Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Nhập môn pháp luật đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 127 trang )

1











NHẬP MÔN

PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
2



1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu môn Pháp luật đại cương
Nhà nước và pháp luật (NN&PL) là những hiện tượng xã hội có vị trí trọng
tâm và quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp. Điều
này được thể hiện ở chỗ:
- NN&PL có cơ sở xã hội và phạm vi tác động rộng lớn nhất so với các hiện
tượng khác thuộc thượng tầng kiến trúc của xã hội (XH) có giai cấp;
- NN&PL là công cụ hữu hiệu nhất để giai cấp thống trị bảo vệ lợi ích và
củng cố địa vị thống trị của mình;
- NN&PL là yếu tố không thể thiếu được để thiết lập và duy trì trật tự; bảo
đảm cho xã hội ổn định qua đó tạo tiền đề cho sự phát triển.
Vì vậy, việc nghiên cứu môn Pháp luật đại cương không chỉ có ý nghĩa về mặt
lý luận mà còn có lý nghĩa rất lớn về mặt thực tiễn. Nắm vững kiến thức môn học


sẽ tạo tiền đề cho người học trong việc tiếp cận các môn học khác, như Luật Kinh
tế, thương mại và thanh toán quốc tế, v.v, đồng thời tạo cơ sở cho việc vận dụng
những kiến thức đã được trang bị để điều chỉnh hành vi xử sự của mình trong quan
hệ xã hội, qua đó xử lý các vấn đề phát sinh trong thực tiễn đời sống và công tác
một cách đúng đắn và hiệu quả nhất.
2. Đối tượng nghiên cứu
Môn Pháp luật đại cương (PLĐC) nghiên cứu một cách khái quát những vấn đề
chung về sự phát sinh, phát triển, tồn tại và tiêu vong của NN&PL nói chung và
NN&PL xã hội chủ nghĩa nói riêng, với những nội dung cụ thể, như sau:
- Nguồn gốc, cơ sở của sự phát sinh, phát triển, tồn tại và tiêu vong của
NN&PL;
- Vị trí, vai trò, chức năng, bản chất, hình thức của các kiểu NN&PL;
- Mối quan hệ giữa NN&PL với các hiện tượng xã hội khác, như chính trị,
kinh tế, đạo đức và các thiết chế khác;
- Nhà nước và pháp luật Xã hội chủ nghĩa (XHCN);
- Cơ chế điều chỉnh của pháp luật;
- Khái quát về một số ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của PLĐC là những cách thức mà môn khoa học này
sử dụng để lý giải những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của mình.
Phương pháp luận của PLĐC là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Yêu cầu của phương pháp này là việc nghiên cứu hiện tượng NN&PL
đòi hỏi phải nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện, cụ thể và có quan điểm
lịch sử. Đồng thời, việc nghiên cứu về NN&PL phải đặt trong trạng thái vận động
và tương tác với mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác.
3

Ngoài ra, môn học còn sử dụng các phương pháp khác, như: Phân tích, so sách,
tổng hợp, thống kê, xã hội học v.v.
4. Thời lượng nghiên cứu và kết cấu nội dung môn học

Môn học PLĐC gồm 03 đơn vị học trình, với thời lượng 45 tiết học. Nội dung
môn học được kết cấu gồm 05 chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung về nhà nước và nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
- Chương 2: Những vấn đề chung về pháp luật.
- Chương 3: Cơ chế điều chỉnh của pháp luật.
- Chương 4: Hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Chương 5: Khái quát về các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.




























4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC
1. Nguồn gốc nhà nước
1.1. Một số học thuyết phi Mác xít về nguồn gốc Nhà nước
Trong quá trình nghiên cứu về NN, hàng loạt câu hỏi được đặt ra: Vì sao NN
xuất hiện, NN xuất hiện ở đâu, từ khi nào, v.v. Xuất phát từ nhận thức, lợi ích,
quan điểm và trường phái khác nhau mà nhiều học giả có cách giải thích khác nhau
về những vấn đề nêu trên.
Các nhà tư tưởng theo Thuyết thần học cho rằng Nhà nước (NN) có nguồn gốc
thần thánh. Vua - Người đứng đầu NN do thượng đế sinh ra, là sự hoá thân của
thánh thần nơi trần thế để trị vì dân chúng. Vua là Thiên tử (Thiên Hoàng, Ngọc
Hoàng) là người thay trời trị dân. Quyền lực nhà Vua là quyền lực siêu tự nhiên và
được mọi người dân tuyệt đối phục tùng. Bộ luật Manou của Ấn Độ cổ đại, ghi
nhận: Vua được tạo ra từ những phần của các vị thánh siêu đẳng. Người là vị thánh
tối cao mang hình người. (Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới của tác giả
Lưu Kiếm Thanh và Phạm Hồng Thái, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội-1993,
tr.31). Rõ ràng, quan điểm về nguồn gốc NN của thuyết Thần quyền hoàn toàn
mang tính duy tâm.
Trong khi đó, những nhà tư tưởng theo Thuyết gia trưởng cho rằng NN được

hình thành trên cơ sở sự phát triển tự nhiên của gia đình. Điển hình cho trường phái
này là Aristotle, cho rằng: Xã hội đầu tiên của loài người là xã hội của những người
đàn ông và đàn bà trong một gia đình và sau đó là xã hội của nhiều gia đình được
tạo nên do sự thuận lợi lẫn nhau và sự bền vững của chúng được gọi là cái làng và
cái làng một cách tự nhiên nhất bao gồm có tổ tiên, con cháu của họ. Sau đó, mỗi
gia đình lại trở thành một cái nhánh của gia đình lớn, được chỉ huy bởi một người
già nhất và cứ thế cấu thành các bang đầu tiên được cai trị bởi các nhà vua. Khi
nhiều làng như vậy hoàn toàn hợp nhất với nhau ở mọi khía cạnh thì tạo thành một
xã hội, xã hội ấy chính là một thành bang. Mỗi thành bang về nguồn gốc là sản
phẩm của tự nhiên. Về bản chất, quyền lực NN cũng giống như quyền gia trưởng
của người đứng đầu trong gia đình nhưng ở cấp độ và phạm vi rộng lớn hơn.
Điểm hợp lý trong quan điểm của Aristotle là ông cho rằng NN xuất hiện từ xã
hội và do nhu cầu quản lý, cai trị xã hội. Tuy nhiên, đây là quan điểm thiếu khách
quan, chưa đầy đủ và có phần giản đơn hoá về nguồn gốc NN. Hạn chế của quan
điểm này là thừa nhận về sự bất bình đẳng, sự nô dịch và thống trị của một nhóm
người trong xã hội là điều tự nhiên.
Đến khoảng thế kỷ 16, 17, 18 đã xuất hiện hàng loạt quan điểm mới về nguồn
gốc nhà nước. Nhằm chống lại sự chuyên quyền độc đoán của NN phong kiến, đòi
quyền bình đẳng cho giai cấp tư sản trong việc nắm giữ quyền lực NN, đa số các
5

học giả tư sản cho rằng nguồn gốc NN bắt nguồn từ sự thoả thuận tự nguyện của
mọi người trong trạng thái tự nhiên nhằm bảo tồn cuộc sống, tự do và tài sản; nghĩa
là quyền lực NN thuộc về nhân dân, do nhân dân uỷ quyền để quản lý xã hội. Vì
vậy, NN phải phản ánh lợi ích các thành viên trong XH, phải phục vụ và bảo vệ lợi
ích của họ. Nếu NN không giữ được vai trò của mình, các quyền tự nhiên của con
người bị xâm hại thì khế ước sẽ mất hiệu lực và nhân dân có quyền huỷ bỏ khế ước
này để thay thế bằng một khế ước khác. Nghĩa là lật đổ NN này để thay thế bằng
một NN khác thực hiện sứ mệnh đó.
Các học giả tiêu biểu của thuyết này là John Locke (1632-1704); S.L

Montesquieu (1689-1775); Jean Jacque Roussau (1712-1778).
John Locke cho rằng trước khi có NN con người sống trong trạng thái tự nhiên,
mọi người hoàn toán tự do, bình đẳng; mỗi người là chúa tệ tuyệt đối của con người
và tài sản của chính anh ta, bình đẳng đến mức tối đa và không bị ai thống trị. Ở
đó, họ làm bất cứ cái gì được cho là phù hợp với sự bảo tồn của họ và những người
khác trong phạm vi cho phép của luật tự nhiên chung cho tất cả mọi người hoặc là
làm bất cứ điều gì để chống lại sự xúc phạm và xâm hại của người khác, phán quyết
và trừng phạt sự vi phạm luật tự nhiên. Nếu cứ duy trì trạng thái sống tự nhiên, con
người trở nên rất nguy hiểm, vì họ sẽ dùng bạo lực để tiêu diệt nhau. Để thoát khỏi
trạng thái tự nhiên, “cái hoàn cảnh mà tuy được tự do nhưng lại đầy sự sợ hãi và sự
nguy hiểm liên miên” (Locke. Two Treatises of Government. Edited by Peter
Laslett. Cambritge University Press, tr.350), con người đã liên kết với nhau thành xã
hội, thành NN và chuyển giao một phần quyền lực của mình cho NN, đồng thời đặt
mình dưới quyền thống trị của nó nhằm bảo tồn cuộc sống, tự do và tài sản của mỗi
người.
Điểm hợp lý của thuyết khế ước xã hội là thừa nhận NN không xuất hiện ngay
từ khi XH loài người xuất hiện mà NN ra đời khi XH đã phát triển đến một giai
đoạn nhất định; quyền lực NN xuất phát từ quyền lực của nhân dân, được nhân dân
uỷ chuyền; NN có bổn phận là chăm lo cho lợi ích, tài sản và sự bình đẳng của mọi
thành viên trong xã hội. Thuyết khế ước XH có vai trò quan trọng trong việc tạo tiền
đề cho thuyết dân chủ cách mạng và là cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản để lật
đổ ách thống trị phong kiến. Với ý nghĩa đó, thuyết khế ước XH có tính cách mạng
và giá trị lịch sử to lớn.
Tuy nhiên, điểm hạn chế của thuyết khế ước XH là không chỉ ra được NN ra
đời không đơn thuần do nhu cầu tổ chức quản lý XH mà còn do nhu cầu thống trị
của giai cấp nắm tư liệu sản xuất chính của xã hội; vì vậy ngoài tính xã hội, NN còn
có tính giai cấp sâu sắc.
Một số học thuyết khác tuy mức độ phổ biến có hạn chế hơn so với thuyết khế
ước xã hội, như thuyết bạo lực. Thuyết bạo lực cho rằng, nhà nước xuất hiện là do
việc sử dụng bạo lực của thị tộc này đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến

thắng tổ chức ra một cơ quan đặc biệt, đó là nhà nước để cai trị kẻ chiến bại. Các
học giả của thuyết tâm lý lại cho rằng, nhà nước xuất hiện do nhu cầu tâm lý của
con người nguyên thủy vốn luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, các giáo sĩ là
những lãnh tụ của họ; vì vậy, nhà nước là tổ chức của những vị lãnh tụ đó để che
6

chở, chăm lo và lãnh đạo xã hội. Ngoài ra còn có quan niệm “nhà nước siêu trái đất”
cho rằng, sự xuất hiện nhà nước là do sự du nhập và thử nghiệm những thành tựu
của một nền văn minh ngoài trái đất, v.v.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, những học thuyết và quan điểm trên chưa
giải thích một cách đúng đắn và đầy đủ về nguồn gốc nhà nước và pháp luật.
1.2. Học thuyết Mác-Lênin về nguồn gốc nhà nước
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc NN được coi là hợp lý nhất
và khoa học nhất. Với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các
nhà kinh điển cho rằng: NN không phải là hiện tượng siêu tự nhiên hay là sản phẩm
tự nhiên; NN cũng không phải hiện tượng vĩnh hằng, bất biến mà là một phạm trù
lịch sử. Nghĩa là, NN có quá trình phát sinh, phát triển, tồn tại và tiêu vong; NN nảy
sinh từ XH, là sản phẩm có điều kiện của XH loài người; NN chỉ xuất hiện khi XH
đã phát triển đến một giai đoạn nhất định và đạt đến một trình độ nhất định. Đó là
khi XH có sự phân chia giai cấp, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; chứng
nào XH có giai cấp và đấu tranh giai cấp thì NN còn tồn tại; NN sẽ tiêu vong khi
những điều điều kiện khách quan đó không còn nữa.
Những luận điểm quan trọng về nguồn gốc NN được Ph.Ăngghen nêu trong tác
phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, sau này được
V.I Lênin bổ sung và phát triển trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.
Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước”, giải thích trong lịch sử loài người “không phải lúc nào cũng đã có
nhà nước. Đã từng có những xã hội không cần đến nhà nước, không có một khái
niệm nào về nhà nước và chính quyền nhà nước cả” (Sđd, NXB Sự thật. hà Nội-
1972, tr.288). Xã hội không cần đến NN trong trường hợp này là xã hội thị tộc của

thời công xã nguyên thuỷ (CXNT).
a) Tổ chức thị tộc trong xã hội công xã nguyên thuỷ
Trong xã hội CXNT, lúc đầu con người hợp thành bầy đàn người nguyên thuỷ
sống theo bản năng để tồn tại và duy trì nòi giống; quan hệ tính giao xẩy ra giữa mọi
người đàn ông và đàn bà với nhau. Sau đó, sự xuất hiện của gia đình dẫn đến sự
xuất hiện Thị tộc với tư cách là tế bào XH, là đơn vị cơ sở của tổ chức XH, tiếp đó
là Bộ lạc (là sự liên kết của nhiều thị tộc) xuất hiện khi xã hội xuất hiện các hình
thức gia đình trong lịch sử, như: Gia đình huyết thống, gia đình punaluan, gia đình
đối ngẫu).
Thị tộc là một tập đoàn thân tộc trong một Bộ lạc, tức là một nhóm người cùng
huyết tộc về phía nữ. Thị tộc được tổ chức theo huyết thống và lúc đầu là thị tộc
mẫu quyền, về sau là thị tộc phụ quyền. Khi “dân số tăng lên, thì mỗi thị tộc đầu
tiên đó lại chia thành mấy thị tộc con, và đối với những thị tộc con này thì thị tộc mẹ
là bào tộc; bản thân bộ lạc cũng chia làm nhiều bộ lạc” (Sđd, tr.281) và bộ lạc đầu
tiên lại trở thành liên minh các bộ lạc cùng thân tộc. Như vậy, các đơn vị tổ chức
trong xã hội CXNT, gồm thị tộc, bào tộc, bộ lạc và liên minh các bộ lạc.
Cơ sở kinh tế của xã hội CXNT là chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất
(TLSX). Các TLSX trong xã hội CXNT đều được mọi thành viên sử dụng chung.
7

Về tổ chức sản xuất: “Sự phân công lao động hoàn toàn còn có tính tự nhiên,
nó chỉ được thực hiện giữa nam và nữ thôi. Đàn ông thì đánh giặc, đi săn bắn và
đánh cá, tìm nguyên liệu dùng làm thức ăn và kiếm những công cụ cần thiết cho
việc đó. Đàn bà chăm sóc việc nhà, chế biến thức ăn và chuẩn bị cái mặc: họ làm
bếp, dệt, may vá. Mỗi bên đều làm chủ trong lĩnh vực hoạt động riêng của mình…
Mỗi bên đều là chủ sở hữu những công cụ do mình chế tạo và sử dụng… kinh tế gia
đình là nền kinh tế cộng sản chung cho nhiều gia đình” (Sđd, tr.262).
Về phân phối sản phẩm lao động: “Cài gì cùng nhau làm ra và dùng chung, thì
cái đó là tài sản chung” (Sđd, tr.263). Nghĩa là sản phẩm lao động làm ra được sử
dụng chung. Mọi thành viên của thị tộc đều tự do và bình đẳng với nhau TLSX, về

lao động và phân phối sản phẩm làm ra.
Quyền lực cao nhất trong thị tộc là Hội đồng thị tộc, bao gồm tất cả các thành
viên đã trưởng thành, nam cũng như nữ. Trong Hội đồng thị tộc mọi người đều tự
do, bình đẳng với nhau về mọi vấn đề khi giải quyết những công việc của thị tộc.
Hội đồng bầu ra Tù trưởng và Thủ lĩnh quân sự để thay mặt Hội đồng điều hành các
hoạt động chung và chỉ huy quân sự. Những người này có quyền lực rất lớn nhưng
không tổ chức bộ máy cưỡng chế mà dựa trên cơ sở uy tín cá nhân, sự tín nhiệm và
sự ủng hộ của các thành viên trong thị tộc. Tù trưởng, chỉ huy quân sự cùng sinh
sống, cùng lao động và hưởng thụ thành quả lao động như những người khác; không
có đặc quyền, đặc lợi; họ chịu sự giám sát của Hội đồng thị tộc và có thể bị Hội
đồng thị tộc phế truất nếu không còn có uy tín. Đặc điểm của quyền lực trong xã hội
CXNT là không tách rời cộng đồng mà thuộc về công đồng, gắn liền với cộng đồng
và do cộng đồng tổ chức ra để phục vụ lợi ích cho cả cộng đồng; không có bộ máy
cưỡng chế riêng. Cách thức tổ chức quyền lực ở bào tộc, bộ lạc và liên minh các bộ
lạc cũng tương tự như trong thị tộc nhưng có sự tập trung quyền lực cao hơn, vì
tham gia vào Hội đồng của các tổ chức này chỉ gồm tù trưởng và thủ lĩnh quân sự
của các thị tộc.
Tóm lại, trong chế độ CXNT “ không có nhà nước, lúc đó các quan hệ xã hội
và ngay cả xã hội nữa, kỷ luật, tổ chức lao động đều duy trì được là nhờ có sức
mạnh của phong tục, tập quán, nhờ có uy tín và sự kính trọng đối với những bô lão
cuaẻ thị tộc, hoặc đối với phụ nữ-địa vị của phụ nữ hồi đó không chỉ ngang với nam
giới mà còn cao hơn nữa, và lúc đó không có một hạng người riêng biệt, hạng
người chuyên môn để bóc lột” (Sđd, tr.270).
b) Sự tan rã của chế độ thị tộc và nhà nước xuất hiện
Mặc dù trong chế độ thị tộc, với trạng thái kinh tế tự nhiên chủ yếu là săn bắt
và hái lượm nhưng lực lượng sản xuất (LLSX) vẫn không ngừng phát triển thông
qua việc cải tiến công cụ sản xuất. Nhờ cải tiến công cụ lao động mà số thú rừng săn
bắt được nhiều hơn. Một số bộ lạc tiên tiến nhất lúc đầu ấy xuất hiện một bộ phận
dân cư chuyên thuần dưỡng thú rừng và sau đó là chăn nuôi gia súc trở thành ngành
lao động chủ yếu của họ. Hệ quả là những bộ lạc du mục tách rời khỏi những bộ lạc

khác để làm nghề chăn nuôi, đó là sự phân công lao động XH đầu tiên, đánh dấu sự
phát triển của xã hội công xã nguyên thủy.
Tác động của sự phân công lao động lần này là:
8

