Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Đọc lại truyện kiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.6 MB, 167 trang )

ĐỌC

LẠI

TRUYỆN

ti Ss




HẠNH
+

BOC LAI
TRUYEN . KIEU
kỷ
._

niệm

201

nim sinh

Nguyễn

Du

Bìa tà phụ bản của Thái Tuần, Hồ Hải trình bày


cAOTHO'M
1966


Thác

... thững đểng tài hoa
là thủ phách, cịn là tính
BOAN-TRVONG
+

anh,

TAN-THANH


LO!

N

Ó I

ĐÐ

Â

U

Ù đấu, nễt đoạn trường kia ed đử thịt xương hiện


dân gian, sò chúng ta nghe tiếng cười bỗng
nhiên lạnh lêo: thấu giọi nước mắt bỗng nhiên long
lanh. Từ đấu. tải nhục cùng dới dọa day đã biết bêu gào
thăng thiết hơn bao giờ hết. oọng đến chỗ sáu thầm nhất
của đáu hồn la, gà ta chổi đậu, biết răng chung quanh
chỗ ngồi thấp sáng leo lét bằng chúi máu lủu của mình,
dẫn cần máng
quần

mênh

oũng tối âm u của

những

hiếp

người

gual.
Thành kính

cẩm tạ Nguuễn

đân lặc Ía. người đã nượi thod!
hẹp cdo đời nho sĩ rêu phong.
tha nhân, gấp phần giúp la
thủng đau khô của những đồng

Da,


thiên tài lỗi lạc cửa

khdi những lũy thành chải
đề chỉa nỗi niềm đau bhồ
lớn mạnh trong mối cảm
bao. déng lagi.

Người đã thồi dào oần điệu dân tộc một luồng sinh
lực phí lhường đề nó băng dượi không gian mà ải, xuyên
suốt thời gian mà sống. chuuền thành hơi thé ngân nga
của những cụ giá mái lóc bac thau đến những em bé
liếng còn ngọng nghịu., hòa dới lời thơ bác học, chung

7


0ới điệu hái bình

dân.

nói thơng thường quen

Trên

cánh

thuộc

đồng


bái ngái

của lếng

gới đời

dân lộc. người đã
đựng nên một tịa lâu đài ngơn ngữ nguy ngữ. chuyền
đậu một đính nghệ thuật i oọi, đề rồi lừ đấu, ngôn từ
chúng ta chắp

thêm cánh đẹp 0ề nẻo cao dời

Thành kính cảm tạ Nguyễn Du,

thiên tai trắc luụệt

của đân tộc fa, người đã tiếp thu xứng đáng tính hoa
ngơn ngữ bao đời đề trao cho ta một niềm tin lưởng. một
nỗ! tự hào đối 0ới tếng nói chúng la, tiếng nói đã được
cơng người góp phần

trau

thanh lao. tươi

cánh biếc

thêu


như

luuện

cho

lầm

thêm

uuần

xuân,

qui hơn

chuuền;

gam

châu ngọc.
Thành kính cẩm tạ Nguyễn

Du, thiên tài rất lớn: “ht

dep cda may ngan ndm odn hoc ching tar thanh kinh cam
lạ ơn người đã giúp chúng ta khỏi nỗi bơ oo trong cối

tâm tình nhân loại khồ đau, khỏi nổi ngờ


ngác: lạc

loài

giữa sự tấp nộp của những phổ phường ăn nghệ nếm
châu bến biền. Chúng ta đã có Nguyễn Du là đã có một
chứng lích uăn học tuyệt dời & trong qud khứ, đã có
Nguyễn Du là đã có một quuền năng ăn học lương lais
Người Uiệt chúng ta ngàn đời ghỉ nhớ công ơn của
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi Nguyễn Huệ, những khuôn

mặt hảo hùng bộc nhất của giống nồi, thì cẩn cịn ghỉ nhớ
mãi cơng ơn Nguuễn Du. khuôn mặt tai hoa bậc nhất

của nền dn hoe cồ điền Việi-nem.

