Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Tiểu luận báo chí kinh tế báo chí trong tuyên truyền về chính sách an sinh và các biện pháp để cải thiện, tạo sinh kế cho người dân nhằm giữ gìn và bảo vệ động vật hoang dã hiện nay ”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 47 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo vệ động vật hoang dã đang là vấn đề nóng, là mối quan tâm hàng
đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo báo cáo của Qũy Quốc tế Bảo vệ
Thiên nhiên (WWF 2016), tác động của con người đã đẩy tốc độ tuyệt chủng
của các loài động vật hoang dã trên thế giới hiện nay nhanh gấp khoảng 4000
lần so với thời kỳ Đại tuyệt chủng của các loài khủng long. Báo cáo cũng
cảnh báo rằng nếu khơng có các hành động khẩn cấp thì trong vịng khoảng
ba thập kỷ tới, thế giới sẽ phải chứng kiến cuộc đại tuyệt chủng của các loài
động vật hoang dã lần tiếp theo. Đồng thời, nếu con người không hành động
kịp thời và hiệu quả thì chính chúng ta sẽ là nạn nhân của cuộc đại tuyệt
chủng nêu trên. Khi toàn bộ loài vật đi đến tuyệt chủng thì tổn thất gây ra
khơng chỉ dừng lại ở tổng số con vật bị mất đi. Mặc dù chúng ta có thể coi thế
giới động vật là tách biệt, những cuộc sống của chúng ta lại liên kết chặt chẽ
với nhau bằng cả triệu sợi dây vô hình. Cây cối, động vật, con người và mơi
trường cùng nhau cấu thành một cộng đồng sinh học, một hệ sinh thái, mà
trong đó, bộ phận này đều phụ thuộc và bộ phận kia để tồn tại.
Mặc dù con người là mối đe dọa lớn nhất của cộng đồng động vật
hoang dã, nhưng chúng ta cũng là niềm hi vọng duy nhất của chúng. Trên
khắp thế giới, các cá nhân và các nhóm nhỏ cũng như các tổ chức lớn, các tập
đồn và các chính phủ đang góp phần vào việc đảm bảo một tương lai an toàn
hơn cho các lồi động vật hoang dã. Gắn kết lợi ích của con người với việc
giữ gìn, bảo vệ các lồi động vật hoang dã là một chiến lược quan trọng trong
công cuộc bảo vệ động vật hoang dã của Đảng và Nhà nước, chính vì vậy,
việc tun truyền các chính sách an sinh xã hội, các biện pháp để cải thiện,
tạo sinh kế cho người dân là vô cùng cần thiết.
Và như thường lệ, báo chí với vai trị là cơng cụ, phương thức kết nối
xã hội hữu hiệu nhất, là hoạt động thông tin giao tiếp xã hội trên quy mô rộng
1



lớn nhất gắn kết người dân với Đảng, Nhà nước và chính quyền cần phải tiếp
tục phát huy vai trị quan trọng của mình trong cuộc chiến chung tay giữ gìn
và bảo vệ động vật hoang dã.
Tiểu luận “Báo chí trong tuyên truyền về chính sách an sinh và các
biện pháp để cải thiện, tạo sinh kế cho người dân nhằm giữ gìn và bảo vệ
động vật hoang dã hiện nay.” (Khảo sát trên 3 báo điện tử Tài nguyên và
môi trường, Daily Mail và CNN) đưa ra những vấn đề, làm rõ thực trạng,
đưa ra những minh chứng, kinh nghiệm và đề xuất giải pháp phát huy vai trò
của báo chí trong cơng tác tun truyền về chính sách an sinh và các biện
pháp để cải thiện, tạo sinh kế cho người dân nhằm giữ gìn và bảo vệ động vật
hoang dã hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ trước đến nay, nhiều cơng trình khoa học đã nghiên cứu về vai trị
của báo chí đơi với cơng tác tun truyền các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước nói chung. Nhưng vấn đề báo chí trong tuyên truyền về
chính sách an sinh và các biện pháp để cải thiện, tạo sinh kế cho người dân
nhằm giữ gìn và bảo vệ động vật hoang dã thì chưa có cơng trình nào nghiên
cứu kỹ.
Trong q trình nghiên cứu đề tài, tơi nhận thấy có một số cơng trình
nghiên cứu có nội dung liên quan như:
- Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Loan, xuất bản năm 2019, Học
viện Báo chí Tuyên truyền: “Tuyên truyền chính sách dân số và phát triển
trên đài phát thanh – truyền hình tỉnh Bắc Giang hiện nay”.
- Luận văn của tác giả Nguyễn Anh Tùng, năm 2015, Học viện Báo
chí Tuyên truyền: “Truyền hình các tỉnh đồng bằng sơng Cửu Long với việc
tuyên truyền chính sách dân tộc cho đồng bào Khmer hiện nay”.
- “Chính sách xã hội” của tác giả Dương Thị Thục Anh, xuất bản năm
2014, Học viện Báo chí Tuyên truyền.

2



- Giáo trình “Phân tích chính sách”, xuất bản năm 2015, TS Lưu
Thúy Hồng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Tiểu luận góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận
và thực tiễn về vai trị của báo chí trong cơng tác trong tun truyền về chính
sách an sinh và các biện pháp để cải thiện, tạo sinh kế cho người dân nhằm
giữ gìn và bảo vệ động vật hoang dã, khảo sát thực trạng báo chí với cơng tác
tun truyền cho nhân dân, trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng, giải pháp
phát huy vai trị của báo chí trong cơng tác tun truyền về chính sách an sinh
và các biện pháp để cải thiện, tạo sinh kế cho người dân nhằm giữ gìn và bảo
vệ động vật hoang dã trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về tuyên
truyền về chính sách an sinh và các biện pháp để cải thiện, tạo sinh kế cho người
dân nhằm giữ gìn và bảo vệ động vật hoang dã. Khảo sát, đánh giá, phân tích ưu
điểm và hạn chế của báo chí trong cơng tác tuyên truyền chính sách an sinh xã
hội và các biện pháp cải thiện, tạo sinh kế cho người dân nhằm bảo vệ động vật
hoang dã. Đề xuất một số phương hướng, giải pháp phát huy vai trị của báo chí
trong công tác tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Báo chí với cơng tác tun truyền về chính
sách an sinh và các biện pháp để cải thiện, tạo sinh kế cho người dân nhằm
giữ gìn và bảo vệ động vật hoang dã hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Đề tài nghiên cứu các trang báo
mạng điện tử: Báo điện tử Tài nguyên và Môi trường, Daily Mail, CNN. Về
thời gian: Nghiên cứu các bài báo, trang báo đăng trong thời gian từ tháng
1/2019 đến 3/2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Tiểu luận dựa trên cơ sở hệ thống chính sách an sinh

