử lý
kịp thời nguy cơ rủi ro tín dụng.
- Chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố nghiêm túc chấp hành
các quy định về phát triển mạng lưới của các Tổ chức tín dụng năm 2011, theo
hướng: Tạm thời ngừng xem xét đề nghị mở phòng giao dịch của tổ chức tín dụng
kể từ ngày 25/2/2011; Cho phép các ngân hàng thương mại và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài được mở ATM theo quy định.
- Tập trung thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ
và Chỉ thị 01/CT-NHNN của các tổ chức tín dụng. Đến nay, Ngân hàng Nhà nước
đã hoàn thành việc thanh tra lĩnh vực phi sản xuất tại 7 tổ chức tín dụng và 170 chi
nhánh tổ chức tín dụng trên toàn quốc; đã làm việc với hơn 20 ngân hàng thương
mại cổ phần về việc triển khai thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP và Chỉ thị 01/CTNHNN.
2. Hoạt động của Ngân hàng nhà nước can thiệp vào thị trường tiền tệ với tư cách
là Ngân hàng của các Tổ chức tín dụng
Bên cạnh chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại
hối, thì Ngân hàng nhà nước còn thực hiện chức năng của Ngân hàng trung ương
về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ
cho Chính phủ. Để đảm bảo được chức năng này, ngân hàng nhà nước cần thực
hiện các hoạt động can thiệp vào thị trường tiền tệ, bởi việc phát hành tiền của
ngân hàng trung ương đã tác động trực tiếp đến tình hình lưu thơng tiền tệ của đất
nước, vậy nên ngân hàng trung ương cần phải kiểm soát khối lượng tiền cung ứng,
quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng, thực hiện chính sách tiền tệ, bảo đảm ổn
định giá trị đồng tiền VND. Với chức năng là ngân hàng trung ương, ngân hàng
nhà nước thực hiện một số hoạt động vào thị trường tiền tệ sau:
2.1. Hoạt động tín dụng.
Ngân hàng nhà nước đóng vai trị là ngân hàng của các tổ chức tín dụng, như vậy,
ngân hàng nhà nước được xem xét như là một thành viên tham gia vào thị trường
tiền tệ với tư cách là ngân hàng cuối cùng, cung ứng vốn và các phương tiện thanh
tốn cho các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên hoạt động cấp tín dụng của NHNN khác
với hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng, bởi vì mục đích chính của NHNN
là thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn cho hệ thống tín dụng nên
hoạt động tín dụng của nhà nước chỉ gồm ba hình thức là hoạt động bảo lãnh, hoạt
động cho vay và tạm ứng ngân sách nhà nước.
Khi có chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ thì ngân hàng nhà nước sẽ bảo lãnh để các
tổ chức tín dụng được vay vốn nước ngoài. Trong thời gian gần đây, nhằm thực
hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về định hướng quản lý chặt chẽ hoạt động
vay nước ngồi của các Tập đồn, Tổng cơng ty Nhà nước tại Chỉ thị 1568/CTTTg ngày 19/8/2010 về việc triển khai thực hiện Kết luận số 78-KL/TW ngày
26/07/2010 của Bộ Chính trị, thì Ngân hàng nhà nước vừa ban hành Thông tư số
18/2011/TT-NHNN hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với việc vay trung, dài hạn
nước ngoài của các ngân hàng thương mại là doanh nghiệp nhà nước.Theo đó, các
ngân hàng thương mại nhà nước chỉ được ký thỏa thuận vay trung, dài hạn nước
ngồi sau khi có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước đối với
việc thực hiện khoản vay.
