Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Phát hiện sớm và đúng bệnh tay - chân - miệng potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111 KB, 6 trang )

Phát hiện sớm và đúng bệnh
tay - chân - miệng




Virut đường ruột là nguyên nhân chính gây bệnh

Trước đây, rất ít người quan tâm đến bệnh tay chân miệng vì được biết
đến do virut Coxsakie A16, một týp rất lành tính gây ra và người bệnh tự
khỏi sau vài ngày. Nhưng gần đây các nhà nghiên cứu mới phát hiện ra
virut Entero 71 và một số týp virut khác cũng gây ra bệnh tay chân
miệng. Các tác nhân này nguy hiểm hơn virut Coxsakie A16 rất nhiều,
đặc biệt là virut Entero 71 có thể gây biến chứng ở não và tim. Khi biến
chứng bệnh nhân có thể tử vong trong vòng 24 giờ.

Virut Entero 71 là một loại virut đường ruột, gây bệnh chủ yếu lây
nhiễm qua đường tiêu hóa, trực tiếp phân - miệng hoặc gián tiếp qua
nước, thực phẩm, tay bẩn bị ô nhiễm phân người bệnh. Một số ít
trường hợp được ghi nhận lây lan qua đường hô hấp. Sau khi xâm nhập,
virut đến cư trú tại họng và đoạn dưới của ống tiêu hóa. Trong vòng 24
giờ, chúng sẽ xâm nhập vào các hạch bạch huyết tại chỗ và tăng sinh tại
đây. Giai đoạn này, virut được tìm thấy trong dịch cổ họng và trong
phân của bệnh nhân. Bệnh thường xảy ra vào mùa hè thu và gần như
quanh năm ở các nước nhiệt đới, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, phổ biến ở
trẻ dưới 4 tuổi. Hội chứng này mới được chú ý ở Việt Nam trong vài
năm gần đây và thường bùng phát thành dịch mạnh ở các tỉnh phía Nam,
ít gặp hơn ở các tỉnh phía Bắc.

Biến chứng viêm não có thể dẫn đến tử vong


Bệnh tay chân miệng do virut Entero 71 gây ra có những triệu chứng ban
đầu như sốt nhẹ, sưng miệng, nổi bong bóng nước to khoảng đầu đũa,
màu xám, đỏ hình ô van ở vùng mông, gối, lòng bàn tay, lòng bàn chân
và thường ấn không đau. Bong bóng nước còn xuất hiện trong miệng,
khi vỡ ra gây những vết loét trong miệng. Một số trẻ có kèm nôn ói, tiêu
chảy ngay khi nổi bóng nước hay khi bóng nước đã xẹp. Những triệu
chứng này khiến nhiều bác sĩ chẩn đoán nhầm là bệnh thủy đậu, nhiễm
khuẩn da hay dị ứng

Sau khi xâm nhập vào cơ thể, đến ngày thứ 3, virut từ các hạch theo máu
đến gây tổn thương tại da, niêm mạc, tiếp tục sinh sản rồi gây những
triệu chứng đầu tiên. Các tế bào dưới da và niêm mạc phình to, chứa
nhiều dịch tiết, gây hoại tử, phù trong tế bào và quanh tế bào. Tổn
thương chủ yếu ở các vùng miệng, tay và chân. Sau khi gây tổn thương
da, niêm mạc, virut không nhân lên nữa, cơ thể xuất hiện kháng thể và
hiện tượng nhiễm virut chấm dứt. Ở một số trường hợp, virut từ da, niêm
mạc trở vào máu lần thứ 2 để đến hệ thần kinh trung ương gây viêm não,
viêm màng não, liệt. Đồng thời, cơ thể sản xuất kháng thể và virut ở da,
niêm mạc biến mất. Tuy nhiên, virut ở đường ruột có thể hiện diện kéo
dài đến 17 tuần.