- Số súc vật tăng nhanh trở thành hàng hoá dùng để trao đổi sản phẩm, dùng để
đánh giá các sản phẩm khác khi trao đổi. Nghĩa là có chức năng tiền tệ.
- Các đồng cỏ được mở mang, việc trồng trọt ngũ cốc xuất hiện lúc đầu là phục
vụ cho chăn nuôi gia súc và sau đó là phục vụ nhu cầu con người.
- Con người đã biết dệt vải bằng khung cửi, đã phát hiện ra kim loại và chế tác
công cụ sản xuất bằng kim loại.
- Sản phẩm lao động không ngừng tăng lên làm cho nhu cầu trao đổi phát triển
và kích thích sản xuất dẫn đến nhu cầu về sức lao động tăng cao. Tù binh trong
chiến tranh bị biến thành nô lệ và cũng được tra đổi như những hàng hoá khác.
- Súc vật được chuyển từ sở hữu cộng đồng của bộ lạc thành sở hữu những
người chủ gia đình-người đàn ông. Quyền thống trị của người đàn ông trong gia
đình được xác lập để thay thế cho chế độ mẫu hệ.
Xã hội công xã nguyên thủy không ngừng phát triển do công cụ lao động luôn
được cải tiến, nhất là khi loài người phát hiện ra kim loại (đồ đồng, đồ sắt) để làm
công cụ sản xuất. Từ chỗ chế tác, cải tiến công cụ sản xuất làm cho nghề thủ công
nghiệp ra đời đã tác động mạnh mẽ đến kỹ thuật sản xuất và làm cho năng xuất lao
động của cộng đồng người nguyên thủy không ngừng tăng lên và sản phẩm làm ra
đa dạng hơn.
Nghiên cứu về giai đoạn này của XH loài người, V.I. Lênin viết: “Của cải tăng
lên nhanh chóng, nhưng vẫn là của cải của cá nhân; nghề dệt, nghề chế tạo đồ kim
loại và những nghề thủ công khác ngày càng tách khỏi nhau, làm cho sản phẩm
ngày càng có nhiều loại và nghệ thuật sản xuất ngày càng thêm hoàn hảo… Một sự
hoạt động nhiều mặt như thế không thể chỉ do độc một cá nhân tiến hành được nữa,
sự phân công lao động lớn lần thứ hai đã diễn ra: thủ công nghiệp đã tách khỏi
nông nghiệp” (V.I. Lênin. Toàn tập, Tập 29, Nxb. Sự thật, H.1972, tr.548).

Tác động của sự phân công lao động lần này là:
- Sản xuất không ngừng phát triển, năng suất và giá trị hàng hoá, sản phẩm
tăng cao làm xuất hiện một bộ phận chuyên làm nghề trao đổi sản phẩm, nô lệ trở
thành bộ phận chủ yếu trong xã hội.
- Đất đai trồng trọt được chia cho các gia đình sử dụng. Gia đình bắt đầu trở
thành đơn vị kinh tế của XH. Trong XH ngoài sự phân biệt giữa người tự do với nô
lệ đã xuất hiện sự phân biệt giữa kẻ giàu với người nghèo.
- Sự liên minh các bộ lạc cùng thân tộc dẫn đến sự hợp nhất những lãnh thổ
riêng của các bộ lạc thành lãnh thổ chung của bộ tộc; quyền lực của thủ lĩnh quân sự
ngày càng được nâng cao, tập quán lựa chọn người kế thừa thủ lĩnh quân sự trong
cùng một gia đình được hình thành theo kiểu thế tập, đó là cơ sở của chế độ vương
quyền thế tập và quý tộc thế tập.
Hệ quả của lần phân công lao động về mặt xã hội là: “toàn bộ chế độ thị tộc
chuyển hoá thành cái đối lập với nó: từ một tổ chức của các bộ lạc nhằm giải quyết
một cách tự do những công việc của mình, nó đã trở thành một tổ chức để cướp bóc
và áp bức láng giềng Các cơ quan của nó, lúc đầu là công cụ của ý chí nhân dân,
thì nay đã trở thành những cơ quan độc lập của sự thống trị và áp bức, nhằm chống
9

lại ngay chính nhân dân” (PH. Ăng –ghen, “Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước”, Sđd, tr.273).
Việc xã hội loài người phát hiện ra kim loại, biết sử dụng và cải tiến công cụ
lao động bằng kim loại đã làm cho năng xuất lao động không ngừng gia tăng, của
cải làm ra không những đủ để cung cấp cho nhu cầu của xã hội mà còn có sự dư
thừa. Từ đây xuất hiện nhu cầu trao đổi sản phẩm lao động làm ra của cộng đồng
người nguyên thủy giữa các khu vực khác nhau. Cùng với năng suất lao động không
ngừng tăng lên, xã hội loài người đã biết sử dụng đồng tiền làm thước đo giá trị sản
phẩm trao đổi đã kích thích quá trình trao đổi, mua bán hàng hóa càng ngày càng
tăng lên; từ đó xuất hiện một bộ phận dân cư chuyên làm nghề trao đổi, buôn bán
sản phẩm làm cho xuất hiện một ngành nghề mới, đó là thương nghiệp. Ngành

thương nghiệp ra đời là một trong những nguyên nhân làm cho xã hội CXNT có
những biến động to lớn, cụ thể là:
- Nền kinh tế nguyên thuỷ tự nhiên chuyển sang nền kinh tế sản xuất và trao
đổi; chế độ sử hữu chung của thị tộc được thay thế bằng chế độ sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất của từng gia đình.
- Trên một lãnh thổ, trước đây chỉ có những người cùng thị tộc, bộ lạc chung
sống thì nay trên vùng lãnh thổ ấy đã có người của thị tộc, bộ lạc khác sinh sống.
Những người đó có thể là người tự do hoặc nô lệ. Những người giàu có chuyên đi
bóc lột, chuyên tước đoạt của cải vật chất để trở thành những người giàu có, trở
thành giai cấp thống trị xã hội; những người nghèo khó bị bóc lột đến mức bần cùng
hóa trở thành giai cấp bị trị. Họ có nhu cầu và lợi ích khác nhau, xung đột và mâu
thuẫn với nhau.
Nghiên cứu về giai đoạn phát triển tiếp theo của xã hội CXNT diễn ra với sự
phân công lao động lần thứ ba, PH. Ăng – ghen, chỉ rõ “Sự phân công lao động này
đẻ ra một giai cấp không tham gia vào sản xuất nữa, mà chỉ làm công việc trao đổi
sản phẩm, đó là giai cấp thương nhân” (PH. Ăng - ghen, “Nguồn gốc gia đình, của
chế độ tư hữu và của nhà nước”, Sđd, tr.274); giai cấp này “tuy không tham gia sản
xuất một tí nào, nhưng lại chiếm toàn quyền lãnh đạo sản xuất và bắt những người
sản xuất phụ thuộc mình về mặt kinh tế; nó trở thành kẻ trung gian không thể thiếu
được giữa hai người sản xuất và bóc lột cả đôi bên” (PH. Ăng –ghen, “Nguồn gốc
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, Sđd, tr.274).
Tác động của sự phân công lao lần thứ ba này là “cùng với với sự mở rộng
thương mại, cùng với tiền và nạn cho vay nặng lãi, với quyền sở hữu ruộng đất và
chế độ cầm cố thì sự tích tụ và tập trung của cải vào trong tay giai cấp một số ít
người cũng đã diện ra một cách nhanh chóng…, sự bần cùng hoá của quần chúng
và đám đông dân nghèo cũng tăng lên” (PH. Ăng –ghen, “Nguồn gốc gia đình, của
chế độ tư hữu và của nhà nước”, Sđd, tr.280).
Hệ quả của lần phân công lao động này là chế độ thị tộc, vốn sinh ra từ XH
không biết đến một mâu thuẫn nội tại nào, nay tỏ ra bất lực; một XH mới ra đời, với
những điều kiện kinh tế xã hội đã có sự thay đổi căn bản. Xã hội đã phân chia thành

các giai cấp đối lập nhau và mâu thuẫn ngày càng gay gắt. “Muốn cho những mặt
đối lập đó, những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn đó, không đi đến chỗ tiêu
10

diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội trong một cuộc đấu tranh vô ích, thì cần
phải có một lực lượng cần thiết, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có
nhiệm vụ làm dịu sự xung đột và giữ cho xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”. Và
lực lượng đó, nảy sinh từ xã hội, nhưng lại đứng trên xã hội và ngày càng xa rời xã
hội, chính là Nhà nước” (PH. Ăng - ghen, “Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước”, Sđd, tr.282).
Theo PH. Ăng - ghen thì nhà nước ra đời là để thay thế cho chế độ thị tộc, nó
nảy sinh từ nhu cầu quản lý, thống trị xã hội có giai cấp để thiết lập và giữ gìn trật
tự xã hội ấy, nó “tựa hồ như đứng trên các giai cấp đang đấu tranh với nhau, đã
dập tắt cuộc xung đột công khai giữa họ và cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai
cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức được mệnh danh là hợp
pháp” (PH. Ăng - ghen, “Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”,
Sđd, tr.280).
Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, khi
nghiên cứu về nguồn gốc nhà nước, V.I. Lênin đưa ra định nghĩa về nhà nước như
sau: Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hoà được. Bất kỳ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào về mặt khách quan, những
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được thì nhà nước xuất hiện. Ngược lại, sự
xuất hiện nhà nước chứng tỏ những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được.
Như vậy, theo quan điểm của Học thuyết Mác - Lênin thì quá trình hình thành
nhà nước là một tất yếu khách quan của tiến trình vận động và phát triển xã hội. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất đã từng bước tạo ra những điều kiện làm tan rã nền
tảng của chế độ thị tộc và cũng từng bước đưa đến sự xuất hiện các yếu tố làm tiền
đề cho sự hình thành nhà nước. Sự chuyển đổi của nền kinh tế xã hội làm xuất hiện
chế độ tư hữu tài sản, dẫn đến sự phân hóa xã hội CXNT thành những kẻ giàu,
người nghèo; xuất hiện giai cấp, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đó là