§


Trên chến bàn thờ lường niệm. con cháu nghèo nàn
không sao có đủ lễ oậi rỡ ràng. Với những cành hoa
thiểu đất chấm nom tự mình phải dem trang trot rai rắc 0ào
trong

cảnh

oườn

của


người

có hằng

đề

hạ

thiên

nắm

tưởng nhớ đến Người, bâu giờ góp lại thành một nòng
hoa, lỄ mon của lòng ghi ơn đổi oới Thiêmlài. Bà ào lá
úa; hoa làn, là mổi thành tam nguyén ven cia kẻ hậu sinh
Đáng lễ phụ họa dào ngàu lễ lớn cùng oới đồng bào
toàn quốc:

cùng dới dân tộc bến phương

năm ngàu

sinh nhật

điều

những

tÀì


Thiên-lài,

khan: mực biếm, điện lắi, thợ ra
cơng trình đến mãi năm naụ mới
ta bử niệm hai trắm lẻ một năm sinh
.mới chịu đoạn trưởng, mà đến giấu

hai tram

kủ niệm

hiện

giấu

chiến trường: trì hoắn
được hồn thành, hóa
! Khơng chỉ thế nhân
bút cũng ở lrong tùng

dâu bề, $ con mắt trơng thấu cả sáu cối. tấm

lịng nghĩ

suốt

có xót xe

cổ


ngàn

đời » * của

Nguyễn

Tổ-Như

chăng cho cảnh tình này 0 |
Sải-.gịn,



+

Đường

Be

chủ

tya

nhân

Đoạn trường Tin- hạnh
ở đời

Minh


Mạnh,

« Ta lúc nhàn đợc hết cả mật lượt,

Phong

Tiêa

có viết

1-10-86

HẠNH

+

mới lấy lầm

lạ

Mộng

Liên

rằng

: Tả.

Như Tử dụng tấm dk khề, tự sự đã kháo, tả cảnh đã hột, đầm

đã thiết, nếu khơng phải có con mất trơng thâu cả sáu cối, tấm

nghĩ suất cả ogân đời, thì tải nìo có cái bút lực ấy, »

tỉnh
lồng


ĐÔI MẮT NÀNG VÂN, NÀNG KIỂU

1 thăm người đàn bà đề tỉnh công việc trăm
năm, ngày xưa ta thưởng quen bảo là
«

coi mắt

vợ». Đáng

lễ gọi

là coi mặt,

Khơng những coi mặt người ta cịn coi cả
mũi, cả vừa mình mầy, tử chỉ. Ấy thế mà tiếng
« coi mắt » vẫn

bây giờ.

cịn


Điền đó cho

chừng nào. Tưởng

giả

trị thơng

thấy con

chỉ nhìa vào

dụng

cho đến

mắt quan trọng

bấy

nhiêu



trong thấy hết con người.
Kề ra con mắt cũng đáng sợ thực. Cái miệng

đôi khi gầm thét tưng bừng mà hai con mắt khơng

chịu can thiệp Ít nhiều nộ khi thì chẳng có đứa

trẻ nào khỏn ngoan tổ ra khiếp hãi vài phân.
CỒ úch Việ-Nam có chuyện một người phù thủy
đại tài bị vua trị tội bắt thắt cồ chết, ông ta cầm

đếnt
dây lụa ấy thắt một con rồng. Khi linh ập
vụ,
rồng

thế
ông vội ;ầm bút vẽ vào đôi mắt,
il


bay lên. TẤL nhiên bay luôn cả ông phù thủy. Qua
câu chuyện Ấy người ta có thể ghỉ nhận điều này :
sự bay không thuộc khả năng quyết định của cánh,
của lịng, mà thuộc về phần đơi mắt. Cho đến sự
trôi cũng vậy: những người sống bằng đường nưởc,
mỗi khi đóng xong một chiếc ghe thuyền, sơn phết
kỹ càng, thế mà vẫn chưa hạ thủy nến chưa điềm
nhãn. Về xong đơi mắt cho ghe là ghe bắt đầu lướt
sóng, cố nhiên vẫn có người chèo.
Con mắt ơng thầy, con mát chủ nhân, con
mắt lương tâm, những mắt là mắt. Nghĩ mà thương
cho chiếc mỗi, đơi tai, những món kềnh càng lồ
lộ ở trên đầu số mà xem uy tín khơng nhiều. Con
mắt là tấm gương soi phẫn chiếu linh hồn, con mắt
mới thực


biêu hiện sự sống

nội tâm nhân vật,

Nhưng thoạt nhìn vào Thủy Vân :