Bên cạnh đó, ngân hàng nhà nước cũng thực hiện cấp tín dụng ngắn hạn cho các tổ
chức tín dụng nhằm bảo đảm cho nền kinh tế đủ phương tiện thanh toán cần thiết
trong từng thời kỳ nhất định. Mặt khác, thông qua việc cấp vốn và lãi suất tín dụng
để điều tiết lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế theo yêu cầu của chính sách tiền
tệ.Trong q trình hoạt động tín dụng của mình, các ngân hàng thương mại và các
tổ chức tín dụng sử dụng vốn tập trung, huy động được để cho vay đối với nền
kinh tế. Khi xuất hiện nhu cầu tiền làm phương tiện thanh toán nhưng lượng tiền
mặt trong quỹ không đủ khả năng chi trả, các tổ chức tín dụng này được ngân hàng
nhà nước cấp tín dụng theo những điều kiện nhất định, phù hợp yêu cầu chính sách
tiền tệ. Như vậy, về thực chất là ngân hàng nhà nước thực hiện cung ứng tiền tệ
theo nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế, thông qua việc tái cấp vốn cho các tổ chức tín
dụng bằng nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng giấy tờ có giá và chiết khấu giấy tờ
có giá. Trong tình trạng chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng trong thời gian gần
đây, để kéo lãi suất cho vay về 18%/năm và lãi suất huy động ở 14%, Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) có chính sách điều hịa lượng cung tiền phù hợp, ngân hàng
nhà nước sẽ tái cấp vốn cho 10 ngân hàng nhỏ thiếu thanh khoản với những điều
kiện ngặt nghèo và hoạt động trong kiểm soát, đảm bảo khơng tái diễn tình trạng
chạy đua huy động tiền gửi lãi suất cao gây rối loạn thị trường.
Ngoài ra, trong trường hợp ngân sách nhà nước bị thiếu hụt tạm thời dẫn đến bội
chi ngân sách nhà nước thì Ngân hàng nhà nước sẽ tạm ứng cho ngân sách nhà
nước theo quyết định của Thủ tướng, và khoản tiền tạm ứng cho ngân sách nhà
nước sẽ được hoàn trả trong năm ngân sách ( từ 1/1 đến 31/12).
2.2. Hoạt động điều hành thị trường tiền tệ, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở.
Như phân tích ở hoạt động tín dụng, cùng với việc cho các tổ chức tín dụng vay
tiền, tạm ứng cho ngân sách nhà nước thì ngân hàng nhà nước đã cung ứng ra thị
trường một khoản tiền lưu thơng lớn, dẫn đến tình trạng lạm phát và ảnh hưởng
đến chính sách tiền tệ quốc gia. Vì vậy, song song với hoạt động cấp tín dụng trên,
ngân hàng nhà nước cũng phải điều hành công cụ thực hiện chính sách tiền tệ: tái
cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở sao
cho hợp lý nhất, như việc đưa tiền ra lưu thông, rút tiền từ lưu thông về theo tín
hiệu của thị trường trong phạm vi lượng tiền cung ứng đã được Chính phủ phê
duyệt, qua đó, có cách điều chỉnh kịp thời, nếu như thị trường lạm phát tăng cao sẽ
thực hiện thắt chặt tiền tệ và sẽ nới lỏng khi cần thiết. Những tháng đầu năm 2011,
để đối phó tình trạng lạm phát tăng cao, mà căn nguyên của lạm phát trong thời
gian qua ở Việt Nam chủ yếu vẫn là yếu tố tiền tệ, nên ngân hàng nhà nước đã thực
hiện chính sách thắt chặt tiền tệ mà cụ thể là sử dụng công cụ tăng lãi suất cho vay
lên 18 – 19%/ năm đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, thắt chặt tiền tệ không
phải là giải pháp có thể sử dụng lâu dài, vì vậy, ngân hàng nhà nước cần nắm bắt
nhịp độ của thị trường các tháng cuối năm để đưa ra chính sách tiền tệ thích hợp,
có thể thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ khi cần thiết.
2.3. Hoạt động mở tài khoản, thanh toán và ngân quỹ .
Là ngân hàng trung ương của đất nước, ngân hàng nhà nước mở các tài khoản ở
các ngân hàng nước ngoài, tổ chức tiền tệ, ngân hàng quốc tế, để thực hiện các hoạt
động ngân hàng đối ngoại. Trong nước, ngân hàng nhà nước mở và quản lý tài
khoản, thực hiện các giao dịch cho các tổ chức tín dụng trong nước, kho bạc nhà
nước. Để đảm bảo hoạt động kinh doanh của mình, các ngân hàng và các tổ chức
tín dụng đều phải mở tài khoản tiền gửi và gửi tiền vào ngân hàng nhà nước, bao
gồm có tiền gửi thanh tốn, nhằm đảm bảo nhu cầu chi trả cho thanh toán giữa các
ngân hàng và cho khách hàng; và tiền gửi dự trữ bắt buộc, mức tiền dự trữ này
được ngân hàng nhà nước quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền
gửi của khách hàng. Đây là một công cụ của ngân hàng nhà nước trong việc thực
thi chính sách tiền tệ, do vây, dữ trữ bắt buộc này sẽ thay đổi theo yêu cầu của
chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
2.4 Ngân hàng nhà nước tổ chức hệ thống thông tin và làm dịch vụ thơng tin ngân
hàng.
