Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Giá trị của tư tưởng hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc trong cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.76 KB, 33 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________

BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
HỌC KỲ 213/ NĂM HỌC 2021 – 2022

LỚP: DT05
NHÓM: 25
GVHD: TS. PHAN DUY ANH

Tp. Hồ Chí Minh - 2022


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_______________________

ĐỀ BÀI TẬP LỚN:
GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH
MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC TRONG CUỘC BẢO
VỆ CHỦ QUYỀN ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
Tên các thành viên trong nhóm (MSSV):

Phạm Chánh Tồn (1912230)
Lê Thanh Sơn (1911977)
Trần Trung Hiếu (1913367)
Ngơ Hồng Phương Giao (1913197)
Nguyễn Đình Bảo Huy (1913367)
Nguyễn Triệu Vỹ (1912490)



2


Tp. Hồ Chí Minh - 2022

1


0


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................4
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG
DÂN TỘC.........................................................................................................4
1.1 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vơ sản...........................................................................4
1.2 Cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện của Việt Nam, muốn
thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo...............................................5
1.3 Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đoàn kết toàn
dân tộc, lấy liên minh công – nông làm nền tảng..................................... 7
1.4 Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc..............................9
1.5 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
bạo lực cách mạng...................................................................................10
Chương 2. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI

PHÓNG DÂN TỘC TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY.................................12
2.1 Giá trị về mặt lý luận.........................................................................12
2.1.1 Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vơ sản..........12
2.1.2 Hồ Chí Minh vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
trong vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam......................................15
2.1.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc đã trở
thành nền tảng tư tưởng của các đường lối cách mạng giải phóng dân
tộc của Đảng Cộng sản........................................................................20
2.1.4 Giá trị trong Tư tưởng Hồ Chí Minh..........................................20
2.2 Giá trị về mặt thực tiễn..................................................................... 21
KẾT LUẬN.....................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................30

1


MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Thực dân Pháp tiến hành cuộc xâm lược nước ta từ năm 1858, đến 1884, chúng
hoàn thành bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ nước ta, biến nước ta thành thuộc địa
của chúng. Giặc cướp, áp bức bóc lột, nỗi ốn hận đã khiến nhân dân ta nổi dậy hợp
lực, đấu tranh lật đổ ách đô hộ của bọn thực dân Pháp. Ban đầu, nổ ra các phong
trào theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản, tiêu biểu là: phong trào Cần Vương,
Đông kinh Nghĩa Thục, Duy Tân… nhưng tất cả đều thất bại. Mọi nỗ lực dẫn đến
đường lối giải phóng dân tộc dường như rơi vào đường bế tắc. Trước hoàn cảnh đất
nước, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được nếu vẫn đi theo tư tưởng phong kiến
hoặc tư sản thì khơng thể giải phóng đất nước. Nhằm hiểu rõ kẻ thù của mình,
Người hướng con đường cứu nước sang Phương Tây, cụ thể là nước Pháp để tìm
hiểu khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” mà thế lực thù địch truyền bá. Khi đọc
được luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, cùng với vận

dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã tìm ra được con đường đúng đắn
để giải phóng, dành độc lập, tự do cho dân tộc. Theo Tư tưởng Hồ Chí Minh: Muốn
thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản, phải dựa trên lực lượng đoàn kết tồn dân tộc, lấy liên minh cơng – nơng
làm nền tảng cần chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng vơ sản ở chính quốc, phải được tiến hành bằng con đường bạo lực cách mạng.
Đấy là lý do chúng ta tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải
phóng dân tộc.
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngồi đều ln
ln tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và
phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Viêt Nam, thực thi
chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng
dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá
nhân trên cơ sở lấy liên minh cơng nơng và trí thức làm nòng cốt

2


do Đảng cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của tổ quốc, tự do, hạnh phúc của
của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt
có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực
hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện
nay.
Thấu hiểu được tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp nhuần nhuyễn, sáng suốt và
thông minh, kiên định về nguyên tắc và mục tiêu không thay đổi cùng với sự linh
hoạt và thường xuyên đổi mới, sáng tạo phù hợp, đáp ứng tình hình quốc tế và đất
nước trong thời kỳ đầy biến động nhanh và khôn lường hiện nay - đó là bí quyết
thành cơng trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Đảng ta và dân tộc ta. Đó là lý do
nhóm chọn đề tài: “Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc trong công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước Việt Nam hiện nay” làm bài tập lớn

kết thúc môn học.
Nhiệm vụ của đề tài:
Một là, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Hai là, làm rõ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
trong bối cảnh hiện nay.

3


NỘI DUNG
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG
DÂN TỘC
1.1 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản
Từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị nước ta, vấn đề
sống còn của dân tộc được đặt ra là phải đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thực
dân, đế quốc. Hàng loạt những phong trào yêu nước đã nổ ra nhưng không thành
công, sự thất bại của những phong trào yêu nước trong thời kỳ này thể hiện sự
khủng hoảng, bế tắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cách mạng. Vượt qua tầm
nhìn của các bậc tiền bối lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh muốn tìm kiếm con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc ở phương Tây,như Người đã nói: “Tơi muốn đi ra nước
ngồi, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét hị làm như thế nào, tôi sẽ
trở về giúp đồng bào chúng ta”1. Nhưng qua tìm hiểu thực tế sau đó, Người quyết
định khơng chọn con đường cách mạng tư sản vì cho rằng: “Cách mệnh Pháp cũng
như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là
cộng hịa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức
thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nhân Pháp hẵng cịn phải mưu cách
mệnh lần nữa mới hịng thốt khỏi ách áp bức”2.
Năm 1917, Cách mạnh Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc tới
Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người

cho rằng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là thành cơng, và thành
cơng đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật,
khơng phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang
bên An Nam… Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin” 3.
Năm 1920, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó con đường
1.
2.
3.