xã hội của Đảng và Nhà nước. Các quan điểm của Đảng và Nhà nước trong
3


việc giữ gìn và bảo vệ động vật hoang dã. Kế thừa hệ thống quan điểm lý luận
của những nghiên cứu đi trước.
- Phương pháp nghiên cứu: sử dụng các phương pháp khảo sát thực tế,
thống kê, phân loại, phương pháp đối chiếu so sánh.
6. Đóng góp mới của tiểu luận
Tiểu luận nghiên cứu một cách sâu sắc và chi tiết vấn đề tuyên truyền
chính sách an sinh xã hội, các biện pháp tạo sinh kế cho người dân nhằm giữ
gìn và bảo vệ động vật hoang dã. Đây là một vấn đề mới.
Từ việc phân tích những ưu điểm, hạn chế của 3 tờ báo cụ thể, tiểu luận
đề xuất các giải pháp phát huy vai trò, đổi mới, nâng cao chất lượng thông tin
tuyên truyền trên các tác phẩm báo chí.
Thơng qua tiểu luận cũng giúp cho những người làm cơng tác quản lý
báo chí, các nhà hoạch định chính sách, những phóng viên, nhà báo có cái
nhìn tồn diện, năm bắt đầu đủ và chính xác về việc tuyên truyền chính sách
an sinh xã hội, các biện pháp tạo sinh kế cho người dân nhằm giữ gìn và bảo
vệ động vật hoang dã.
7. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tuyên truyền chính sách an sinh và
các biện pháp cải thiện, tạo sinh kế cho người dân nhằm giữ gìn và bảo vệ
động vật hoang dã.
Chương 2: Thực trạng báo chí tuyên truyền về chính sách an sinh và
các biện pháp để cải thiện, tạo sinh kế cho người dân nhằm giữ gìn và bảo vệ
động vật hoang dã. (Khảo sát 3 tờ báo: Báo điện tử Tài nguyên và môi trường,
Daily Mail, CNN).
Chương 3: Giải pháp phát huy vai trị của báo chí trong tun truyền về

chính sách an sinh và các biện pháp để cải thiện, tạo sinh kế cho người dân
nhằm giữ gìn và bảo vệ động vật hoang dã.

4


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TUYÊN TRUYỀN CHÍNH SÁCH AN
SINH VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ CẢI THIỆN, TẠO SINH KẾ CHO
NGƯỜI DÂN NHẰM GIỮ GÌN VÀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT HOANG DÃ
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của Chính sách an sinh xã hội, sinh kế

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của “Chính sách an sinh xã hội”
a) Thuật ngữ “An sinh xã hội”
Ở Việt Nam, thuật ngữ “An sinh xã hội” được xuất hiện vào những
năm 70 trong một số cuốn sách nghiên cứu về pháp luật của một số học giả
Sài Gòn. Sau năm 1975, thuật ngữ này được dùng nhiều hơn và đặc biệt là từ
những năm 1995 trở lại đây nó được dùng rộng rãi hơn.
Có khá nhiều định nghĩa về “An sinh xã hội”. Theo Tổ chức Lao động
Quốc tế, đó là: “Sự bảo vệ mà xã hội thực hiện đối với các thành viên của
mình thơng qua một loạt các biện pháp cơng cộng để chống lại sự cùng quẫn
về kinh tế và xã hội dẫn đến sự chấm dứt hay giam sút đáng kể về thu nhập do
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất việc làm, mất sức lao động, tuổi già
hoặc cái chết; những dịch vụ về chăm sóc y tế và những quy định về hỗ trợ
đối với những gia đình có con nhỏ gặp phải khó khăn trong cuộc sống”.
Trong điều 22 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, “An sinh xã hội”
lại được định nghĩa như sau: “Mọi người, như một thành viên của xã hội,
có quyền an sinh xã hội và được quyền thực hiện, thông qua nỗ lực quốc

gia và hợp tác quốc tế và phù hợp với tổ chức và các nguồn lực của mỗi
quốc gia, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa khơng thể thiếu cho nhân
phẩm của mình và sự phát triển tự do của nhân cách của mình”. Nói một
cách đơn giản, điều này có nghĩa là các bên tham gia ký kết thỏa thuận
rằng xã hội, trong đó một người sinh sống có thể giúp họ phát triển và tận
dụng tối đa tất cả những lợi thế (văn hóa, cơng việc, phúc lợi xã hội) được
cung cấp cho họ trong quốc gia đó.
5