Ngân hàng nhà nước có nhiệm vụ tổ chức hệ thống thống kê, dự báo về tiền tệ và
ngân hàng; công khai thông tin về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp
luật, tổ chức hệ thống thơng tin tín dụng và cung ứng dịch vụ thơng tin tín dụng;
thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt động thông tin tín
dụng. Bên cạnh đó, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về tiền tệ và ngân hàng;
nghiên cứu, ứng dụng khoa học và cơng nghệ ngân hàng. Với tình hình lạm phát
tăng cao, thị trường tiền tệ bất ổn, luôn thay đổi, ngân hàng nhà nước cần tăng
cường và nâng cao chất lượng thông tin tuyên truyền nhằm tạo sự nhận thức sâu
rộng, kịp thời và đồng thuận trong tồn xã hội về các giải pháp điều hành chính
sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong năm 2011, góp phần triển khai có hiệu
quả các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội
của Chính phủ.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP BÌNH ỔN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ CỦA NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Thực trạng về thị trường tiền tệ hiện nay
Với các hoạt động chỉ đạo, điều hành phù hợp, đồng bộ, tình hình tiền tệ, và hoạt
động ngân hàng cơ bản phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô. Một số kết quả nổi bật cụ thể trong 6 tháng đầu năm 2011 như sau:
- Tổng phương tiện thanh tốn: Tính đến ngày 10/6/2011, tổng phương tiện thanh
toán tăng 2,33 so với cuối năm 2010
- Về huy động vốn: Tính đến ngày 10/6/2011 tăng 2,37%, trong đó huy động vốn
bằng VND tăng 1,15%, huy động vốn bằng ngoại tệ tăng 8,89%.
- Về dư nợ tín dụng: Tính đến ngày 10/6/2011, tín dụng đối với nền kinh tế tăng
7,05%, trong đó tín dụng VND tăng 2,72%, tín dụng bằng ngoại tệ tăng 22,21%;
tín dụng ngắn hạn tăng 6,17%, tín dụng trung, dài hạn tăng 7,66%.
Dư nợ tín dụng lĩnh vực sản xuất tăng 10,97%, chiếm tỷ trọng 83% tổng dư nợ,
trong đó tín dụng nơng nghiệp nơng thơn tăng 24,96%, tín dụng xuất khẩu tăng
25,77%. Dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất giảm 9,46%, chiếm tỷ trọng 16,92%
tổng dư nợ.
- Về lãi suất: Hiện nay, lãi suất cho vay VND bình quân thực tế khoảng
18,74%/năm, tăng 3,4%/năm so với cuối năm 2010, trong đó, lãi suất cho vay nông
nghiệp, nông thôn và xuất khẩu khoảng 17-19%/năm, lãi suất cho vay lĩnh vực sản
xuất - kinh doanh khác khoảng 19,2%/năm, lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất
khoảng 22-25%/năm. Lãi suất USD tương đối ổn định, trong đó, lãi suất huy động
USD ở mức sát trần quy định, lãi suất cho vay USD bình quân ở mức 6,4%/năm,
tương đương mức lãi suất cuối năm 2010.
Lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng từ giữa tháng 5 đến nay có xu
hướng giảm so với thời gian trước, hiện nay lãi suất cho vay qua đêm ở mức 13%/
năm, lãi suất cho vay 1 tuần ở mức 15%/năm, lãi suất cho vay 2 tuần - 1 tháng ở
mức 18%/năm.