Khn trăng đầu đến,
ta khơng thấy mắt, chỉ thấy
khn mặt no đầy, trịn trịa.
Cịn Kiều, Nguyễn Du nẵn
Lan thu thủu, nét xuân
thì mắt và mày đủ bộ.
x
13

nét ngài nở nang.
lông mày và cải
not ta rang +
sơn.


Thúy
là nghĩa
vẫn thấy
chồng và

Van cũng đẹp là thể, mà
làm sao ? Nàng vẫn du
chàng Kim và nép dưới
đi theo chồng ngàn dặm,


khơng có mẤt
xn, tảo mộ,
hoa, vẫn đi lấy
đâu cần dắt tay

chống gây bao giờ ? Nguyễn Dn lại là một bậc thiên
tài quản xuyến, đã từng nghĩ đến cạo râu nhẫn

nhụi cho Mã Giám Sinh, vuốt nếp áo khăn dịu đàng

cho một Sở Khanh, lẽ nào lại quên điềm
một cơ nàng xinh

tươi,

phúc

hậu,

nhãn cho

đã vì món

của Kiều mà chịu đại thọ chang Kim tron kiép ?

nợ

Không, chủng ta đều biết Thủy Vân chẳng phải


là một cơ gái mù lịa. Và thi sĩ Tố Như chẳng phải

là một thiên tai vô ý.

Thủy Vân có mắt, điều ấy thực hiền nhiên rồi.
Mắt nàng chắc hẳn là đôi mắt đẹp, đôi mắt bồ-câu,
là đơi mắt phượng, hay bình đân bơn, đơi mắt lá
rim. Mat nang chắc sáng, chắc đen, long lanh, tỉnh
tứ. Nhưng đôi mắt nàng chỉ là đôi mắt nằm trên
khuôn mặt đề làm đầy đủ lệ bộ của một khung
diện mà thơi. Nàng có nhìn thực, và có thấy thực,

nhưng nàng chỉ nhìn, chỉ thấy bằng con mắt khắc
của người, Nấm mộ bên đường hoang lạnh, nàng

cũng nhìn thấy như cậu Vương Quan, như nhiều
kẻ khác hững hờ, Kim Trọng phong nhã, hào hoa,

13


nắng cũng nhìn thấy như bao cơ gái thùy mị, hfền
lanh ở trong khung cửa, Cho đến gia biến của nàng,
toi boi, tan tac, nàng cũng nhìn thấy như khả
nhiều kể vô tư êm đềẽm say một giấc xuân Nàng
thấy, hay nàng khơng thấy, điều đó vẫn khơng

gì đồi khác, Nàng

khơng đồi khác


thấy hay người

gì đâu,

Chính vì thấy như khơng
cười khi nhìn Thúy Kiểu :

khác thấy, vẫn

thấy,

mà nàng nực

Khẻo ch nước mất khóc người đời xưa †

thấy như người khác, mà nàng lấy chồng do người

chị đã chọn nên. Cố nhiên, đó

là những thể cách

nói để tránh mội tiếng tĩnh từ đơn giản gân định
quả đễ cho nàng, Những một cơ gái, sau cơn gia
biến

thẩm

thương,


ngủ

vùi

một

giấc,

rồi chồng

tỉnh đậy thấy chị ngồi khóc bên đèn lụn bắc một
mình, buột miệng hỏi ring:
Cứ saa ngồi nhẫn tàn canh ?
thì thực giản dị, vơ tình nhiều q. Ngày sau. khi
khi lấy chàng Kim, sống mười lắm năm duyên nợ,"
mà buồi tái ngộ vời Kiều, nàng đã nói về tấm lịng

u Kiều của kể chung chăn chung gối với mình
trong bấy nhiêu lâu :