An sinh xã hội cũng có thể chỉ các chương trình hành động của chính phủ
nhằm thúc đẩy phúc lợi của người dân thông qua các biện pháp hỗ trợ đảm bảo
quyền tiếp cận các nguồn lực đầy đủ về thực phẩm và nơi trú ẩn và tăng cường
sức khỏe và phúc lợi cho người dân nói chung và các phân đoạn có khả năng dễ
bị tổn thương như trẻ em, người già, người bệnh và người thất nghiệp. Các dịch
vụ cung cấp an sinh xã hội thường được gọi là các dịch vụ xã hội.
Như vậy, về mặt bản chất, an sinh xã hội là góp phần đảm bảo thu nhập
và đời sống cho các công dân trong xã hội. Phương thức hoạt động là thông
qua các biện pháp cơng cộng. Mục đích là tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành
viên trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc. An sinh
xã hội có thể ảnh hưởng đến cả khi một con người cụ thể chưa sinh ra và có
thể cả khi người đó mất đi. Nó cũng ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của
mọi người. Việc có một hệ thống an sinh xã hội có thể làm thay đổi cuộc sống
của mọi người theo chiều hướng tốt lên.
b) Chính sách an sinh xã hội.
Chính sách an sinh xã hội (ASXH) là những chính sách bảo vệ của nhà
nước nhằm phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro cho các thành viên của
mình khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do các nguyên nhân như: ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, già cả khơng cịn sức lao
động hoặc vì các ngun nhân khách quan khác, thơng qua các chính sách bảo

hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), ưu đãi xã hội (UĐXH) và trợ
giúp xã hội (TGXH).
Bản chất của chính sách ASXH là tạo ra lưới an toàn nhằm che chắn
cho các thành viên trong trường hợp họ bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc khi
họ gặp phải những rủi ro khách quan. Chức năng cơ bản của mọi chính sách
ASXH là bảo vệ sự an toàn của các thành viên trong xã hội thơng qua các
biện pháp phịng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro. Bản chất của chính sách
ASXH được thể hiện đầy đủ ở tính chính trị, tính kinh tế, tính xã hội và ý
nghĩa nhân đạo của nó.
6


Vai trị của chính sách ASXH thể hiện rõ nét trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, đó là vai trị đối với nhà nước và cộng đồng: Chính sách
ASXH là một trong những hợp phần quan trọng trong chương trình xã hội của
một quốc gia và là một công cụ quản lý của nhà nước, qua đó, giữ gìn sự ổn
định về chính trị - kinh tế - xã hội, giảm bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo,
phân tầng xã hội, tạo sự đồng thuận giữa các giai tầng, các nhóm xã hội trong
q trình phát triển. Thơng qua cách thức thiết kế và thực hiện chính sách
ASXH cịn cho thấy mơ hình phát triển xã hội, quan điểm lựa chọn đầu tư cho
con người của mỗi nhà nước.
Thứ hai là vai trị đối với cá nhân và hộ gia đình: Chính sách ASXH
cung cấp cho những người bất hạnh, những người kém may mắn những điều
kiện và lực đẩy cần thiết để khắc phục những “rủi ro”, nhanh chóng hịa nhập
vào cộng đồng. Đồng thời, nó kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con
người, kể cả những người giàu và người nghèo, người may mắn và người kém
may mắn, giúp họ hướng tới những giá trị Chân – Thiện – Mỹ. Ngồi ra, nó
cịn được xem như là một giá đỡ đảm bảo thu nhập, bảo đảm mức sống tối
thiểu, bảo vệ giá trị cơ bản và là thước đo trình độ phát triển của một đất nước
trong q trình phát triển.

Chính sách ASXH có thể hỗ trợ cho các hộ gia đình “ quản lý” đươc rủi
ro và có đủ năng lực vật chất để đương đầu được trong những giai đoạn khó
khăn. Đồng thời, chính sách ASXH cịn hỗ trợ các hộ gia đình có điều kiện
đầu tư tốt hơn cho tương lai.
Các chức năng của ASXH bao gồm:
Chức năng phòng ngừa rủi ro: Chức năng này nhằm tạo điều kiện cho
các đối tượng phát huy được tiềm năng, có đủ năng lực vật chất cần thiết để
đối phó một cách tốt nhất với rủi to, hạn chế thiệt hại và tự bảo vệ.
Chức năng giảm thiểu rủi ro: giảm thiểu thiệt hại cho họ thông qua các
chính sách trợ giúp, trợ cấp mang tính ngắn hạn và trực tiếp.

7


Chức năng khắc phục rủi ro: Đây là nhóm biện pháp can thiệp cuối
cùng của hệ thống chính sách ASXH đối với những người khơng có cơ hội
tham gia vào tầng lưới thứ nhất và thứ hai.
c) Quan điểm, chủ trương của Đảng ta về an sinh xã hội
An sinh xã hội là hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước
và các lực lượng xã hội thực hiện nhằm bảo đảm cho mọi người dân ít nhất có
được mức tối thiểu về thu nhập, có cơ hội tiếp cận ở mức tối thiểu về các dịch
vụ xã hội cơ bản, thiết yếu, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin,...
thông qua việc nâng cao năng lực tự an sinh của người dân và sự trợ giúp của
Nhà nước. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn diện, từng bước
mở rộng diện bao phủ, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân,
giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ đang là đích đến
của các quốc gia trên thế giới. Theo đó, chính sách an sinh xã hội cần tập
trung vào 4 nội dung chính như sau:
Một là, tăng cường cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và
giảm nghèo bền vững cho người lao động yếu thế thông qua hỗ trợ cá nhân và

hộ gia đình phát triển sản xuất, hỗ trợ tín dụng, giải quyết việc làm và kết nối
thông tin thị trường lao động.
Hai là, mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia hệ thống chính
sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp để chủ động đối phó khi thu nhập
bị suy giảm hoặc bị mất do các rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già.
Ba là, hỗ trợ thường xuyên đối với người có hồn cảnh đặc thù và hỗ
trợ đột xuất cho người dân khi gặp các rủi ro không lường trước hoặc vượt
quá khả năng kiểm soát (mất mùa, thiên tai, động đất, chiến tranh, đói
nghèo,...) thơng qua các khoản tiền mặt và hiện vật do ngân sách nhà nước
bảo đảm.
Bốn là, tăng cường tiếp cận của người dân đến hệ thống dịch vụ xã hội
cơ bản, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin.