những yếu tố quyết định sự xuất hiện nhà nước.
Tóm lại, yếu tố quyết định cho sự xuất hiện của nhà nước là sự chuyển đổi của
nền kinh tế xã hội từ chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất sang chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất và tài sản, làm xuất hiện sự phân hoá xã hội thành kẻ giàu, người
nghèo, làm xuất hiện sự phân chia xã hội thành các giai cấp có địa vị kinh tế, xã hội
khác nhau và mâu thuẫn lẫn nhau. Nghĩa là chế độ tư hữu và sự phân chia xã hội
thành giai cấp và đấu tranh giai cấp là điều kiện khách quan để nhà nước xuất hiện
và tồn tại.
c) Sự xuất hiện của một số nhà nước đầu tiên trong lịch sử
- Một trong những nhà nước xuất hiện đầu tiên của xã hội loài người là Nhà
nước A-ten. Nhà nước A-ten ra đời được coi là hình thức thuần tuý nhất, cổ điển
nhất. Ở đây, “nhà nước nảy sinh chủ yếu và trực tiếp từ những sự đối lập giai cấp
đã phát triển ngay trong nội bộ xã hội thị tộc” PH. Ăng –ghen, “Nguồn gốc gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” (Sđd, tr.281).
- Nhà nước La Mã xuất hiện trên cơ sở sự chuyển hóa dần chế độ công xã
nguyên thủy đã phát triển đến giai đoạn hình thành và củng cố chế độ tư hữu tài sản
và xã hội đã có sự phân hóa kẻ giàu, người nghèo; giai cấp chủ nô, những người tự
11

do và giai cấp nô lệ. Các giai cấp này có địa vị kinh tế, xã hội hoàn toàn khác biệt
nhau, vì vậy trong xã hội luôn có sự mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tuy
nhiên, nhà nước La Mã ra đời không chỉ đơn thuần do mâu thuẫn giai cấp và đấu
tranh giai cấp, mà còn do sự chiến thắng của những người bình dân trong cuộc đấu
tranh chống lại giới quý tộc La Mã.
- Nhà nước Giécmanh cũng ra đời khi các điều kiện kinh tế xã hội của chế độ
công xã nguyên thủy đã phát triển đến giai đoạn nhất định, tạo tiền đề về mặt kinh
tế, xã hội cho sự ra đời của nhà nước. Cũng như nhà nước La Mã, sự ra đời của Nhà
nước Giécmanh không chỉ đơn thuần do mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp,
mà nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của nhà nước Giécmanh là kết quả từ
việc chinh phục đất đai của người khác. Trong cuộc chinh phạt đó, người Giécmanh

chiến thắng đế chế La Mã và xâm chiếm một vùng đất đai rộng lớn của người La
Mã.
- Những nhà nước Phương Đông cổ đại được xem là những nhà nước ra đời
sớm nhất trong lịch sử xã hội nhân loại, đó là các nhà nước: Ai Cập, Babilon, Ấn
Độ, Trung Quốc, v.v. Những nhà nước này xuất hiện không chỉ thuần tuý do đối
kháng và mâu thuẫn giai cấp mà còn do nhu cầu bảo vệ lợi ích chung của cộng
đồng, như nhu cầu tổ chức và quản lý việc xây dựng các công trình thuỷ nông nhằm
trị thủy, làm thuỷ lợi để phục vụ sản xuất và đời sống, nhu cầu tự vệ để chống lại kẻ
thù xâm lược từ bên ngoài, v.v. Chính những nhu cầu đó đã làm cho quyền lực xã
hội của thị tộc, bộ lạc chuyển hóa dần thành quyền lực nhà nước; quyền lực thế tập
của thủ lĩnh quân sự chuyển hóa dần thành quyền lực thế tập của nhà vua và tầng
lớp quý tộc; bộ máy của thị tộc, bộ lạc được chuyển hóa dần thành bộ máy quản lý
của nhà nước.
Tóm lại, tùy thuộc vào vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội, hoàn cảnh lịch sử
và phong tục tập quán ở từng khu vực khác nhau mà có sự khác nhau về sự xuất
hiện của các nhà nước. Tổ chức đó do giai cấp chiếm được ưu thế về kinh tế tổ
chức ra để thực hiện sự thống trị giai cấp, dập tắt sự xung đột công khai giữa các
giai cấp, giữ các xung đột ấy trong vòng một trật tự, bảo vệ lợi ích và địa vị của
giai cấp thống trị. Đó là nhà nước.
d) Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước XHCN ra đời là kết quả đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cách mạng mỗi nước có
những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử và tương quan lực lượng khác nhau cho nên sự
ra đời của các nhà nước XHCN cũng như việc tổ chức nhà nước kiểu mới có
những đặc điểm khác nhau. Nghĩa là mỗi nước đều phải lựa chọn cho mình những
phương pháp và hình thức tổ chức nhà nước thích hợp.
Công xã Pari “là hình thức phôi thai” của một kiểu nhà nước mới, ra đời trong
cuộc khởi nghĩa vũ trang ngày 18/3/1871 của công nhân Pari. Mặc dù còn còn hết
sức sơ khai nhưng Công xã Pari, trên thực tế được tổ chức và hoạt động như một
nhà nước kiểu mới - nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Công xã Pari có những đặc điểm cơ bản, như:
12

- Công xã Pari đã đập tan BMNN cũ, thiết lập nhà nước của công nhân. Chế độ
đại nghị tư sản bị xoá bỏ để thành lập cơ quan đại diện mới là Hội đồng công xã,
các uỷ viên Hội đồng do nhân dân trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc bầu cử phổ
thông đầu phiếu, chịu trách nhiệm trước nhân dân và có thể bị bãi miễn khi không
còn xứng đáng.
- Công xã Pari ban bố sắc lệnh và tổ chức thực hiện các sắc lệnh này thông qua
uỷ viên phụ trách. Như vậy, công xã trở thành cơ quan vừa lập pháp vừa hành
pháp.
- Công xã tiến hành tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội, kể cả việc tổ
chức sản xuất. Công xã đã thành lập các uỷ ban phụ trách từng loại công việc, như:
Quân đội, tài chính, cung cấp lương thực, thực phẩm, khôi phục sản xuất, bảo vệ
an ninh trật tự, v.v.
- Công xã Pari đã xác lập chế độ dân chủ mới, tiến hành hàng loạt biện pháp
nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và bảo đảm cho nhân dân quyền tham
gia quản lý, tham gia các công việc của công xã.
Nhà nước Xô viết ra đời sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười. Đại hội Xô
viết công nhân, nông dân và binh lýnh toàn Nga đã tuyên bố thành lập Chính
quyền Xô viết. Xô viết là tổ chức đại diện cho nhân dân lao động, do nhân dân bầu
ra; được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ và bình đẳng giữa
các dân tộc. Chính quyền Xô viết là tổ chức thống nhất quyền lập pháp và quyền
hành pháp. Thời kỳ đầu thành lập, chính qyền Xô viết thể hiện tính giai cấp công
khai, không khoan nhượng với các phần tử bóc lột, như tước bỏ quyền bầu cử và
hạn chế một số quyền tự do dân chủ khác (cấm hội họp, cấm tự do báo chí, lưu trú
bắt buộc, các Đảng phái của giai cấp tư sản và tiểu tư sản không được tồn tại và
không được tham gia chính quyền, v.v.); giữa giai cấp nông dân với giai cấp công
nhân còn có sự phân biệt (2,5 vạn công nhân được bầu một đại biểu; 12,5 vạn nông
dân mới được bầu một đại biểu); các Xô viết địa phương quận, huyện trở xuống

bầu cử trực tiếp còn Xô viết cấp tỉnh trở lên bầu cử gián tiếp. Sau này, Hiến pháp
năm 1936 của Liên Xô (cũ) đã có những sửa đổi phù hợp với tình hình kinh tế xã
hội của đất nước.
Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời sau chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là
chính quyền liên hiệp của nhiều giai cấp được tập hợp trong mặt trận dân tộc
chống phát xít, chống thực dân, đế quốc xâm lược (lấy liên minh giai cấp công
nông làm nòng cốt) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (các Đảng phái khác thừa
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản). Nhà nước dân chủ nhân dân được thiết
lập bằng hình thức bầu cử theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ
phiếu kín.
1.3. Đặc trưng của nhà nước
Những đặc trưng căn bản của Nhà nước được hiểu là những dấu hiệu riêng
giúp phân biệt được với các tổ chức khác trong xã hội, cụ thể là:
- Nhà nước tổ chức và phân chia dân cư theo lãnh thổ.
13