14


Những

lá rủp woe mail ao,

Mười lăm năm ấu biết bao nhiêu tình.

thì thật hết sức thản nhiên, lạnh lễo, tưởng như

khơng cịn giữ riêng cho mình một chút tự ái, một
tỉ nhiệt tình,

cam

Cải

nhìn Thủy Vân hiền lành, có

chịu đảng thương

nhưng

một vé gi

không tránh được

một sự dé dang đáng ghét. Đôi con

mắt ấy phỏng

ra tia nhìn là đề rap theo ý tỉnh kể khác, miễn ý

tình Ấy thuộc về lẽ phải hiền nhiên, thuộc về trật
tự đã được cuộc đời chấp nhận. Sự rập theo ấy

hoàn toàn thụ động, như đúc theo khuôn, khiến ta

tưởng lầm tâm hồn của nàng vốn là một chất bột
"nếp đã Auge ray loc min mang, Nhu thể, phong

nàng có mắt hay khơng, điều ấy thực khơng lấy
gì quan hệ. Nàng đâu.cần nhìn, nàng đâu cần thấy ?

._ Xã hội, gia đình, luân lý, trật tự đã nhìn thay thế

cho nang một

cách bình n như khơng

có nàng, có sự phản ửng của

hề biết

nàng. Và ` sự

tuân

phục chính đảng của nàng có thề làm ta cảm động
nhưng chưa đủ làm

cho ta kính yêu, tuy cỗ làm

ta vên lịng nhưng khơng làm ta gần gũi. Bởi vậy,
suốt trong tác phầm, không hề thấy Thúy Vâa
cười, không hề thấy Thủy Vân khóc, Chúng ta no

15.


ước chừng mội giọt lệ, chừng nửa nụ cười và

khuôn trăng sể bớt đầy đặn, mày ngài sể kém
nang, đề chia xẻ bớt chung ta những nỗi ưu
phiền muộn, cùng những cổ gắng, hy sinh.
Có lề Vân đã nhường mắt cho Kiều, Vì

mỗi

một mình Riều

ở trong tác phầm

cái
nở
tư,
chỉ

có đơi mắt

sáng, mắt đẹp lạ lùng. Cặp mắt ấy có nhần lực
tuyệt vời, nhin được chiều sâu thăm thẩm, tưởng
chừng

vạch được màu xuân tươi tốt ma

soi than

vào tận đáy mồ hoang để thấy nỗi niềm cơ độc xót

xa của một kiếp người. Cặp mắt ấy nhìn thấy
được liên hệ giữa người và la, giữa cái đã qua và

cải sẽ đến :

Thấu người nằm đó, biết sau (hế\ntảo ?

Cặp mắt khảm phá tỉnh u, chọn lấy con
đường, khơng chịu hưởng những tia nhìn về các

lối cũ, đường

mòn. Cặp

mắt đã khiến cho Riều

gọi hồn ma dậy kết làm chị em, đã khiến cho Kiều

đi tắt về khuya} bắt vừng trăng bạc chứng giảm
lời thề. Cặp mất biết khóc, biết cười, biết nhìn,
biết liếc, biết nhắm, biết mở, trẻo tường mà đi,
lao đầu xuống nước, cặp mất an tình khơng qn
kể đã giúp minh trong cơn

trọng không muốn chia niềm
16

boạn nạn, cặp mắt

tự

chăn gối voi ké ma



minh kinh véu,

Thúy Kiều quả có đơi mắt, và đơi mẮt nàng

khơng chỉ đề thấy mà. cịn đề biết, khơng chỉ ngắm

nhìn mà cơn khám pha, khong chi tiếp thu mà cịn
phản ứng. Đơi mắt ấy biết lựa chọn, đã biết vâng

lời và biết chối từ, Khơng chỉ có cái chiều sâu
thăm thẩm soi thấu đáy mồ, soi thấu đáy lịng, đơi

mắt nàng

Kiều cịn

có chiều

rộng bao

la gói hết

những người đau khồ, có cả chiều cao vịi
của những hy sinh chua xót lạ lùng.
Thủy Kiều đã sống,

dám

voi


sống, đã yêu, dám

yêu, Thủy-Kiều đã biết đòi hỏi và biết hy sinh. Tuy

nhiên, nàng đã cho nhiều và nàng nhận ít, nàng
đã xác định được mình, tố cáo được đời,
Đơi mắt Thúy Kiều, đó là hai viên ngọc quý.