8


Ở Việt Nam, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Đảng và Nhà nước ta đặt quyết tâm phát triển hệ thống an sinh xã hội bảo
đảm thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, phù hợp
với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tiếp cận dần với chuẩn
mức quốc tế.
Từ nhiều năm qua, đặc biệt là từ khi thực hiện đường lối đổi mới (năm
1986) đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực
hiện các chính sách an sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực
để ổn định chính trị - xã hội, phát triển bền vững. An sinh xã hội được xác
định là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, nằm trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bảo đảm an sinh xã hội là điều kiện
để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Tiếp tục phát triển quan
điểm, chủ trương đó của Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991 và bổ sung, phát triển năm
2011) và nghị quyết của các kỳ đại hội, đặc biệt Nghị Quyết số 15-NQ/TW,
ngày 1-6-2012, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, về “Một số
vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” đã đặt ra yêu cầu: Chính
sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng
bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn
lực trong từng thời kỳ...; đồng thời thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, bảo
đảm mức sống tối thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hồn cảnh khó khăn; coi
bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà
nước, của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản
hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân với các yêu cầu: bảo đảm
người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội; bảo đảm
hỗ trợ những người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hồn cảnh đặc
biệt, người cao tuổi thu nhập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo,…);
bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối
9


thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), góp phần từng bước nâng
cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an tồn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân
dân.
1.1.2. Khái niệm “Sinh kế”
Sinh kế được hiểu là “tập hợp tất cả các nguồn lực và khả năng mà con
người có được, kết hợp với những quyết định và hoạt động mà họ thực thi
nhằm để kiếm sống cũng như để đạt được các mục tiêu và ước nguyện của
họ”.
Thuật ngữ “sinh kế bền vững” được sử dụng đầu tiên như là một khái
niệm phát triển vào những năm đầu 1990. Tác giả Chambers và Conway
(1992) định nghĩa về “sinh kế bền vững” như sau: “Một sinh kế bền vững có
thể đối phó với những rủi ro và những cú sốc và tăng cường khả năng và tài

sản đồng thời cung cấp các cơ hội sinh kế bền vững cho thế hệ sau góp phần
tạo ra lợi ích cho cộng đồng địa phương và toàn cầu và trong ngắn hạn và dài
hạn kinh tế bền vững cung cấp một phương pháp tiếp cận tích hợp chặt chẽ
hơn với vấn đề nghèo đói”.
1.2.

Báo chí với cơng tác tun truyền về chính sách an sinh, tạo

sinh kế cho người dân
Báo chí có vai trị vơ cùng quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.
Vì nó là hoạt động thơng tin giao tiếp xã hội trên quy mô rộng lớn nhất và là
công cụ, phương thức kết nối xã hội hữu hiệu nhất. Đồng thời, báo chí cũng là
cơng cụ can thiệp xã hội hiệu quả trong mối quan hệ với công chúng cà dư
luận xã hội, với nhân dân và các nhóm lợi ích, với các nước trong khu vực và
quốc tế.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội, bảo đảm tiến bộ
và cơng bằng xã hội, coi đó là mục tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững
đất nước, thể hiện tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Như một người
bạn đồng hành, một “đối tác” quan trọng, báo chí đã truyền tải các thông điệp
10


đó một cách rõ ràng, thúc đẩy tiến trình chuyển biến nhận thức mạnh mẽ hơn,
qua đó, nâng cao uy tín, khẳng định vị thế của an sinh xã hội Việt Nam. Theo
thời gian, mối quan hệ giữa người làm báo và người làm công tác an sinh xã
hội ngày càng trở nên mật thiết và gắn bó hơn bao giờ hết. Thơng qua các cơ
quan báo chí, cơng tác truyền thơng về chính sách an sinh xã hội được tiến
hành mạnh mẽ với độ bao phủ rộng khắp, tần suất tăng. Hình thức truyền
thơng được thể hiện phong phú, nội dung đảm bảo đúng trọng tâm, trọng

điểm về những điểm mới của chính sách an sinh xã hội, dự báo tác động đến
quyền lợi, tâm lý của người dân nói chung và người lao động nói riêng.
Dưới sự phối hợp của sở Lao động – Thương binh và Xã hội, các trung
tâm dịch vụ, hoạt động tuyên truyền về lĩnh vực an sinh xã hội, thị trường lao
động, các chính sách bảo hiểm, trợ cấp xã hội,... đã được các cơ quan báo chí
tăng cường hơn trước, số lượng, tần suất, chất lượng các bài viết về việc làm
không ngừng tăng, nội dung. Các cơ quan báo chí đã phối hợp chặt chẽ để
nâng cao hiệu quả tuyên truyền trên các phương tiện thông tin truyền thông
đại chúng, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và nhân dân về chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, cổ vũ, động viên nhân
dân và người lao động tích cực tham gia các chính sách BHXH (bảo hiểm xã
hội), BHYT (bảo hiểm y tế), hướng tới mục tiêu BHYT toàn dân và BHXH
cho mọi người lao động. Khơng khó nhận thấy thời gian qua, trên các phương
tiện báo chí truyền thơng xuất hiện nhiều bài báo, phóng sư phát thanh, truyền
hình... về BHXH, BHYT chân thực, sinh động, lơi cuốn người đọc, người
xem, phản ánh những khó khăn, trở ngại, những cách làm hay điển hình tốt
cũng như những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân... đã mang lại hiệu ứng
tích cực trong việc tổ chức, thực hiện Luật BHXH, Luật BHYT. Mặt khác,
báo chí cũng tham mưu cho các nhà hoạch định chính sách, đóng góp quan
trọng về vật chất, tinh thần cho hệ thống BHXH, BHYT vận hành một cách
minh bạch, rõ ràng. Với độ bao phủ rộng, cập nhật liên tục, không giới hạn,