Trẻ nhỏ có thể có ban dạng sẩn vùng mông, nơi quấn tã lót. Trong giai
đoạn diễn tiến, khi virut gây bệnh xâm nhập hệ thần kinh trung ương, trẻ
sẽ xuất hiện triệu chứng rối loạn tri giác như lơ mơ, ly bì, mê sảng hay
co giật, có nhiều trường hợp trẻ có mạch nhanh nhưng không sốt cao,
yếu tay chân, méo miệng. Bệnh nhi có thể tử vong hoặc phục hồi sau
một thời gian điều trị, nhưng vẫn còn những rối loạn tâm thần kinh kéo
dài.

Phòng bệnh là biện pháp cơ bản


Nếu bệnh do các virut lành tính gây ra, bóng nước tự xẹp đi, bệnh có thể
tự khỏi sau 5-7 ngày. Nhưng nếu bệnh do virut Entero 71 gây ra thì có
thể bị biến chứng rất nguy hiểm là viêm não, viêm cơ tim, viêm màng
não, nhiễm khuẩn huyết rất dễ dẫn tới tử vong. Trẻ mắc hội chứng chân -
tay - miệng thường khỏi trong vòng 1 tuần nếu được điều trị đúng cách,
không có biến chứng. Nếu không được điều trị đúng cách hoặc diễn tiến
nặng, bệnh sẽ gây những biến chứng rất nặng.

Có những trường hợp mắc bệnh tay chân miệng nhưng rất ít các triệu
chứng hoặc không có các biểu hiện dễ nhận thấy như nổi bóng nước, nên
nếu thấy trẻ có những triệu chứng bất thường kể trên cần nhanh chóng
đưa trẻ đến bệnh viện. Gia đình phải theo dõi sát sao trẻ ít nhất trong 8
ngày sau triệu chứng đầu tiên để phát hiện ngay các dấu hiệu biến chứng
và đưa trẻ đến bệnh viện để được điều trị kịp thời.

Do đa số bệnh tay - chân - miệng sẽ tự khỏi nên đối với trường hợp
không có dấu hiệu của biến chứng có thể điều trị tại nhà bằng thuốc
giảm đau, cho trẻ ăn thức ăn lỏng, dễ tiêu, cố gắng cho trẻ ăn thành
nhiều bữa.

Hiện nay bệnh tay - chân - miệng chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và
chưa có vaccin phòng ngừa nên cách phòng bệnh tốt nhất là bảo đảm vệ
sinh trong ăn uống, cá nhân cho trẻ thật tốt. Cho trẻ ăn uống đầy đủ
dưỡng chất, uống nhiều nước. Không cần kiêng gió và ánh sáng. Nên
cho trẻ mắc bệnh nghỉ học và không cho tiếp xúc với trẻ khác để tránh
lây lan bệnh.




Hướng dẫn điều trị tay chân miệng mới của Bộ Y tế cụ thể hơn

Dấu hiệu điển hình của bệnh tay chân miệng là nổi phỏng nước ở lòng
bàn tay

Bệnh tay chân miệng là bệnh truyền nhiễm lây từ người sang người, dễ
gây thành dịch do vi-rút đường ruột gây ra. Bệnh lây chủ yếu theo
đường tiêu hóa. Nguồn lây chính từ nước bọt, phỏng nước và phân của
trẻ nhiễm bệnh.

Hai nhóm tác nhân gây bệnh thường gặp là Coxsackie virus A16 và
Enterovirus 71 (EV71). Biểu hiện chính là tổn thương da, niêm mạc
dưới dạng phỏng nước ở các vị trí đặc biệt như niêm mạc miệng, lòng
bàn tay, lòng bàn chân, mông, gối. Bệnh có thể gây nhiều biến chứng
nguy hiểm như biến chứng thần kinh: viêm não-màng não, viêm cơ tim,
phù phổi cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện sớm và xử trí
kịp thời. Các trường hợp biến chứng nặng thường do EV71.

Bệnh tay chân miệng có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở trẻ
dưới 5 tuổi, đặc biệt tập trung ở nhóm tuổi dưới 3 tuổi. Các yếu tố sinh
hoạt tập thể như trẻ đi học tại nhà trẻ, mẫu giáo, đến các nơi trẻ chơi tập
trung là các yếu tố nguy cơ lây truyền bệnh, đặc biệt là trong các đợt
bùng phát. Bệnh gặp rải rác quanh năm ở hầu hết các địa phương. Tại
các tỉnh phía Nam, bệnh có xu hướng tăng cao vào hai thời điểm từ
tháng 3 đến tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 12 hàng năm.