- Đối mắt đẹp hơn dang núi mùa xnân, trong hơn
sóng nước mùa thu, Ngưyễn Du có lễ muốn tả
nhiều hơn như thế, nhưng ý muốn xưa nay vốn
thật vô cùng mà chữ nghĩa xưa nay vẫn là hữa
bạn.

17


DUA CON CỦA NÀNG KIỂU TA con cia nang Kiều ! Đó thực là một
1}

đề tài thuộc loại giựt gân, thích hợp cho

một tờ báo hàng ngày ! Nhiều người tự

hỏi: « Nàng Kiều nào có con đâu ? Làm
nàng có con cho được ? »

Trước đây


câu :

cũng đã có

người

sao



tinh quai dem

Thal kinh nàng chửa biết là làm sao.
ở trong truvẻvn Kiều thêm vào hai cái dấu phết
ở sau Hếng kính, tiếng chứa, đề cổ giải thích rằng
Kiều mang thai sau khi mất đường kinh nguyệt.
Những một tỉnh thần xuyên tạc khơn ngoan đến
mức

vẫn

dộ ấy dù có làm cho nàng Kiều ốm,..

chưa đủ giúp cho

Nhưng chuyện
khó khăn đến nỗi
đầu hàng? Suốt cả
gỡ khơng biết bao


Kiều có một đứa

nghén

con,

để con đâu phải là điều hết sức
một người như Kiều đành phải
quãng đời lưu lạc, Kiều đã gặp
người, vậy mà chẳng chịu để ra

một đửa con nào. Nếu nang sinh hạ được một Thúc

Sinh nho nhỏ, hay một

Từ

Hải con

con,

thì vui

khong biết bao nhiêu. Có kẻ lại bảo « Kiều là nhân

18


vật tiều


thưa

thuyết,

: Tuy



hơi đản

nhân

vật

mà nghĩ vẫn vớ 2» Nin

tiêu

thuyết

nhưng

chính

tiêu thuyết đã chọn lấy nàng ở trong cuộc đời
đem

nàng vào cuộc đời, chúng

ta có thể bán


về nàng như một đồng loại có những vấn

ta, gần gũi



Rhoắn

đề của

với la,

Chúng ta biết Kiều không phải là kế siang hồ

tự nguyện, nàng vần luôn luôn chống lại cuộc đời
tủi nhục mà nàng đã phải sa chân vào đấy bai lân.

Vậy thì khong chắc gì Kiều đã tìm mọi cách đề cho
đời mình khỏi phải sinh nở, nàng cũng không thể
ap dung những thứ thuốc men phô biến ngàynay
đề mà hạn chế sinh sẵn! Lại xét về mặt sức khỏe,

Kiều khơng có triệu chứng gì tổ ra là nàng hiếm
hoi về đường tử tức. Trước đây, có nhà phê bình

bẢo nàng mắc

bệnh ủy-hồng thường chẩy nước


mắt trong veo, nhưng thực chưa cô sách sản khoa
nào chứng minh rằng sự chẩy ra nước mắt ở irên
lại có ảnh hưởng sâu xa ở dưới như vậy, Khơng

chừng mấy người đa cẩm lại để dồi đào

nên.