11


báo chí là phương tiện chuyển tải thơng tin BHXH nhanh chóng và hữu hiệu
nhất.
Trên thực tế, người dân biết thơng tin về các chính sách an sinh xã hội
nhiều nhất qua báo chí. Các phương tiện truyền thơng, báo chí ln dành
trang, mục, thời lượng tun truyền phù hợp nhằm nhân rộng những điển

hình, nhân tố tích cực, cổ vũ các phong trào, góp phần củng cố, khẳng định
niềm tin của người dân vào chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực này. Sự động viên, ủng hộ, chia sẻ kịp thời
của các cơ quan chỉ đạo và quản lý báo chí, của các bộ, ban, ngành, đoàn thể,
đặc biệt của các cơ quan thơng tấn, báo chí có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp
phần tạo sự đồng thuận trong nhân dân đối với các chủ trương chính sách lớn
của lĩnh vực an sinh. Bên cạnh đó, những góc khuất, vấn đề bức xúc trong đời
sống xã hội cũng được kịp thời phản ánh. Đó là những bài viết, phóng sự,
phóng sự điều tra góp phần đưa nhiều vụ tiêu cực, các hành vi trục lợi Qũy
BHXH, BHYT, những cảnh báo về các cách thức trốn đóng BHXH cho người
lao động ra ánh sáng, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả
của công tác phục vụ nhân dân.
Hiện nay vẫn cịn khơng ít cơng dân, các tổ chức, doanh nghiệp vẫn
còn gượng ép khi tham gia BHXH, BHYT bởi họ chưa thực sự hiểu sâu sắc ý
nghĩa, vai trị của hai chính sách này. Bên cạnh đó, thơng tin về các chính
sách an sinh xã hội đã được đăng tải đều đặn trên tất cả các loại hình báo chí
với nhiều hình thức thể hiện khác nhau, nhưng vẫn chưa mang lại hiệu quả
như mong muốn. Nội dung truyền thông về lĩnh vực này chưa thực sự hấp
dẫn, những hạn chế, tiêu cực trong thực thi các chính sách vẫn chưa có điều
kiện phân tích chun sâu và liên tục về nguyên nhân, hậu quả, một số tin bài
chưa thực sự khách quan, gây hiệu ứng xã hội khơng tốt...
Thực tế trên địi hỏi cơng tác truyền thơng về các chính sách cần phải
được đổi mới, sáng tạo, hiệu quả, nhằm đưa các chính sách đi vào cuộc sống.
Sự chính xác, kịp thời, sắc sảo, thuyết phục, kể cả việc sử dụng các thuật ngữ
12


chun mơn liên quan đến các chính sách an sinh xã hội là hết sức cần thiết,
cần có thêm những kênh truyền thơng chun biệt, hiệu quả về các chính sách
cho từng đối tượng khác nhau. Mặt khác, mỗi cơ quan báo chí cần xây dựng

đội ngũ cộng tác viên là chuyên gia về an sinh xã hội để có một cái nhìn sâu
sắc, đánh giá sắc sảo và sự phân tích chính xác về vai trị của các chính sách
đối với sự phát triển của đất nước. Các cơ quan báo chí và nhà báo cũng cần
kết hợp chặt chẽ với các cơ quan thực thi chính sách về BHXH, BHYT để vừa
thu thập được các thơng tin chính thống từ những cơ quan này để cung cấp
cho công chúng, vừa truyền tải, lan tỏa thông điệp đến những đối tượng khác
nhau trong xã hội.
1.3.

Báo chí với cơng tác tuyên truyền giữ gìn và bảo vệ động vật

hoang dã
Bảo vệ động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm là một việc làm quan
trọng trong nhiệm vụ bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ tính đa dạng sinh học và bảo
vệ mơi trường nói chung đang được thế giới và Việt Nam đặc biệt quan tâm.
Trong công cuộc bảo vệ, bảo tồn và đấu tranh với các hành vi sai trái như săn
bắt, bn bán, vận chuyển trái phép các lồi động vật hoang dã, đặc biệt là
các sản phẩm động vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm, các cơ quan thơng tấn,
báo chí chính là cơng cụ hữu hiệu nhất để thông tin tuyên truyền, phổ biến
chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước. Báo chí đã tập trung đẩy
mạnh tuyên truyền, nhấn mạnh kết quả cũng như nỗ lực của chính phủ, các cơ
quan chức năng và người dân trong công tác bảo vệ động vật hoang dã, thúc
đẩy các hoạt động thực thi cam kết quốc tế về bảo vệ động vật hoang dã. Báo
chí tuyên truyền, phổ biến tầm quan trọng của việc bảo tồn động vật hoang dã
nhằm nâng cao ý thức của cộng đồng bảo vệ động vật hoang dã và khuyến
khích sự tham gia tích cực của cộng đồng cùng chung tay ngăn chặn các hành
vi bn bán trái phép. Bên cạnh đó, báo chí cũng tuyên truyền những chính
sách an sinh, các biện pháp hỗ trợ người dân nhằm giữ gìn và bảo vệ động vật
hoang dã.
13



Ngồi ra, báo chí cũng là phương tiện hiệu quả nhất trong đấu tranh,
phát hiện và cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng để xử lý nhanh
nhất. Đồng thời, cịn có các bài báo tun dương, vinh danh các cá nhân, tổ
chức các hoạt động bảo vệ động vật hoang dã, ngược lại cũng có các bài báo
tạo nên luồng dư luận phê phán, lên án các hành vi vi phạm pháp luật và định
hướng cho dư luận xã hội về vấn đề này. Các cơ quan thơng tấn báo chí cũng
là kênh giám sát vơ cùng hiệu quả đối với công tác quản lý, bảo vệ và xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật về công tác bảo vệ động vật hoang dã.
Những năm gần đây, số lượng tin bài liên quan đến công tác bảo tồn
động thực vật hoang dã nói chung và nạn bn bán động vật hoang dã nói
riêng được đăng phát trên các phương tiện thông tin đại chúng đã tăng lên
đáng kể. Đặc biệt là thông tin liên quan đến nạn buôn bán động vật hoang dã
và công tác xử lý vi phạm đã được các cơ quan báo chí thơng tin kịp thời.
Ngồi ra, báo chí cịn gắn trách nhiệm của những cơ quan chức năng trong
việc làm rõ thơng tin vi phạm. Có thể thấy, các cơ quan báo chí đã và đang
thể hiện thái độ, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến này và sự đồng hành
của báo chí trong thời gian qua đã hỗ trợ rất nhiều cho các cơ quan chức năng
trong cơng cuộc phịng chống buôn bán, săn bắt, tiêu thụ trái phép động vật
hoang dã.
1.4.