- Nhà nước thiết lập quyền lực công đặc biệt (công quyền) để buộc dân chúng
phải phục tùng. Công quyền gồm không chỉ những người được vũ trang như quân
đội, cảnh sát mà còn có công cụ vất chất phụ thêm như nhà tù và đủ các loại cơ quan
cưỡng bức mà xã hội thị tộc không hề biết đến.
- Nhà nước ban hành pháp luật.
- Nhà nước đặt ra các loại thuế và tiến hành thu thuế để duy trì bộ máy cai trị.
- Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính không
tách rời nhà nước. Chủ quyền quốc gia được thể hiện trên các phương diện: Quyền
tự quyết của nhà nước về tất cả các vấn đề thuộc chính sách đối nội và đối ngoại;
quyền lực nhà nước có hiệu lực trên toàn phạm vi lãnh thổ; làm xuất hiện quan hệ
về quốc tịch, tức là mối quan hệ ràng buộc giữa nhà nước và công dân về quyền và
nghĩa vụ.
2. Bản chất của nhà nước
Bản chất nhà nước là vấn đề trọng tâm và phức tạp của Lý luận nhà nước và

pháp luật. Bản chất của một sự vật, hiện tượng là “tổng hợp tất cả những mặt,
những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên trong của sự vật, hiện tượng
đó”
1
. Quá trình hình thành nhà nước, học thuyết Mác-Lênin khẳng định: Xét về
mặt bản chất, nhà nước là một hiện tượng xã hội luôn mang tính giai cấp và tính
xã hội, vì việc nhà nước xuất hiện một mặt do nhu cầu khách quan của sự vận
động, phát triển xã hội cần có một tổ chức tựa hồ như đứng trên xã hội để quản lý,
điều hành các hoạt động xã hội, để dung hoà các mâu thuẫn xã hội, mặt khác do
nhu cầu thống trị xã hội của giai cấp chiếm đoạt các tư liệu sản xuất chính trong xã
hội.
Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại và phát triển trong XH có giai cấp, vì vậy NN luôn
mang tính giai cấp sâu sắc. Điều này được V.I. Lênin giải thích: “Vì nhà nước
xuất hiện từ sự cần thiết phải kiềm chế đối lập giữa các giai cấp; vì nhà nước
đồng thời cũng xuất hiện chính trong những cuộc xung đột giữa các giai cấp ấy,
cho nên theo quy luật chung, nó là nhà nước của giai cấp mạnh nhất, giữ địa vị
thống trị về mặt kinh tế, và nhờ có nhà nước, giai cấp này cũng trở thành giai cấp
thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm được những phương tiện mới để trấn
áp và bóc lột giai cấp bị áp bức…”
2
.
Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác
được thể hiện dưới ba phương diện là thống trị về quyền lực kinh tế, thống trị về
quyền lực chính trị và thống trị về mặt tư tưởng. Trong đó, quyền lực kinh tế giữ
vai trò quyết định.
Về kinh tế, giai cấp nào nắm giữ quyền sở hữu phần lớn các tư liệu sản xuất
chủ yếu trong xã hội thì có thể bắt các giai cấp khác phụ thuộc về mặt kinh tế và
trở thành giai cấp thống trị về kinh tế. Để bảo vệ quyền thống trị về mặt kinh tế
của mình, giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để trấn áp sự phản kháng,
sự chống đối của các giai cấp khác. Vì vậy, nhà nước trở thành bộ máy cưỡng chế


1
Giáo trình Triết học Mác-Lênin. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nôi-1999, tr.275
2
V.I Lênin, Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va - 1976, tr.16
14

đặc biệt trong tay giai cấp thống trị để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, đồng thời
thông qua nhà nước, giai cấp thống trị có thể biến ý chí của mình thành pháp luật,
thành các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung cho mọi thành viên trong xã hội
phải phục tùng. Chính nhờ nhà nước mà giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai
cấp thống trị về chính trị, nắm giữ quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị là bạo
lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp các giai cấp khác. Nhà nước chính là
bạo lực có tổ chức của giai cấp thống trị xã hội để trấn áp các giai cấp khác.
Hơn thế nữa, thông qua nhà nước, giai cấp thống trị ban hành pháp luật, nắm
giữ, kiểm soát các phương tiện thông tin đại chúng nhằm áp đặt ý chí, hệ tư tưởng
của mình lên toàn xã hội. Dó đó, nhà nước trở thành công cụ để xác lập, bảo vệ hệ
tư tưởng thống trị xã hội.
Tuy nhiên, ngoài tính giai cấp, nhà nước còn mang tính xã hội, bởi NN sinh ra
từ XH và không chỉ do nhu cầu của giai cấp thống trị mà còn do nhu cầu tổ chức,
điều hành và quản lý XH. Ngoài lợi ích giai cấp, nhà nước trong chừng mực nhất
định còn phải chăm lo cho đời sống và sự tiến bộ xã hội. Với tư cách là tổ chức
quyền lực công, nhà nước là người đại diện chính thức cho xã hội và nhân danh xã
hội. Ngoài việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ giai cấp, nhà nước còn phải
giải quyết những vấn đề xã hội đã và đang đặt ra trong thực tiễn đời sống, như vấn
đề nghèo đói, dịch bệnh, môi trường, giáo dục, y tế, văn hoá, xây dựng hạ tầng cơ
sở, v.v.
Tính giai cấp và tính xã hội là những thuộc tính chung của tất cả các kiểu nhà
nước nhưng các kiểu nhà nước khác nhau thì có sự biểu hiện khác nhau. Kiểu nhà
nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến thì tính giai cấp có tính nổi trội hơn

còn nhà nước tư sản và đặc biệt là nhà nước XHCN thì tính giai cấp và tính xã hội
có tính đan xen, hài hoà; ở đó, nhà nước chăm lo giải quyết nhiều vấn đề mà đời
sống của cộng đồng xã hội đặt ra.
Như vậy, xét dưới góc độ bản chất, có thể khẳng định: Nhà nước là một tổ chức
quyền lực chính trị, một bộ máy trấn áp của một giai cấp đối với các giai cấp khác
và là một bộ máy quản lý điều hành các hoạt động xã hội, nhằm thiết lập, duy trì,
củng cố địa vị pháp lý của giai cấp thống trị; duy trì trật tự, an toàn, ổn định và
phát triển xã hội.
Nhà nước có vai trò hết sức to lớn đối với sự tồn tại và phát triển xã hội. Cơ sở
kinh tế xã hội là điều kiện khách quan để nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển;
ngược lại, xã hội (có giai cấp) sẽ không thể tồn tại và phát triển nếu không có nhà
nước. Nhà nước chứ không thể là ai khác có khả năng tổ chức điều hành, quản lý
các hoạt động xã hội, giải quyết các xung đột xã hội hoặc kìm giữ cho các cuộc
xung đột đó trong vòng trật tự để bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển xã hội. Theo
Thomas Hobbes, cuộc sống mà không có nhà nước có hiệu lực để duy trì trật tự thì
“rất đơn độc, nghèo nàn, đồi bại, tàn bạo và ngắn ngủi” (Báo cáo về tình hình
phát triển thế giới 1997 của Ngân hàng thế giới, “Nhà nước trong một thế giới
đang chuyển đổi”. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội-1998, tr. 33).
Vai trò của nhà nước đối với xã hội được thể hiện ở chỗ, nhà nước đề ra và
đảm bảo tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, chính sách phát triển kinh tế
15

xã hội trong từng giai đoạn; nếu nhà nước đưa ra được chiến lược phát triển kinh
tế xã hội đúng đắn, phù hợp với các quy luật khách quan thì mang lại hiệu quả tốt,
kích thích xã hội phát triển, ngược lại sẽ kìm hãm, thậm chí là triệt tiêu động lực
phát triển kinh tế xã hội.
Trong thế giới hiện đại, nhà nước là công cụ hữu hiệu nhất để điều tiết nền kinh
tế thị trường, bảo đảm cho nền kinh tế xã hội phát triển bền vững. Tuy nhiên, sự
can thiệp quá sâu của nhà nước vào thị trường sẽ làm biến dạng nền kinh tế và triệt
tiêu động lực phát triển kinh tế xã hội.

3. Chức năng của nhà nước
Chức năng nhà nước luôn gắn liền với bản chất nhà nước, bởi chức năng nhà
nước thể hiện bản chất nhà nước. “Chức năng của nhà nước tức là vai trò xã hội
của nhà nước”
3
.
Dưới góc độ chung nhất, có thể hiểu chức năng nhà nước là những phương diện
hoạt động cơ bản, thể hiện bản chất của nhà nước, do cơ sở kinh tế, xã hội quyết
định, nhằm thực hiện nhiệm vụ của nhà nước trong từng giai đoạn nhất định.
Cần phân biệt chức năng với nhiệm vụ của nhà nước. Những công việc mà nhà
nước phải thực hiện trong một thời gian nhất định để đạt được mục đính đã xác
định trước gọi là nhiệm vụ của nhà nước. Tuỳ theo yêu cầu của từng giai đoạn mà
nhiệm vụ của nhà nước được chia thành hai loại: Nhiệm vụ cơ bản (chiến lược) và
nhiệm vụ cụ thể (trước mắt). Nhiệm vụ cơ bản có vai trò quyết định đối với việc
xác định và thực hiện chức năng; còn nhiệm vụ cụ thể của nhà nước là nhằm giải
quyết và thực hiện những mục tiêu, những yêu cầu của thực tiễn công tác quản lý,
thực tiễn đời sống đặt ra.
Chức năng của nhà nước rất đa dạng và phong phú cho nên có nhiều tiêu chí để
phân loại. Khoa học pháp lý nước ta có cách phân loại phổ biến là căn cứ vào
phạm vị hoạt động của nhà nước để phân chia chức năng nhà nước thành hai loại.
Thứ nhất, chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước
trong nội bộ đất nước, như chức năng trấn áp và chức năng tổ chức, xây dựng.
Thứ hai, chức năng đối ngoại là những hoạt động cơ bản của nhà nước thể hiện
mối quan hệ của một nhà nước với các quốc gia, các dân tộc khác cũng như các tổ
chức quốc tế. Hai chức năng này của nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ, đan xen
lẫn nhau và cùng tương tác, hỗ trợ trợ nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ của nhà
nước.
Cũng có một số cách khác để phân loại chức năng nhà nước, như:
- Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, có thể phân chia chức năng của nhà nước
thành nhiều loại, như: Chức năng quản lý điều hành nền kinh tế, chức năng quản

lý xã hội, chức năng quản lý nền quốc phòng, an ninh; chức năng bang giao quốc
tế;
- Căn cứ vào tính chất hoạt động, có thể phân chia chức năng của nhà nước
thành hai loại là chức năng cai trị và chức năng phục vụ. Chức năng cai trị là