Chúng ta vêu mến nàng Riền,

muốn

cũng

nàng có

con, Ít nhất clng là một đứa, Có con đề nàng cắm
thấy được niềm an ủi, đề nàng săn sóc, xây

tg


dựng cho

nó, thấy sự sinh hóa lưu tồn của cả

nhân mình trong hình thề khác. Đối với những
người đàn bà hiền thục, cô con là một niềm vụi rất
lớn. Vậy mà Kiều chẳng có con là bởi vì đâu ?
Tất nhiên ai cũng có thể trả lời : đó là lỗi

của Nguyễn Du. Nếu Kiền có con, dù có với ai,
thì cái sự nghiệp văn chương của cụ Tiên Điền
kề như tàn rồi. Có con, chắc Kiều khó lịng mà
đấn thân vào trên bước phiêu lưu, khó lịng nhảy
xuống giữa sơng Tiền-Đường. Là người có một căn
bản đạo đức vững vàng, Kiều khong thé nao pho
mặc con mình cho người thiên hạ, hoặc bỏ giam
nó vào trong một viện cơ nhỉ !

Nguyễn Du chỉnh thực là người đã hạn chế
đường sinh nở của Kiều đề cho ngịi bút của mình
khỏi lâm vào vòng bế tắc. Liên hệ xa hơn, chủng

ta có thể nhận thấy điều này : hầu hết tác giả cỗ
điền đều muốn loại trừ đửa con ra khỏi tác phầm.
Họ phải làm thế đề cho người lớn khỏi bị quấy

rầy, tương tự nhiều người đuôi con ra chơi ngoài
ngõ đề cho người

lớn trong

nhà

yên giấc

nghỉ

trưa, Bởi lễ tác phầm cỗ điền giải quyết vấn đề
của kẻ trưởng thành, của kể tuổi tác, chứ không


đề tâm bàn bạc những chuyện trẻ em. Như trong


truyện Kiều, Vương Quan có về nhỏ nhoi hơn cả,
nhưng đâu có phải là đứa trẻ thơ? Anh ta kề

chuyện Đạm Tiên nghe còn rành rọt hơn một
chang trai qua lira 16 thi. Nguvét-Nga va Luc Van

Tiên của Nguyễn
bé mọn, Lúc gặp
họ đã biết nhảy
Lương Sinh cùng

Đình Chiều cũng khơng phải là
gỡ nhau, xem chững con tim của
điệu rưmn-ba rồi đó, Và chàng
nàng Dao Tiên trong Hoa-Tiên

truyện, và chàng Mai Sinh cùng với Hạnh Nguyên

trong Nhị-Độ-Mai, đều là những người có thể nhắc
nhở tudi tho như một kỷ niệm xa vời.
Ta có thể nói tác phầm cơ điền khơng hề biết
đến trẻ con, không muốn chấp nhận trẻ con, y
như ngồi đời khơng có vấn đề con trẻ, Thế kỷ
ngày nay được gọi là thế kỷ của trẻ con, bởi vi

vấn đề con trễ trở thành trọng yếu.

ngợi

thành,

đến

phải

tương

lai một

cách

đặt mọi sự chủ

đứng

ý vào

Muốn

nghĩ

đẳn, chân

sự xây dựng

những mầm non ấy. Bao nhiêu thói quen góp
phần quyết định cuộc đời chúng ta, bao nhiêu

mặc cảm ám ảnh số kiếp chúng la, hả chẳng đã
được bình thành từ

thuở

the fu

dé sao?

những tác phầm cồ điền chúng ta có.
giác lương tự như nhìn, vào
vào9_BipTU
ie

Đọc

cải cảm
của


một tịa nhà xây bằng gạch ngồi qui mị, có sập
gu, co th chè, hồnh phi, liễn đổi, có cả khay

trà ống điếu và bao trùm hết là một không khi
trang nghiêm của những người lớn ra vào mực

thước, lêz xuống khoan thai,

Thỉnh-thoảng ta có


thể nghe một tiếng trẻ khóc rồi lại im

lúc ta cũng bắt chợt được
lấp lỏ ần

hiện

sau màn

hoặc đôi mắt

chủng long lanh qua một khe
chủng bị gạt lui đề cho người
. mình, Nàng Kiều khi lấy Từ
. Thúy Vân ở nhà bây giờ chắc
Kim Trọng rồi, cũng chỉ gợi
anh

don

so:

vài cái đầu

lặng,

đời

trẻ con


sáng của

cửa, và thôi, và hết,
lớn bản bạc chuyện
Hải có lúc nghĩ đến
sinh con để cải với
được một cải hình