Sự cần thiết của việc tuyên truyền chính sách an sinh và các

biện pháp để cải thiện, tạo sinh kế cho người dân nhằm giữ gìn và bảo vệ
động vật hoang dã hiện nay – Các vấn đề đặt ra
1.4.1. Tác động của việc hỗ trợ sinh kế và phát triển kinh tế bền vững ở
địa phương đối với việc giữ gìn và bảo vệ động vật hoang dã hiện nay
Buôn bán động vật hoang dã trái phép hiện đang thu hút sự quan tâm

đáng kể của cộng động quốc tế. Đã có rất nhiều sáng kiến đưa ra để kiểm sốt
tình trạng này, tuy nhiên những sáng kiến có xu hướng nghiêng về giải pháp
thực thi pháp luật và giảm nhu cầu sử dụng, trong khi ít chú trọng áp dụng các
ưu đãi hiệu quả cho quản lý dựa vào cộng đồng hoặc quản lý của khu vực tư
14


nhân. Đặc biệt, vai trò của việc “sử dụng bền vững” động vật hoang dã như
một công cụ vừa nhằm bảo tồn, vừa phát triển địa phương thường bị xem nhẹ.
Động vật hoang dã là một trong những tài sản q giá đối với nhiều
cộng đồng nơng thơn và tình trạng buôn lậu động vật hoang dã đã tác động
nghiêm trọng đến nguồn thu nhập của cộng đồng. Tuy nhiên, giải quyết vấn
nạn buôn lậu bằng cách thắt chặt quản lý sử dụng bền vững có thể thu hẹp
hơn nữa các lựa chọn của cộng đồng. Đối phó với loại tội phạm này một cách
hiệu quả là phát triển các hướng tiếp cận có thể bảo vệ động vật hoang dã “ vì
người nghèo”, chứ khơng phải bảo vệ “khỏi người nghèo”.
Các sáng kiến mới nổi nhằm ngăn chặn buôn bán động vật hoang dã
thường có cách tiếp cận đa chiều, có thể khái quát theo 3 hướng khác nhau
nhưng tương trợ lẫn nhau như “kiềng 3 chân”, bao gồm: Tăng cường thực thi
pháp luật và củng cố hệ thống pháp luật hình sự; Giảm cầu và tiêu dùng; Hỗ
trợ sinh kế và phát triển kinh tế bền vững ở địa phương.
Tuy nhiên, trên thực tế thì giải pháp “kiềng 3 chân” vẫn chưa giành
được sự chú ý xứng đáng. Chẳng hạn, Nghị quyết tháng 1/2014 của Nghị viện
châu Âu về tội phạm buôn lậu động vật hoang dã đã triển khai hơn 20 hành
động hỗ trợ thực thi luật nhưng chỉ có một hành động hỗ trợ cho sinh kế địa
phương. Điều này gây ra tình trạng mất cân bằng.
Bên cạnh đó, cũng có những khu vực quan tâm đến vấn đề sinh kế
nhưng lại ít chú trọng áp dụng các ưu đãi và các biện pháp sử dụng, kinh
doanh bền vững động vật hoang dã như một công cụ bảo tồn. Ngoài ra, các
chiến lược thực thi luật đã đề xuất có xu hướng khơng tính đến tác động của

các biện pháp trừng phạt trong thực thi luật đối với người dân địa phương và
cũng chưa tận dụng được kinh nghiệm của người dân địa phương trong bảo
tồn.
Ngoài ra, nguồn lực đầu tư cho công tác bảo tồn lồi cịn rất hạn chế,
các chương trình bảo tồn lồi chưa được quan tâm đúng mức. Tại các khu bảo

15


tồn, tình trạng khai thác trái phép các lồi ĐVHD vẫn diễn ra do mâu thuẫn
giữa đói nghèo, phát triển và bảo tồn.
Chính vì vậy, việc quan tâm thực hiện các chính sách an sinh cũng như
các biện pháp cải thiện, tạo sinh kế cho người dân là vô cùng quan trọng.
Điều đó dẫn đến sự cần thiết trong việc tuyên truyền các chính sách an sinh,
các biện pháp hỗ trợ cho sinh kế cho người dân.
Lợi ích mà người dân có được nên gắn trực tiếp với hiệu quả bảo tồn để
đảm bảo những lợi ích đó có thể giúp phát huy hiệu quả bảo tồn một cách
đáng tin cậy. Lợi ích có thể là động lực để thực hiện bảo tồn (như du lịch dựa
vào thiên nhiên, cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái, sử dụng động thực vật
hoang dã có điều kiện và được quản lý tốt) hoặc cung cấp nguồn thu nhập/
khẩu phần đạm thay thế giúp giảm động cơ săn bắn.
Sử dụng và bn bán các lồi động thực vật hoang dã có ý nghĩa quan
trọng về sinh kế trong khu vực, và nếu được quản lý tốt và trong phạm vi
pháp luật cho phép, có thể tạo động lực cho người dân tham gia vào công tác
bảo tồn sinh cảnh và bảo tồn lồi, cả các lồi khơng phải là đối tượng bị buôn
bán. Tạo liên kết giữa cộng đồng và thị trường, tạo giá trị gia tăng, tăng cường
tiếp cận thương mại với công nghệ và ý tưởng mới để tăng lợi ích từ việc sử
dụng và bn bán động thực vật cho cộng đồng địa phương là thách thức lớn.
Tuy nhiên, lợi ích từ việc sử dụng hợp pháp động thực vật hoang dã có thể
vẫn chưa đủ để làm động lực bảo tồn khi quyền hưởng dụng đất của cộng