- Thị trường ngoại hối chuyển biến tích cực, trạng thái ngoại tệ của các ngân hàng
thương mại được cải thiện, tâm lý thị trường ổn định, thị trường ngoại tệ tự do
được kiểm soát chặt chẽ. Lượng ngoại tệ các ngân hàng thương mại mua được lớn
hơn nhiều so với lượng ngoại tệ bán ra. Nhờ đó, tỷ giá USD/VND bình qn liên
ngân hàng có xu hướng giảm và tỷ giá mua - bán của ngân hàng thương mại có
nhiều thời điểm thấp hơn tỷ giá bình quân liên ngân hàng.
Thị trường vàng trong nước được kiểm soát chặt chẽ, nhiều thời điểm giá vàng
trong nước thấp hơn giá vàng thế giới do việc nắm giữ vàng đã giảm sức hấp dẫn,
nhu cầu vàng trong nước ở mức thấp.
- Hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng tiếp tục phát triển ổn định, khả năng
thanh toán được đảm bảo, thanh khoản VND từng bước được cải thiện. Tính đến
ngày 30/4/2011, vốn chủ sở hữu của các tổ chức tăng 13,34% so với cuối năm
2010.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong thời gian, thị trường tiền tệ trong thời gian
tới có những điểm cần lưu ý
Theo Nghị quyết 11, tín dụng và cung tiền của thị trường tiền tệ còn khá lớn. Các
ngân hàng sẽ được phép cho vay ra nền kinh tế khoảng 238 ngàn tỷ đồng, bình
quân giải ngân khoảng 47,6 ngàn tỷ đồng/ tháng, gấp đôi tiến độ giải ngân 7 tháng
đầu năm 2011. Tổng phương tiện thanh tốn (M2) cịn lại cũng lên tới gần 300
ngàn tỷ đồng, bình quân M2 tăng thêm đạt khoảng 59,5 ngàn tỷ đồng/ tháng, gấp
gần 5 lần tiến độ giải ngân 7 tháng đầu năm 2011
Do dư địa tín dụng và cung tiền cịn rộng, nên trong những tháng còn lại, nguồn
cung tiền từ thị trường tiền tệ sẽ có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền kinh tế, và
cũng có khả năng việc cung tiền nếu điều tiết hợp lý sẽ không sợ bị phá vỡ các chỉ
tiêu của cả năm đã được hoạch định là tăng trưởng tín dụng 20% và M2 15-16%.
Đây chắc chắn sẽ là những cơ sở để Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu những động
thái mới, nhằm kéo giảm lãi suất tín dụng, tiếp sức cho doanh nghiệp và nền kinh
tế mà không để tác động tăng vọt CPI và kéo theo lạm phát cao
Thời gian gần đây, thị trường vàng và ngoại tệ có những diễn biến rất phức tạp. Sự
diễn biến phức tạp này cũng sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến thị trường tiền
tệ của nước ta trong thời gian tới.
Cụ thể có thể thấy Từ đầu tháng 7 đến nay, giá vàng thế giới liên tục tăng cao, từ
mức 1.494USD/oz (ngày 01/7/2011) đã lên mức kỷ lục 1.869USD/oz (ngày
19/8/2011). Nguyên nhân của việc giá vàng thế giới tăng cao là do lo ngại về cuộc
khủng hoảng nợ công tại Mỹ và Châu Âu, đặc biệt là việc Standard & Poor’s hạ
mức tín nhiệm nợ cơng của Mỹ đã khiến giá vàng thế giới từ ngày 8/8/2011 tăng
mạnh.Cùng với biến động của giá vàng thế giới, giá vàng trong nước cũng đã tăng
theo.Tuy nhiên, từ thời điểm đầu tháng 7 đến đầu tháng 8, do nhu cầu vàng trong
nước luôn ở mức thấp, tốc độ tăng của giá vàng trong nước chậm hơn giá vàng thế
giới, do đó, có thời điểm, giá vàng trong nước thấp hơn giá vàng thế giới 700 – 800
nghìn đồng/lượng. Hiện tượng này là do chính sách tiền tệ chặt chẽ đã tạo ra sức
hấp dẫn trong việc nắm giữ tiền Đồng cho người dân, khuyến khích người dân bán
vàng lấy tiền gửi tiết kiệm. Do chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế
giới, đã xuất hiện tình trạng xuất khẩu vàng biến tướng dưới dạng vàng trang sức,