(

Mau ra khi đã tau bồng tau mang.
Tay bồng tay mang! Trẻ con ở đây nào có khác
gì vài chiếc gối thêu ? Do đó mà con trẻ chỉ được
nhắc đến qua loa, chiếu lệ, không làm cho ai thắc
mắc may may. Thông thường người ta côn dùng
con trẻ như một hình. ảnh về sau, một cải tiếng
vọng êm đềm phút cuối, khi chuyện người lớn đã
được thu xếp hoàn toàn mỹ mãn, Câu Kiều kết
thúc :

Một câu cu mộc, một sân quê hóe:
aa


cũng có gợi đến cho ta cải cảnh vui vầy con

trẻ, nhưng

quan


tâm

chắc

chắn

đến nó, bn

khơng phải
vui với

đề ching

la

no.

Do những lẽ đó, tác phầm cơ điền có một
nỗi buồn mênh mịng của cảnh vắng vẻ trễ

tho.

Ca

dao

co

cau:


Có chồng mà chẳng có con.
Khác gì hoa nở trên non một mình...
đã nỏi lên được nỗi quạnh hiu ấy, và chính tác
phầm cơ điền cũng là những loài hoa nở trên non.
Ngày nay, ta nghe đến trường mẫu giáo, đến bột
nhỉ đồng, đến báo măng non, đến những chất
thuốc ký-ninh có tầm vị sơ-cơ-la, đến những phim
ảnh hoạt họa chiếu

cho con trẻ, và ta càng

thấy

thế giới văn học cồ điền quá sức già nua, quả sức

khắc khồ, buồn rầu. Ấy thế mà chính các cụ ngày
xưa vẫn bảo gia hữu tam thanh », cho rằng cẻ

ba thử tiếng đàng quý trong nhà là tiếng đọc sách.

- đẹt cửi và tiếng khóc của trẻ con. Thể sao ở tro,
văn học khơng hề có tiếng trẻ thơ nào khóc ? Trong
một hồn cảnh xã hội mà tiếng« con nít» đồng

nghĩa với sự ngây ngơ, dại dột, trong một

trạng sinh hoạt

lìuh


mà các trẻ em cũng phải thị lè

như người lớn tuổi, ăn mặc nhự những cụ già, thì

a3


ai còn quan tâm đến trẻ con ? Đến nỗi anh chàng
Kim Trọng đã lớn tồng ngồng như vậy mà
ngồi trên ngựa cịn bắt « nởi thằng con con»
theo sau, khơng kể gì đến nhọc nhằn của chúng.
Thế mà Nguyễn Du vẫn khen chàng Rim « vdo
trong phong

nhà,

ra ngồi

hào họa »! Mới biết

người ta hào nhã với người kể lớn, với các tiều
thư xinh đẹp, chứ khơng rộng lịng thương đến
con trẻ lon xon chạy sau đuôi ngựa đề bầu hạ
mình. Cho đến cụ Nguyến Cơng Trứ tai tinh là
vay,



dang ton dang


nhàn

kinh là vậy,



trong giấc

hạ của cụ cũng thêm vào : « Năm ba chi

tiều đồng lếch thách » đề theo chân cụ trong bước
tiêu dao

hàn cốc

thanh

sơn. Ấy,

Nguyễn

Công

Trử vẫu biết lũ trẻ « lếch thếch » đi theo chứ có
vui về gi đâu !
Con trẻ bị gạtra ngoài sinh hoạt văn chương

cơ điền cũng như nó bị qn đi ở trong sinh hoại
bình thường ngày trước, đỏ là một thiệt thịi chung


cho cả mọi người, Nhưng

trong

vấn đề đem

bàn bạc hơm nay, chúng ta khơng có

tham

ra

vọng

kiếm lại chỗ ngồi êm ái cho các trẻ em đã bị truất
ngơi, bởi vì các sáng tác phầm ngày xưa không

chữa một mảnh đất nào để ta lập vườn nuôi trẻ,

a4

l



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×