đồng cịn chưa được cơng nhận một cách đầy đủ.
Tuy vậy, các hình thức sử dụng hay sinh kế thay thế được hỗ trợ cũng
cần phải phù hợp về văn hóa, được chính cộng đồng chọn lựa, tối ưu hóa
được lợi ích bảo tồn khi điều kiện cho phép, và hỗ trợ các hoạt động bảo tồn
và quản trị truyền thống. Các can thiệp phải xuất phát từ việc hiểu biết sâu sắc
về bối cảnh địa phương - mặc dù trên thực tế có nhiều nghiên cứu trường hợp
có thể chia sẻ và học hỏi, song khơng có “mơ hình nào có thể áp dụng lặp lại”
bởi các trường hợp khác nhau có thực tế khác nhau.
16


1.4.2. Việc thực hiện chính sách an sinh, một số biện pháp cải thiện,
tạo sinh kế cho người dân nhằm giữ gìn và bảo vệ động vật hoang dã hiện
nay
Gây nuôi động vật hoang dã là một trong những biện pháp để cải thiện,
tạo sinh kế cho người dân đồng thời bảo vệ đa dạng sinh học. Việc phát triển
các cơ sở chăn nuôi này không những đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần
giải quyết việc làm cho lao động tại các địa phương mà còn giúp duy trì, tăng
số lượng lồi động vật hoang dã, q hiếm trong tự nhiên. Đây là hoạt động
gián tiếp làm giảm áp lực của việc săn bắt, khai thác tài nguyên động vật
ngồi tự nhiên đồng thời có thể bảo tồn được các loài nguy cấp, quý hiếm đặc
biệt tại các cơ sở nhân ni với mục đích bảo tồn.
Kế hoạch hành động quốc gia về tăng cường kiểm sốt bn bán động
vật, thực vật hoang dã đến năm 2010 được ban hành trong bối cảnh hoạt động
buôn bán động, thực vật hoang dã đang phát triển mạnh ở Việt Nam. Kế
hoạch đã đáp ứng được nhu cầu cấp thiết nhằm định hướng cụ thể cho việc
quản lý, ngăn chặn buôn bán bất hợp pháp và thúc đẩy việc phát triển gây
ni, nhân giống các lồi ĐTVHD có giá trị kinh tế để đem lại thu nhập cho
người dân.
Trong Kế hoạch hành động có một mục tiêu quan trọng, nhằm đem lại

lợi ích cho cộng đồng từ các giá trị của đa dạng sinh học, đó là: “Gây ni
sinh sản nhân tạo các lồi ĐTVHD như một cơng cụ bảo tồn và xóa đói giảm
nghèo”. Nhưng thực tế, mục tiêu này chưa được thực hiện triệt để, ví dụ như
các cộng đồng sống quanh và trong rừng chưa được khuyến khích và hỗ trợ
thực sự trong việc phát triển nuôi, trồng các lồi ĐTVHD có giá trị kinh tế.
Tuy nhiên, hoạt động gây ni sinh sản, tự phát hoặc có quản lý đã phát triển
khá mạnh trong thời gian qua. Việc phát triển này một phần là do có các
chính sách phù hợp hơn hoặc thông qua một số điều chỉnh chính sách, cụ thể
như phân cấp đăng ký trại ni, xác nhận nguồn gốc, đơn giản hóa thủ tục...
Việc ni, xuất khẩu trăn, cá sấu, ếch phát triển nhiều ở một số địa phương
17


trong thời gian qua cho thấy chính sách về gây nuôi động vật hoang đã phát
huy mạnh tại nhiều địa phương giàu tiềm năng.
Về cơ bản, các chính sách có chú ý và đề cập đến quyền lợi khai thác
và sử dụng hợp pháp của người dân, có chính sách trợ giúp và khuyến khích
gây ni ĐTVHD. Nhưng do khơng có các hoạt động khuyến khích hoặc trợ
giúp thực sự, đặc biệt trợ giúp về nguồn giống (hợp pháp và có chất lượng ),
kỹ thuật và vốn để phát triển, nên việc thực thi cịn mang nặng tính thừa hành
pháp luật, chứ chưa chú trọng đến việc khuyến khích các khía cạnh tích cực
của việc kinh doanh, nhân giống và khai thác bền vững. Đối tượng thực hiện
các chính sách cũng đa dạng, có trình độ và điều kiện hiểu biết về thiên nhiên
và môi trường, đặc biệt là buôn bán ĐTVDH rất khác nhau, nhưng lại chưa
nhận được các hướng dẫn, tài liệu và đào tạo đầy đủ để thực hiện các chính
sách một cách hiệu quả.
Nguồn giống của các cơ sở gây nuôi chủ yếu là do các hộ tự thực hiện
thông qua mua, bán trao đổi giữa các hộ, nhiều khi xảy ra hiện tượng cận
huyết hoặc lai tạp với các phân loài khác làm phát sinh bệnh tật di truyền,
giảm sức sống và khả năng sinh sản ở các thế hệ kế tiếp. Do đa phần, việc gây

nuôi là tự phát nên kỹ thuật chăn nuôi chủ yếu theo kinh nghiệm, khơng có
tính khoa học nên các cá thể được chăn nuôi sinh trưởng, phát triển chậm
hoặc khơng có điều kiện vay vốn để mở rộng quy mơ chăn ni. Đồng thời
cơng tác phịng trừ dịch bệnh, phát triển đàn ni cịn nhiều hạn chế, yếu kém
cũng là nhân tố khiến việc gây nuôi gặp nhiều khó khăn. Chính sách đầu tư
trong gây ni động vật hoang dã chỉ mới dừng lại ở tập trung vào giải quyết
cơng tác quản lý. Ngồi ra, thị trường chưa được phát triển, chưa được vươn
xa thậm chí nhiều lồi ni khơng tìm được đầu ra.
Các chính sách của Nhà nước chưa đề cập đến việc hỗ trợ các hộ gây
ni ĐVHD về kinh phí nhằm mở rộng sản xuất, nhằm mục đích sản xuất ra
nhiều con giống đáp ứng nhu cầu của các hộ chăn nuôi ĐVHD thương phẩm.
Từ đó có nhiều sản phẩm cung cấp cho thị trường tiêu dùng, đồng thời góp
18