mỹ nghệ. Trước diễn biến bất thường của thị trường vàng trong nước, NHNN đã
triển khai các biện pháp để bình ổn thị trường vàng như: NHNN đã có cơng văn số
539/NHNN-QLNH.m ngày 08/8/2011 và số 565/NHNN-QLNH ngày 26/7/2011
gửi Bộ Tài chính đề nghị quy định giảm hàm lượng vàng thành phẩm chịu thuế
suất thuế xuất khẩu 10% nhằm ngăn chặn tình trạng xuất khẩu vàng nguyên liệu
biến tướng dưới dạng vàng trang sức, mỹ nghệ. Ngày 02/8/2011, Bộ Tài chính đã
ban hành Thơng tư số 111/2011/TT-BTC, trong đó quy định sửa đổi thuế suất thuế
xuất khẩu một số mặt hàng vàng theo đề nghị của NHNN: áp thuế 10% đối với các
loại vàng thành phẩm có hàm lượng vàng từ 80% trở lên. Theo dõi sát diễn biến thị
trường vàng thế giới và trong nước để chủ động triển khai các biện pháp ổn định
thị trường vàng. Ngày 08/8/2011, NHNN đã đăng tải thông điệp: NHNN sẵn sàng
cho phép nhập khẩu vàng khi cần thiết để bình ổn thị trường vàng, hạn chế tình
trạng đầu cơ, làm giá và nhập lậu. Sau khi NHNN cho phép nhập khẩu vàng, tâm
lý người dân đã ổn định trở lại, nhu cầu mua vàng giảm mạnh, giá vàng trong nước
đã sát với giá thế giới, mặc dù giá vàng thế giới vẫn liên tục diễn biến phức tạp.
Đối với thị trường ngoại hối, trong thời gian gần đây, do giá vàng trong nước tăng
mạnh trước biến động của giá vàng thế giới, tỷ giá trên thị trường ngoại hối có dấu
hiệu tăng nhẹ. Bên cạnh việc thực hiện các giải pháp ổn định thị trường vàng,
NHNN đã thực hiện một số biện pháp nhằm bình ổn tỷ giá, đưa tỷ giá giao dịch
thực tế trên thị trường liên ngân hàng về dưới mức trần tỷ giá cho phép, như: điều
hành linh hoạt tỷ giá bình quân liên ngân hàng, trả lời phỏng vấn báo chí nhằm
cung cấp thơng tin, ổn định tâm lý thị trường và kịp thời gửi Bộ Công an công văn
số 6302/NHNN-QLNH ngày 11/8/2011 đề nghị tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong
việc kiểm soát hoạt động mua bán ngoại tệ bất hợp pháp trên thị trường tự
Mặc dù Ngân hàng nhà nước cũng đã có những biện pháp, hoạt động cụ thể để ổn
định giá vàng trong nước, tuy nhiên thời điểm từ giờ đến cuối năm 2011, thị trường
vàng và thị trường ngoại tệ sẽ diễn biến ra sao cũng là một câu hỏi khó có lời giải
đáp. Vì vậy hoạt động cụ thể của Ngân hàng Nhà nước để kiểm soát thị trường
vàng là điều rất cần thiết.
2. Một số giải pháp để ổn định thị trường tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong
thời gian tới
Thứ nhất, ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết, NHNN sẽ ban hành Chỉ
thị yêu cầu các đơn vị thuộc NHNN và TCTD thực hiện các giải pháp về tiền tệ và
hoạt động ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm
an sinh xã hội cuối năm 2011.
Thứ hai, các giải pháp điều hành nhằm kiềm chế tín dụng tăng dưới 20% nhưng
vẫn đáp ứng nhu cầu vốn để sản xuất kinh doanh hiệu quả, tập trung ưu tiên vốn tín
dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu,
công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa:
- Sử dụng và điều hành linh hoạt các cơng cụ chính sách tiền tệ mà tập trung ở 4
cơng cụ chính là lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn và dự trữ bắt buộc
để điều tiết lượng tiền cung ứng và thanh khoản.
- Chỉ đạo các NHTM điều chỉnh lại kế hoạch kinh doanh về tăng trưởng tín dụng
và tài sản có; đăng ký tăng trưởng tín dụng với NHNN trên cơ sở đảm bảo đúng
các quy định về tỷ lệ an toàn và tăng trưởng tín dụng dưới 20% của NHNN.