Giai đoạn khởi phát bệnh từ 1-2 ngày với các triệu chứng như sốt nhẹ,
mệt mỏi, đau họng, biếng ăn, tiêu chảy vài lần trong ngày. Tiếp đến là
giai đoạn toàn phát: Có thể kéo dài 3-10 ngày với các triệu chứng điển
hình của bệnh như loét miệng. Trong miệng trẻ xuất hiện vết loét đỏ hay

phỏng nước đường kính 2-3mm ở niêm mạc miệng, lợi, lưỡi, gây đau
miệng, bỏ ăn, bỏ bú, tăng tiết nước bọt. Trẻ cũng nổi ban phỏng nước ở
lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông; tồn tại trong thời gian ngắn
(dưới 7 ngày) sau đó có thể để lại vết thâm, rất hiếm khi loét hay bội
nhiễm. Ngoài ra, trẻ có thể sốt nhẹ, nôn Đặc biệt với những trẻ sốt cao
và nôn nhiều dễ có nguy cơ biến chứng nguy hiểm như biến chứng thần
kinh, tim mạch, hô hấp thường xuất hiện sớm từ ngày 2 đến ngày 5 của
bệnh.

Để chẩn đoán các ca bệnh tay - chân - miệng, cán bộ y tế cần dựa vào
triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học, như căn cứ vào tuổi, mùa, vùng lưu
hành bệnh, số trẻ mắc bệnh trong cùng một thời gian và các nốt phỏng
nước điển hình ở miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông, kèm
sốt hoặc không. Còn để chẩn đoán xác định cần xét nghiệm RT-PCR
hoặc phân lập có vi rút gây bệnh.

Ở phác đồ điều trị mới, phân độ lâm sàng của bệnh được chia cụ thể, chi
tiết hơn. Phác đồ điều trị bệnh tay chân miệng chỉ chia 4 cấp độ, thì ở
phác đồ điều trị mới, ở cấp độ 2 được Hội đồng chuyên môn họp bàn và
chia làm hai cấp độ là 2a và 2b. Các biểu hiện bệnh của từng cấp độ
cũng được chỉ ra một cách chi tiết hơn, giúp nhận biết tình trạng bệnh
một cách dễ dàng hơn.

Bộ Y tế cho biết, do chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, nên các trẻ bị tay
chân miệng chỉ điều trị hỗ trợ (không dùng kháng sinh khi không có bội
nhiễm). Theo dõi sát các bệnh nhi để phát hiện sớm và điều trị biến
chứng. Đồng thời phải bảo đảm dinh dưỡng đầy đủ, nâng cao thể trạng.
Tiếp tục cho trẻ bú mẹ, ăn đồ ăn loãng, uống thuốc hạ sốt, vệ sinh răng
miệng, nghỉ ngơi, tránh kính thích.


Phác đồ mới cũng quy định, từ độ 2ª trở đi, trẻ cần nhập viện điều trị và
theo dõi sát để phát hiện các dấu hiệu chuyển độ. Cách điều trị trong
từng giai đoạn bệnh cũng được hướng dẫn chi tiết, cụ thể hơn với từng
nhóm bệnh để cán bộ y tế có thể theo dõi, đánh giá việc dùng thuốc có
hiệu quả không để kịp thời điểm chỉnh thuốc theo phân độ của bệnh,
giảm tối đa nguy cơ biến chứng cho trẻ.

Các phụ huynh cần lưu ý tái khám mỗi 1-2 ngày trong 8-10 ngày đầu
của bệnh. Trẻ có sốt phải tái khám mỗi ngày cho đến khi hết sốt ít nhất
48 giờ. Cần tái khám ngay khi có dấu hiệu sốt cao ≥ 390C; thở nhanh,
khó thở; giật mình, lừ đừ, run chi, quấy khóc, bứt rứt khó ngủ, nôn
nhiều; đi loạng choạng; da nổi vân tím, vã mồ hôi, tay chân lạnh; co giật,
hôn mê.

×