3
Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng-2002, tr.191
16

những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm để thiết lập, củng cố
trật tự quản lý và duy trì trật tự, an toàn xã hội. Chức năng phục vụ là những
phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi của
công dân, tổ chức trong thực tiễn đời sống.
Để thực hiện các chức năng của mình, nhà nước sử dụng nhiều hình thức hoạt
động khác nhau, trong đó có 03 hình thức cơ bản được sử dụng phổ biến là xây
dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.
Phương pháp hoạt động của nhà nước để thực hiện chức năng cũng đa dạng
nhưng có hai phương pháp được sử dụng một cách phổ biến là phương pháp giáo
dục thuyết phục và phương pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, từng kiểu nhà nước khác
nhau thì việc sử dụng hai phương pháp này cũng có sự khác nhau; ngay trong một
nhà nước, trong từng giai đoạn phát triển khác nhau thì việc sử dụng hai phương
pháp này cũng có sự khác nhau.
4. Các kiểu nhà nước
Khái niệm kiểu nhà nước giúp nhận thức được một cách cụ thể và lôgic về bản
chất và ý nghĩa xã hội của nhà nước được xếp vào cùng một loại, về những
điều kiện tồn tại và phát triển của các nhà nươc đó. Ví dụ: khi xác định một nhà
nước thuộc kiểu nhà nước chủ nô chúng ta sẽ có ngay những thông tin cơ bản
về bản chất và những dấu hiệu đặc trưng của nhà nước đó.
Lý luận Mác-Lênin về nhà nước và pháp luật đã đưa ra khái niệm kiểu nhà
nước trong lịch sử: kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ

bản đặc thù của nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn
tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Cơ
sở để xác định kiểu nhà nước là học thuyết Mác-Lênin về các hình thái kinh tế
xã hội. Mỗi kiểu nhà nước phù hợp với một chế độ kinh tế nhất định của xã hội
có giai cấp. Đặc điểm chung của mỗi hình thái kinh tế – xã hội sẽ quyết định
những dấu hiệu cơ bản, đặc thù của một kiểu nhà nước tương ứng.
Có 4 kiểu nhà nước (phù hợp với 4 hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử của xã
hội có giai cấp: chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ
nghĩa)
 Kiểu Nhà nước chủ nô
- Đây là nhà nước đầu tiên trong lịch sử, ra đời khi chế độ thị tộc, bộ lạc tan rã.
Nhà nước chủ nô tồn tại trên cơ sở phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ,
đặc trưng là chế độ sở hữu của chủ nô đối với TLSX và nô lệ.
- Xã hội có 2 giai cấp chính là chủ nô và nô lệ, nô lệ chiếm số đông. Ngoài ra
còn có thợ thủ công, công dân tự do, những người lệ thuộc nhà thờ hoặc kinh
tế nhà vua…
- Nhà nước chủ nô là công cụ bạo lực, duy trì sự thống trị về kinh tế, chính trị,
tinh thần, đàn áp một cách có tổ chức của giai cấp chủ nô đối với nô lệ và
nông nô.
- Chức năng đối ngoại nổi bật là tiến hành chiến tranh xâm lược, mở rộng
phạm vi lãnh thổ.
17

- Bộ máy nhà nước ban đầu đơn giản, còn mang dấu ấn của tổ chức thị tộc, chủ
nô vừa lãnh đạo quân đội, vừa đại diện chính quyền, vừa ban hành pháp luật,
vừa là quan toà.
 Kiểu Nhà nuớc phong kiến
- Nhà nước phong kiến ra đời trên cơ sở thay thế nhà nước chủ nô, xoá bỏ chế
độ nô lệ. Cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu của giai cấp địa chủ phong kiến đối
với tư liệu sản xuất.

- Kết cấu giai cấp: địa chủ, nông dân, thợ thủ công, thương nhân. Nông dân bị
phụ thuộc về kinh tế và phải thực hiện nhiều nghĩa vụ nặng nề đối với địa
chủ.
- Nhà nước phong kiến là bộ máy thống trị, bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất của
địa chủ phong kiến, bóc lột và đàn áp nông dân và các tầng lớp lao động bằng
bạo lực và tư tưởng, tuyên truyền hệ tư tưởng phong kiến.
- Nhà nước tổ chức các hoạt động kinh tế xã hội ở mức độ hạn chế, cũng tiến
hành chiến tranh xâm lược mở rộng đất đai và phòng thủ chống xâm lược.
 Kiểu Nhà nước tư sản
- Sự ra đời của nhà nước tư sản có vai trò tiến bộ trong việc giải phóng xã hội
khỏi sự kìm hãm của xã hội phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất. Đây
là kiểu nhà nước dựa trên cơ sở của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Cơ sở kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột
giá trị thặng dư.
- Cơ cấu giai cấp gồm 2 giai cấp chính là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Trong xã hội tư bản, công nhân và người lao động vẫn bình đẳng với chủ
dưới tư cách công dân nhưng chỉ về mặt hình thức.
- Nhà nước tư sản đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, đã đạt được
những thành tựu đáng kể cho xã hội loài người, đó là những cải cách nhiều
mặt về kinh tế, chính trị, xã hội để thích nghi với điều kiện, hoàn cảnh mới
đối với thời đại.
Về bản chất, nhà nước tư sản là công cụ trong tay giai cấp tư sản để thực hiện
chuyên chính tư sản.
 Kiểu Nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Nguyên nhân ra đời của nhà nước XHCN:
a. Tiền đề kinh tế: khi CNTB phát triển đến giai đoạn CNĐQ, quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa trở nên không còn phù hợp với tính xã hội hoá rất cao của lực
lượng sản xuất. Mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt, đòi hỏi khách quan
phải có CMXH, xoá bỏ QHSX đã lỗi thời, xây dựng một kiểu QHSX mới, phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Thông qua cuộc CM này,

nhà nước mới ra đời.
b. Tiền đề chính trị – xã hội: mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản ngày càng
trở nên gay gắt. Nhà nước tư sản ngày càng sử dụng nhiều biện pháp phản
động, quan liêu, độc tài nhưng được che đậy dưới các hình thức dân chủ. Với
18

sự phát triển của nền sản xuất TBCN, giai cấp vô sản ngày càng phát triển về số
lượng và chất lượng, tính tổ chức, kỷ luật, trở thành giai cấp lãnh đạo xã hội,
tiến hành cuộc CM giải phóng áp bức, bóc lột, thiết lập kiểu nhà nước mới của
giai cấp mình.
Trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, các ĐCS đã được thành lập để lãnh
đạo phong trào CM và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi của
CM.
c. Điều kiện về lịch sử, thời đại, yếu tố dân tộc ở từng quốc gia, từng vùng trên
thế giới cũng là nguyên nhân tác động đến quá trình ra đời của nhà nước
XHCN.
- Cơ sở kinh tế của nhà nước XHCN là QHSX XHCN dựa trên chế độ công
hữu về TLSX chủ yếu của xã hội.
- Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo nhà nước và xã hội, quyền lực nhà
nước thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
- Nhà nước XHCN là công cụ thống trị của đa số nhân dân lao động đối với
thiểu số bóc lột, với mục tiêu xây dựng xã hội bình đẳng, tự do, dân chủ.
Các nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản mặc dù mỗi kiểu có những đặc điểm
riêng, nhưng chúng đều là những kiểu nhà nước bóc lột được xây dựng trên cơ
sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Các nhà nước đó đều là “Nhà nước
theo đúng nghĩa” là công cụ để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì
sự thống trị của giai cấp bóc lột với đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
Nhà nươc xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới có bản chất khác hẳn với các
kiểu nhà nước bóc lột, nhà nước xã hội chủ nghĩa là “công cụ của chế độ làm
chủ tập thể xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ

chức thành cơ quan quyền lực chính trị. Trong thời kỳ quá độ đó là nhà nước
chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Nhiệm vụ của
nhà nước xã hội chủ nghĩa là thực hiện chuyên chính vô sản, thiết lập, củng cố
và phát triển chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dần dần từng bước xoá bỏ
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xoá bỏ mọi hình thức bóc lột, xây dựng một
xã hội mới không có giai cấp.
Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước mới tiến bộ hơn là một
quy luật tất yếu. Quy luật về sự thay thế kiểu nhà nước phù hợp với quy luật về
sự phát triển và thay thế các hình thái kinh tế – xã hội. Cách mạng là con đường
dẫn đến sự thay thế đó. Nhà nước của một kiểu lịch sử mới xuất hiện trong quá
trình cách mạng khi giai cấp thống trị mới đã giành được chính quyền. Các
cuộc cách mạng khác nhau diễn ra trong lịch sử đều tuân theo quy luật đó: nhà
nước phong kiến thay thế nhà nước chủ nô, nhà nước xã hội chủ nghĩa thay thế
nhà nước tư sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới tiến bộ nhất, nhưng cũng là
kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử. Sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ tiêu vong và sau đó sẽ không còn một kiểu
nhà nước nào khác nữa.
19

5. Hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và những phương
pháp để thực thi quyền lực đó.
Nếu như bản chất nhà nước chỉ rõ quyền lực nhà nước thuộc về ai, phục vụ lợi
ích giai cấp nào thì hình thức nhà nước nói lên cách thức tổ chức quyền lực ấy, tức
là phương thức chuyển ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí nhà nước.
Hình thức nhà nước là một khái niệm chung được hình thành bởi ba yếu tố:
Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.
5.1. Hình thức chính thể
Hình thức chính thể là cách thức và trình tự thành lập các cơ quan cao nhất

của quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau và với
nhân dân.
Hình thức chính thể của nhà nước, bao gồm hai dạng cơ bản là chính thể quân
chủ và chính thể cộng hoà.
Chính thể quân chủ là hình thức nhà nước mà cơ quan cao nhất của quyền lực
nhà nước là quốc vương (nhà vua, hoàng đế) lên ngôi theo nguyên tắc thế tập
(truyền ngôi) hoặc suy tôn.
Chính thể quân chủ gồm có hai dạng là quân chủ chuyên chế (tuyệt đối) và
quân chủ lập hiến (hạn chế).
Quân chủ chuyên chế (tuyệt đối) là hình thức nhà ước mà nhà vua có quyền lực
tối cao trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà vua cai trị một
cách chuyên quyền, độc đoán, theo ý chí cá nhân của mình mà không bị hạn chế.
Aristotle trong tác phẩm “Politics” đã chỉ rõ: “Chính thể chuyên chế là chính thể
mà một người có quyền lực tuyệt đối và bạo ngược đối với toàn thể cộng đồng và
mỗi thành viên trong đó”. Đây là hình thức phổ biến của kiểu nhà nước phong
kiến vào thời trung cổ. Hiện nay hình thức này hầu như không tồn tại trên thực tế.
Quân chủ hạn chế là hình thức nhà nước mà quyền lực của nhà vua bị hạn chế
bởi hiến pháp hoặc cơ quan khác. Trong hình thức này, nhà vua chỉ nắm giữ một
phần quyền lực tối cao của nhà nước, bên cạnh vua còn có cơ quan khác (thường
là nghị viện) để chia sẻ hoặc hạn chế quyền lực của nhà vua.
Chính thể cộng hoà là hình thức nhà nước mà cơ quan cao nhất của quyền lực
nhà nước được thiết lập theo nguyên tắc bầu cử.
Chính thể Cộng hoà, bao gồm hai loại: Cộng hoà quý tộc và cộng hoà dân chủ.
Cộng hoà quý tộc là hình thức chính thể mà quyền bầu cử chỉ được quy định
cho tầng lớp quý tộc hoặc những người có tài sản lớn.
Cộng hoà dân chủ là hình thức chính thể mà quyền bầu cử được quy định rộng
rãi cho mọi tầng lớp nhân dân khi họ có đủ điều kiện nhất định.
Trên thực tế thì hình thức chính thể quân chủ cũng như hình thức chính thể
cộng hoà còn có nhiều dạng biến thể khác nhau tuy theo điều kiện, hoàn cảnh và
pháp luật của mỗi nước.

5.2. Hình thức cấu trúc nhà nước.
20

Hình thức cấu trúc nhà nước là hình thức thiết lập các đơn vị hành chính lãnh
thổ và việc xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau cũng như với các cơ
quan nhà nước tối cao.
Hình thức cấu trúc nhà nước có hai dạng cơ bản là nhà nước đơn nhất và nhà
nước liên bang.
Nhà nước đơn nhất là dạng nhà nước có cấu trúc duy nhất một hệ thống cơ
quan tối cao của nhà nước, một hệ thống pháp luật trong phạm vi lãnh thổ một
quốc gia; trong nhà nước đơn nhất, công dân chỉ mang một quốc tịch. Ví dụ Cộng
Hòa Pháp, Cộng hòa Ý, Nhật, Việt Nam, v.v.
Nhà nước liên bang là dạng nhà nước có cấu trúc bởi nhiều nhà nước hợp thành
nhà nước liên bang, trong đó mỗi bang là một nhà nước có bộ máy các cơ quan
nhà nước riêng, một hệ thống pháp luật riêng của từng bang. Trong nhà nước liên
bang, công dân có thể có nhiều quốc tịch.
Các nhà nước được tổ chức theo hình thức liên bang, như: Liên bang Nga
4
,
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên bang Đức
5
, myanma
6
v.v.
Ngoài hai dạng nhà nước cơ bản nêu trên còn có dạng liên minh các nhà nước,
như Liên minh Châu Âu, các nước SNG (khối các quốc gia độc lập thuộc Liên
bang Xô Viết trước đây), khối các nước ASEAN,
5.3. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp (biện pháp, cách thức) mà các cơ
quan nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước.

Trong lịch sử xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị sử dụng nhiều phương pháp
để thực hiện quyền lực nhà nước, nhưng nhìn chung được ra hai loại chính là
phương pháp dân chủ và phương pháp phản dân chủ.
Dân chủ là chế độ mà nhân dân có quyền tham gia vào việc tổ chức, hoạt động,
quyết định những vấn để quan trọng của nhà nước. Ngay nay, đa số các quốc gia
trên thế giới đều thiết lập chế độ chính trị theo phương pháp dân chủ. Tuy nhiên
tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh, phong tục, tập quán và pháp luật khác nhau mà việc
sử dụng phương pháp này có sự khác nhau; ngay trong một nhà nước, tuỳ theo
từng giai đoạn khác nhau thì việc sử dụng phương pháp này cũng có sự khác nhau.
Xu thế chung là phương pháp dân chủ ngày càng được sử dụng một cách rộng rãi.
Vì dân chủ vốn là sự tiến bộ, là giá trị nhân văn của nhân loại.
Phản dân chủ là chế độ mà nhân dân bị hạn chế hoặc không có quyền tham gia
vào các công việc của nhà nước. Phương pháp này được sử dụng một cách phổ
biến trong kiểu nhà nước phong kiến (hình thức quân chủ chuyên chế). Vào những
năm 70, 80 của thế kỷ 20, một số nước vẫn còn sử dụng phương pháp này như chế
độ phân biệt chủng tộc Apacthai ở Nam Phi, chế độ diệt chủng Khơme Đỏ ở
Cămphuchia.

4
Nga có 21 nước cộng hòa, Diện tích tổng cộng khoảng 17.075.400 km², là đất nước có diện tích rộng nhất thế giới
5
Đức có 16 bang
6
Myanma có 7 bang : Bang Chin; Bang Kachin; Bang Kayin; Bang Kayah; Bang Mon; Bang Rakhine; Bang
Shan.
21

II. NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Sự ra đời của nhà nước Việt Nam
Theo sử sách thì ở nước ta, các thời đại Hùng Vương tồn tại trong khoảng trên

4 thế kỷ (từ khoảng năm 696-683 tr.CN đến 258 tr.CN). Nhà nước Văn Lang được
thành lập trên cơ sở kinh tế xã hội phát triển và XH đã có sự phân hoá giàu nghèo.
Tuy nhiên, mâu thuẫn giai cấp không phải là vấn đề cơ bản của XH Việt Nam lúc
bấy giờ và mâu thuẫn giai cấp chưa đến mức làm cho nhà nước xuất hiện. Xuất
phát từ điều kiện tự nhiên, nước ta vốn là một nước nông nghiệp trồng lúa nước
nhưng luôn bị thiên tai đe dọa. Hơn nữa, nước ta có vị trí địa lý rất thuận lợi cho
lưu thông quốc tế, nơi tiếp giáp với Trung Quốc nên thường xuyên bị các triều đại
phong kiến Trung Quốc và các thế lực ngoại xâm gây chiến. Xuất phát từ nhu cầu
xây dựng các công trình trị thủy và liên kết chống giặc ngoại xâm, buộc cộng đồng
người Việt phải tập hợp lực lượng để chống lại chiến tranh và trị thuỷ để phục vụ
sản xuất nông nghiệp.
Nằm ở phía Bắc nước ta, lúc bấy giờ có Bộ lạc Tây Âu, đứng đầu là thủ lĩnh
người họ Thục có thế lực vượt trội và tiến bộ nhất trong cộng đồng dân cư người
Việt. Thục Phán đã sát nhập các bộ lạc khác với bộ lạc Tây Âu thành một quốc gia,
lên ngôi vua, lấy hiệu là An Dương Vương và đổi tên nước là Âu Lạc rồi chuyển
kinh đô từ Phong châu (Bạch Hạc-Việt Trì) về Cổ loa (Kẻ Chủ - Phong Khê). An
Dương Vương trị vì đất nước được 50 năm từ năm Giáp thìn 257 tr.CN đến năm
Quý tỵ 208 tr.CN.
Năm 214 tr.CN, sau bảy năm thống nhất đất nước Trung Hoa, nhà Tần đã thúc
quân xâm chiếm khu đất Lục Lương (một vùng đất rộng lớn phía Nam Trung Hoa
và Bắc Âu Lạc). Từ đó nước ta liên tục bị các triều đại phong kiến phương Bắc
xâm lược và đô hộ cùng với sự đô hộ của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng đánh vào Đà Nẵng xâm lược nước ta. Triều
đình nhà Nguyễn nhanh chóng đầu hàng và nước ta lại rơi vào ánh đô hộ của chế
độ thực dân, phong kiến.
Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN, nhân dân ta đã thực hiện
thắng lợi cuộc tổng khởi nghĩa lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch
sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với
quốc dân đồng bào trong nước và quốc tế sự ra đời của Nhà nước Việt Nam - Nhà

nước Công nông đầu tiên trên bán đảo Đông Dương.
Năm 1954, sau hơn chín năm chiến tranh chống thực dân Pháp, với chiến dịch
Điện Biên Phủ thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và tiến lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội, miền Nam tạm thời còn bị chia cắt và bị đế quốc Mỹ đô hộ.
Thắng lợi của chiến dịch mùa xuân năm 1975, quân và dân ta đã đánh tan đế
quốc Mỹ và chế độ nguỵ quyền Sài Gòn, đất nước thống nhất và cả nước đi lên
xây dựng CNXH, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và cả dân tộc
Việt Nam lựa chọn. Năm 1976, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được đổi tên
thành nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
22