- Chỉ đạo các NHTM giảm đến mức tối đa tín dụng cho lĩnh vực phi sản xuất, nhất
là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán. Ngân hàng Nhà nước sẽ điều chỉnh linh
hoạt các tỷ lệ trích lập dự phịng rủi ro và các tỷ lệ an toàn khác nhằm hướng các
luồng vốn tín dụng phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh quan trọng và
thiết yếu của nền kinh tế.
- Ban hành cơ chế để kiểm soát việc TCTD mua trái phiếu của doanh nghiệp nhằm
đảm bảo an toàn lĩnh vực kinh doanh này, hướng dẫn các NHTM quản lý số dư
mua trái phiếu của doanh nghiệp (tránh tình trạng TCTD lợi dụng chuyển từ cho
vay sang mua trái phiếu).
Thứ ba, kiểm soát lãi suất ở mức hợp lý theo hướng chủ động, tích cực kiềm chế
lạm phát, kiềm chế tăng trưởng tín dụng, nâng cao giá trị và mức hấp dẫn của VNĐ
so với ngoại tệ, đồng thời kiểm soát được việc chuyển dịch tín dụng VNĐ sang
ngoại tệ:
- NHNN ban hành ngay các văn bản quy phạm pháp luật để hoàn thiện cơ chế như:
Thông tư về lãi suất cơ bản, thông tư về lãi suất trong trường hợp thị trường tiền tệ
và hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường, thơng tư về thu phí cho vay,
thơng tư về áp dụng lãi suất không kỳ hạn trong trường hợp người gửi tiền rút
trước hạn.
- Chủ động xác định một cách linh hoạt các mức lãi suất điều hành của NHNN
tương ứng với lạm phát kỳ vọng và so với cùng kỳ.
- Sửa đổi cơ chế cho vay ngoại tệ để kiểm soát tốc độ cho vay ngoại tệ khoảng
20% trên nguyên tắc chỉ phục vụ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh thiết yếu
của nền kinh tế và có nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình.
- Chủ động phối hợp với Bộ Tài chính trong việc phát hành trái phiếu Chính phủ
trong nước và Quốc tế, điều hành thị trường vốn nhằm đảm bảo sự thống nhất,
nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ và chính sáh tài khóa theo hướng kiểm sốt lạm
phát, bình ổn kinh tế vĩ mô.
Thứ tư, điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến
thị trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện ngay các biện pháp cần thiết
để các tổ chức, cá nhân bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua
khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng phát
triển sản xuất kinh doanh thiết yếu của nền kinh tế và tăng dự trữ ngoại hối:
- Điều hành linh hoạt tỷ giá phù hợp với Cung - Cầu ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu
ngoại tệ cho nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, ban hành các cơ chế, chính sách
đồng bộ nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và của
NHTM, góp phần kiểm soát lạm phát và hạn chế nhập siêu, ổn định kinh tế vĩ mơ
và duy trì tăng trưởng kinh tế.
- Có các giải pháp phát triển thị trường, sử dụng một số cơng cụ phái sinh nhằm
góp phần điều hành tỷ giá linh hoạt, hỗ trợ cho thực thi chính sách tiền tệ chủ
động; tạo điều kiện cho doanh nghiệp và ngân hàng chủ động cân đối và phòng
ngừa rủi ro ngoại tệ.
- Thực hiện quyết liệt các biện pháp về quản lý, sử dụng ngoại tệ, kiểm soát chặt
chẽ cả việc cho vay và bán ngoại tệ để thanh toán cho nhập khẩu các mặt hàng
thuộc Danh mục các mặt hàng nhập khẩu không thiết yếu, không cấp bách.
- Đề xuất và triển khai ngay các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân, trước
hết là các Tập đồn kinh tế, Tổng cơng ty Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng
khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý.
- Có các biện pháp để kiểm sốt chặt chẽ việc sử dụng thẻ thanh toán Quốc tế và
chi tiêu ngoại tệ ra nước ngoài của các tổ chức và cá nhân.