phần hạn chế khai thác bừa bãi trong tự nhiên.Khi sản xuất ra lượng giống
đáp ứng nhu cầu thị trường, thì việc các đầu nậu sẽ quay sang mua của nhà
chăn ni, mà khơng thể mua ĐVHD khai thác ngồi tự nhiên nữa vì giá cả
cao người bn khơng có lãi.
Nhà nước chưa đề cập đến vấn đề chính sách giao cho các cơ quan
nghiên cứu khoa học, nghiên cứu cụ thể tập tính, đặc tính sinh học cũng như
quy trình gây ni sinh sản những ĐVHD q, hiếm. Để từ đó chuyển giao
cho các hộ gây ni, nhằm giải quyết việc làm đang dư thừa rất lớn trong khu
vực nơng thơn.
Chính sách của Nhà nước chưa cụ thể về việc thưởng cho những người
cung cấp thông tin về việc khai thác ĐVHD trong tự nhiên. Vì vậy chưa
khuyến khích được cộng đồng dân cư giám sát, phát hiện cung cấp tin cho cơ
quan chức năng ngăn chặn kịp thời tệ nạn khai thác tùy tiện động vật, thực vật
trong môi trường hoang dã.
Để việc quản lý, bảo tồn và phát triển gây ni động vật hoang dã có

hiệu quả cần phải quan tâm, chú trọng một số giải pháp như: Chấp hành quy
định của pháp luật trong hoạt động gây ni, tạo mơi trường thuận lợi, có
chính sách hợp lý để hỗ trợ các trại nuôi, cơ sở nuôi phát triển. Quy hoạch
vùng nuôi động vật hoang dã quy mơ hộ gia đình, tìm kiếm thị trường tiêu thụ
đặc biệt là xuất khẩu. Phát huy lợi thế, lựa chọn lồi ni, tạo ra các sản phẩm
có tính cạnh tranh cao, nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội để phát triển một nền
chăn nuôi bền vững. Đồng thời, phát huy tối đa tiềm năng về điều kiện tự
nhiên, nguồn lao động và kinh nghiệm nuôi động vật hoang dã, chú trọng các
lồi ni lợi thế, chuyển từ gây ni phân tán mang tính tận dụng quy mơ nhỏ
sang gây ni sản xuất hàng hóa với quy mơ phù hợp với điều kiện kinh tế, kỹ
thuật và nhu cầu tiêu thụ, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật đặc biệt là công tác
giống, thức ăn chăn nuôi, công tác thú ý… để đẩy mạnh năng suất, chất lượng
và hiệu quả kinh tế cao.

19


Bên cạnh đó, việc xây dựng các khu bảo tồn động vật hoang dã, các
khu du lịch sinh thái cũng đã và đang phát huy được vai trò trong bảo tồn đa
dạng loài, quần xã sinh vật và hệ sinh thái, góp phần giữ gìn được nhiều lồi
động, thực vật quý hiếm, đồng thời tạo công ăn việc làm, hỗ trợ và giúp người
dân có thêm nhu nhập.
Để thực hiện được tất cả những điều đó, tất yếu phải có những chính
sách an sinh, các biện pháp hỗ trợ, đặc biệt là những chính sách hỗ trợ về vốn
từ phía Nhà nước. Nhà nước cần ban hành một số chính sách ưu đãi về vay
vốn, hỗ trợ kỹ thuật cũng như cung cấp thơng tin, nhân rộng các mơ hình nuôi
động vật hoang dã đạt hiệu quả kinh tế nhất là các lồi q hiếm trên tồn
quốc. Khuyến khích người dân tham gia gây ni, phát triển thêm nhiều mơ
hình, vừa mang lại hiệu quả kinh tế vừa bảo vệ nguồn tài nguyên động vật
hoang dã trong thiên nhiên, góp phần bảo vệ đa dạng sinh học.

Tuy nhiên, việc xác định các phương án sinh kế tạo đủ thu nhập để có
thể cạnh tranh với thu nhập trái pháp luật từ buôn bán động thực vật hoang dã
là một vấn đề khá khó khăn, đặc biệt là khi những người liên quan khơng có
kỹ năng/năng lực để thực hiện những sinh kế thay thế đó.
Vì vậy, cần huy động sự tham gia của tất cả cộng đồng trong công cuộc
giữ gìn và bảo vệ động thực vật hoang dã. Các can thiệp cần xây dựng cơ chế
chia sẻ lợi ích công bằng và minh bạch trong cộng đồng, bao gồm cả đối với
phụ nữ; cơ chế tuân thủ hiệu quả (cho cả các nhóm cá biệt trong xã hội); và
trách nhiệm giải trình rõ ràng cũng như cơ chế quản lý tài chính rõ ràng. Một
số trường hợp đã cho thấy nếu chuyển lợi ích cho phụ nữ chứ khơng phải là
nam giới sẽ hỗ trợ hiệu quả các can thiệp đạt được thành công về lâu dài. Việc
đổi mới sáng tạo về sinh kế ở địa phương (lâm nghiệp cộng đồng, du lịch sinh
thái, doanh nghiệp hoạt động liên quan đến động vật hoang dã) còn bị hạn chế
bởi nhiều ràng buộc ở các cấp quyết định và sự tùy ý ra quyết định của họ. Để
đánh giá một can thiệp sinh kế có mang lại lợi ích gì về bảo tồn hay khơng,
thì ngay khi lập kế hoạch cho can thiệp đó khơng nên chỉ nhìn vào tiềm năng
20



×