2. Bản chất Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thuộc kiểu nhà nước XHCN là nhà nước
kiểu mới, có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột. Bản chất
nhà nước XHCN do cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa và đặc điểm của quyền lực
chính trị của chủ nghĩa xã hội quyết định.
Ra đời từ cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngay từ những ngày đầu, nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thể hiện bản chất của một nhà nước gắn bó
máu thịt và phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Trải qua
hơn ba mươi năm chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thắng lợi, đất
nước ta hoàn toàn giải phóng, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên cả nước đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bản chất của nhà nước ta được khẳng định tại Điều 1, Hiến pháp năm 1946 -
bản Hiến pháp đầu tiên: “ Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi
giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” và tiếp tục được khẳng định tại các
bản Hiến pháp tiếp theo (Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp 1980, và Hiến pháp
1992), cụ thể là tại Điều 2, Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) ghi rõ: “Nhà nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam của nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức”.
Bản chất nhà nước ta được thể hiện trên các phương diện như sau:
Thứ nhất, nhà nước ta mang bản chất của giai cấp công nhân, là nhà nước của
nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân.
Nhà nước ta được xây dựng trên nền tảng học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, do Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân Việt
Nam cầm quyền. Đó là nhà nước của liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, là nhà nước của nhân dân, vì nhân dân,
do nhân dân. Nhân dân là chủ thể cao nhất có quyền định đoạt quyền lực nhà nước.
Nhà nước là một tổ chức thông qua đó, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình trên các lĩnh vực của đời sống xã hội dưới nhiều hình thức do pháp luật quy
định. Hình thức cơ bản nhất là nhân dân thực hiện quyền bầu cử để lập ra các các
cơ quan đại biểu (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) thay mặt cho ý chí nguyện vọng
và quyền làm chủ của mình để trực tiếp hoặc gián tiếp lập nên các cơ quan nhà
nước khác để quản lý đất nước; đồng thời thực hiện quyền giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân.
Thứ hai, nhà nước là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết dân tộc.
Tính dân tộc của nhà nước ta là một vấn đề có tính lịch sử, là truyền thống lâu
đời, là nguồn sức mạnh của nhà nước và của cả dân tộc. Điều này đã được chứng
minh trong thực tiễn của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như cuộc cách
mạng XHCN và tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 (Điều 5):
23

“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của các
dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách
bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị,
chia rẽ dân tộc. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước
nâng cao đời sống vật chất và tinh thấn của đồng bào dân tộc thiểu số”. Nghĩa là

nhà nước ta là nhà nước của khối đại đoàn kết các dân tộc anh em cùng chung sống
trên lãnh thổ Việt Nam. Mọi hành vi chia rẽ, kỳ thị, làm phương hại đến khối đại
đoàn kết dân tộc đều bị nghiêm cấm và trừng trị.
Thứ ba, nhà nước thể hiện tính xã hội rộng lớn.
Mặc dù nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, nhưng nhà nước ta
phản ánh và bảo vệ lợi ích của cả dân tộc. Vì lợi ích của giai cấp công nhân về cơ
bản thống nhất với lợi ích của giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và lợi ích của
toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhà nước ngoài chức năng trấn áp, còn đặc biệt quan tâm giải quyết các vấn đề
của toàn xã hội, như việc làm, thất nghiệp, xoá đói, giảm nghèo, chăm sóc sức
khỏe nhân dân, giúp đỡ người già cô đơn, trẻ mồ côi, v.v.
Thứ tư, nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN
Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước trong lịch sử nhân loại
mà ở nhà nước đó thượng tôn và đề cao vai trò của pháp luật trong việc “cai trị”,
quản lý xã hội. Ở nhà nước pháp quyền, mọi chủ thể (bao gồm cá nhân, tổ chức và
cả nhà nước) đều thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật, coi pháp
luật là thước đo tính đúng đắn, tính hợp pháp trong hành vi hoạt động của mình.
Công cụ quan trọng và hữu hiệu nhất mà nhà nước sử dụng để quản lý xã hội cũng
như để kiểm soát hoạt động của nhà nước là pháp luật.
Ngoài những yêu cầu chung của nhà nước pháp quyền nêu trên, nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam còn có những đặc trưng riêng, cụ thể:
- Quyền lực nhà nước là thống nhất không có sự phân chia nhưng được phân
định rõ ràng và có sự phân công trong việc thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
- Hệ thống pháp luật mang đậm tính nhân văn, trong đó văn bản Luật có vị trí
tối thượng.
- Cở sở kinh tế của nhà nước cũng như của pháp luật được xây dựng trên nền
tảng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
- Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi hoạt

động của nhà nước, kể cả hoạt động xây dựng pháp luật đều đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Thứ năm, nhà nước thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị với các nước trên
thế giới.
Bản chất nhà nước ta không chỉ thể hiện trong đối nội mà còn được phản ánh
trong hoạt động đối ngoại.
24

Nhà nước thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng; đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế với phương châm: Việt Nam muồn
làm bạn với tất cả các nước trên thế giới; chủ động hội nhập kinh tế quốc ế và khu
vực. Điều này được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992 (Điều 14): Nước Cộng
hoà XHXN Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình hữu nghị, mở rộng giao lưu và
hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã
hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và hợp
tác với các nước XHCN và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
3. Chức năng của nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
Chức năng cơ bản của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là những phương
diện hoạt động chủ yếu, thể hiện bản chất, vai trò của nhà nước, nhằm thực hiện
mục tiêu chiến lược là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt
Nam XHCN.
Chức năng cơ bản của nhà nước liên hệ mật thiết với nhiệm vụ cơ bản của nhà
nước. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước là những công việc then chốt được đặt ra mà
nhà nước phải giải quyết, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ và văn minh”; là cơ sở để xác định số lượng, nội dung, hình thức và
phương pháp thực hiện của chức năng cơ bản.
Chức năng cơ bản của nhà nước ta bao gồm chức năng đối nội và chức năng

đối ngoại.
a) Các chức năng đối nội
- Chức năng tổ chức và quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định
hướng XHCN.
Nhà nước XHCN không những là tổ chức quyền lực chính trị, mà còn là đại
diện chủ sở hữu các TLSX chủ yếu trong xã hội; trực tiếp tổ chức vận hành và
quản lý nền kinh tế. Nhằm mục đích xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Nội
dung của chức năng này gồm ba vấn đề then chốt: Xác lập và hoàn thiện QHSX xã
hội chủ nghĩa để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; xác lập và củng cố cơ chế
mới về quản lý kinh tế; thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, bảo đảm
công bằng và giải quyết tốt các vấn đề xã hội phát sinh trong quá trình vận hành
nên kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Chức năng tổ chức và quản lý nền văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ.
Mục đích của việc thực hiện chức năng này nhằm xây dựng nền văn hoá mới,
con người mới, lối sống mới; nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài; thiết lập nền khoa học, công nghệ tiên tiến phục vụ đắc lực công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Về văn hoá, nhà nước bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; kế thừa và
phát huy những giá trị của nền văn hiến Việt Nam; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
25

loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân; nghiêm cấm truyền bá tư
tưởng và văn hoá phản động, đồi truỵ; bài trừ mê tín dị đoan, các hủ tục lạc hậu.
Về giáo dục, nhà nước xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương
trình, nội dung, văn bằng chứng chỉ; thực hiện mạnh mẽ chủ trương xã hội hoá
công tác giáo dục.
Về khoa học công nghệ, nhà nước ưu tiên đầu tư cho khoa học công nghệ, đặc
biệt những ngành khoa học mũi nhọn; phát triển đồng bộ các ngành khoa học, đổi

mới công nghệ; chăm lo đào tạo, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ khoa hoạc, kỹ
thuật; gắn việc nghiên cứu khoa học với sản xuất.
- Chức năng giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm
thực thi pháp luật nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công
dân.
Việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo đảm cho pháp luật
được thực thi có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững
xã hội. Pháp luật - công cụ cơ bản của nhà nước trong việc quản lý xã hội được
thực thi một cách nghiêm chỉnh sẽ góp phần thiết lập và duy trì trật tự, ổn định và
phát triển xã hội.
b) Các chức năng đối ngoại
- Chức năng bảo vệ tổ quốc XHCN.
Bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền quốc gia là vấn đề có tính sống còn của nhà nước.
Đất nước đã thống nhất nhưng các thế lực thù địch, phản động vẫn không ngừng
thực hiện các mưu đồ phá hoại, lật đổ chính quyền nhân dân, gây chiến tranh xâm
lược. Vì vậy chức năng bảo vệ tổ quốc là một trong những chức năng cơ bản, quan
trọng hàng đầu của nhà nước, của cả Hệ thống chính trị. Nhà nước ra sức củng cố
nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân; kết hợp xây dựng kinh tế
với quốc phòng; xây dựng quân đội, công an chính quy, tinh nhuệ và từng bước
hiện đại để đáp ứng yêu cầu và hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Chức năng mở rộng quan hệ và hợp tác với tất cả các nước, các dân tộc trên
thế giới, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ, bình đẳng và các bên cùng có lợi.
Nội dung của chức năng này bao gồm nhiều phương diện hoạt động, như duy
trì và phát triển quan hệ hợp tác với các nước XHCN, các đối tác kinh tế lớn, các
nước láng giềng, các tổ chức quốc tế nhằm thúc đẩy và phát trển kinh tế, xã hội.
- Chức năng ủng hộ các cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Yêu chuộng hoà bình và quý trọng tự do vốn là truyền thống của dân tộc Việt.
Nhà nước đã và đang làm hết sức mình vì mục tiêu giữ gìn hoà bình, độc lập dân

tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Việc thực hiện chức năng này thông qua nhiều hình
thức, như ký kết hoạc tham gia các điều ước quốc tế về bảo vệ hoà bình, quyền
con người và các vấn đề có tính toàn cầu; trực tiếp tham gia các tổ chức quốc tế để
đấu tranh, giữ gìn hoà bình và những giá trị của nhân loại.

×