- Phối hợp với Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tài chính để có các biện pháp quản lý chặt
chẽ việc đầu tư và cho vay ra nước ngoài của các tổ chức kinh tế và TCTD.
- Bổ sung các qui định của NHNN về việc vay nợ nước ngồi của các Tổ chức kinh
tế theo hình thức tự vay, tự trả nhằm kiểm soát một cách hợp lý hình thức vay nợ
này theo hướng: góp phần đảm bảo thanh khoản ngoại tệ của nền kinh tế, phục vụ
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư thiết yếu của nền kinh tế, giảm
nghĩa vụ và áp lực trả nợ nước ngoài của nền kinh tế.
- Chủ động phối hợp với Bộ Công thương trong việc thực thi các giải pháp nhằm
giảm nhập siêu, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh
thiết yếu của nền kinh tế.
- Đề xuất và trình Chính phủ các giải pháp nhằm giảm tình trạng đơ la hóa theo
hướng trên lãnh thổ Việt Nam phương tiện thanh toán duy nhất là đồng VN,
chuyển dần quan hệ huy động – cho vay bằng ngoại tệ trong nước của các tổ chức
tín dụng sang quan hệ mua –bán ngoại tệ.
Thứ năm, thực hiện các biện pháp quản lý chặt chẽ thị trường vàng:
- Theo dõi và dự báo sát tình hình biến động giá vàng Quốc tế, cung cầu trong
nước để điều hành hoạt động xuất nhập khẩu vàng một cách hợp lý, ngăn chặn có
hiệu quả hoạt động đầu cơ, găm giữ, thao túng thị trường.
- Trong quý II/2011 trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý và kinh doanh
vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh
doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn
lậu vàng qua biên giới.
Thứ sáu, tăng cường công tác thanh tra, giám sát đối với hoạt động cấp tín dụng,
chất lượng tín dụng, đảm bảo các tỷ lệ an toàn, hoạt động mua – bán ngoại tệ, kinh
doanh vàng của các TCTD, tổ chức kinh tế và trên thị trường tự do:
- Thanh tra việc cho vay và cơ cấu lại thời hạn trả nợ, phân loại tín dụng, trích dự
phịng rủi ro và sử dụng dự phịng để xử lý rủi ro tín dụng theo đúng quy định của
pháp luật.
- Tập trung thanh tra tại chỗ về cho vay lĩnh vực phi sản xuất, chất lượng tín dụng
và việc thực hiện các tỷ lệ đảm bảo an tồn hoạt động kinh doanh của tổ chức tín
dụng.
- Phối hợp với các cơ quan có liên quan ban hành quy định và chế tài xử lý vi
phạm, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép hoạt động, thu tài sản, quy định khen
thưởng đối với việc phát hiện các hành vi vi phạm hoạt động thu đổi, mua bán
ngoại tệ, vàng.
- Phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Công Thương, Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát việc
tuân thủ các quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng.
Thứ bảy, hoàn thiện cơ chế và nâng cao chất lượng cơng tác thơng tin, truyền
thơng về điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng:
- Các giải pháp của NHNN nhằm triển khai Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày
24/2/2011 của Chính phủ là các giải pháp mạnh, quyết liệt nhưng cũng rất nhạy
cảm và tác động đến mọi mặt của hoạt động SX-KD trong nền kinh tế. Điều này
địi hỏi NHNN phải làm tốt cơng tác thơng tin, tuyên truyền về điều hành chính
sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm tạo ra sự nhận thức sâu rộng, kịp thời và
đồng thuận trong tồn xã hội vì lợi ích của đất nước, vì sự phát triển bền vững,
lành mạnh của cả nền kinh tế.
- Thông qua các tổ chức Quốc tế (đặc biệt là các tổ chức Tài chính – Tiền tệ Quốc
tế như: IMF, WB, ADB) NHNN có trách nhiệm truyền tải kịp thời, sâu sắc các chủ
trương, chính sách, giải pháp của Chính phủ nói chung, NHNNnói riêng nhằm bình
ổn kinh tế vĩ mơ, kiềm chế lạm phát tạo niềm tin và đồng thuận của cộng đồng các
nhà tài trợ, các nhà đầu tư Quốc tế đối với sự nghiệp phát triển kinh tế bền vững
của Việt Nam.
KẾT BÀI