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.15, tr.621.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.296.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.304.

4


cứu nước, giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản, như sau này Người
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường náo khác
là con đường cách mạng vô sản” 4. Đây là con đường cách mạng triệt để nhất phù
hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Trong
bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người kể lại: “Luận cương của Lênin
làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi trong mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nới trước quần
chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đay là cái cần thiết cho chúng
ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tơi hồn tồn tin theo Lênin, tin
theo Quốc tế thứ ba”5. Học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin
được Ngươi vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cách mạng Việt Nam.
Giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là
trước hết, trên hết. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, con đường cách mạng vô sản ở

châu Âu là đi từ giải phóng giai cấp – giải phóng dân tộc – giải phóng xã hội – giải
phóng con người. Cịn theo Hồ Chí Minh, ở Việt Nam và các nước thuộc địa do
hồn cảnh lịch sử - chính trị khác với châu Âu nên phải là: giải phóng dân tộc – giải
phóng xã hội – giải phóng giai cấp – giải phóng con người.
Đọc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt của
Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã khẳng định phương hướng chiến lược cách mạng
Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản. Phương hướng này vừa phù hớp với xu thế phát triển của thời đại vừa
hướng tới giải quyết một cách triệt để những yêu cầu khách quan, cụ thể mà cách
mạng Việt Nam đặt ra vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.
Trong văn kiện Đại hội VI Quốc tế Cộng Sản, khái niệm “Cách mạng tư sản
dân quyền” không bao hàm đầy đủ nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân rộc ở
các nước thuộc địa. Còn trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh nêu rõ:
Cách mạng tư sản dân quyền trước hết phải là đánh đổ đé quốc và bọn phong kiến,
làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập… Cũng theo Quốc tế Cộng sản, hai
4.

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.12, tr.30. 5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.562.

5


nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến phải được thực hiện đồng thời, khăng
khít với nhau, nương tựa vào nhau. Nhưng xuất phát từ một nước thuộc địa, Hồ Chí
Minh khơng coi hai nhiệm vụ đó nhất loạt phải thực hiện ngang nhau, mà đặt lên
hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, cịn nhiệm vụ chống
phong kiến, mang lại ruộng đất cho nông dân thì sẽ từng bước thực hiện. Cho nên
trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Người chỉ nêu “thâu hết ruộng đất của đế
quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân cày nghèo” 6 mà chưa nêu ra chủ trương
“người cày có ruộng”. Đây là nét độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh.

1.2 Cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện của Việt Nam, muốn
thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Về tầm quan trọng của tổ chức đảng đối với cách mạng, chủ nghĩa Mác –
Lênin chỉ rõ: Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp cơng nhân hồn thành
sứ mệnh lịch sử của mình. Giai cấp cơng nhân phải tổ chức ra chính đảng, đảng đó
phải thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông dảo quần chúng, huấn luyện quần chúng
và đưa quần chúng ra đấu tranh. Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận chủ chủ nghĩa Mác –
Lênin và rất chú trọng đến việc thành lập Đảng Cộng sản, khẳng định vai trò to lớn
của Đảng đối với cách mạng giải phóng dân tộc theo cách mạng vơ sản. Trong tác
phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), Người đặt vấn đề: Cách mệnh trước mắt phải
có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức quần
chúng, ngồi thì liên lạc với các dân tộc áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có
vững thì cách mệnh mới thành cơng7…
Trong hồn cảnh Việt Nam là một nước thuộc địa – phong kiến, Hồ Chí Minh
cho rằng, Đảng Cộng sản vừa là đội tiên phong của giai cấp công nhân vừa là đội iên
phong của giai cấp nhân dân lao động, kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sách nhất,
tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc. Đcòn là Đảng của cả dân tộc Việt Nam. Trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng (năm 1951), Người viết: “ Chính vì

6.
7.

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.3, tr.2.
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289.

6


Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động,
cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”8.

Đây là luận điểm quan trọng của Hồ Chí Minh có ý nghĩa bổ sung, phát triển
lý luận mácxít của Đảng cộng sản.
1.3 Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đồn kết tồn
dân tộc, lấy liên minh cơng – nơng làm nền tảng
Các nhà lý luận kinh điển của chủ nghãi Mác – Lênin khẳng định rằng: cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân: quần chúng nhân dân là chủ thể sáng
tạo ra lịch sử. V.I. Leenin viết: “Khơng có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân
dân lao động đối với đội tiên phong của mình, tức là đối với giai cấp vơ sản, thì
cách mạng vô sản không thể thành công được”9.
Kế thừa tư tưởng của các nhà lý luận nói trên, Hồ Chí Minh quan niệm: có dân
là có tất cả, trên đời này khơng gì q bằng dân, được lịng dân thì được tất cả, mất
lịng dân thì mất tất cả. Người khẳng định: “cách mệnh là việc chung của cả dân
chúng chứ không phải việc một hai người”10. Người lý giải gần “dân tộc cách mệnh
thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền”11. Vậy nên phải tập hợp và đoàn kết toàn dân thì cách mạng mới thành cơng.
Trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách
mạng bao gồm toàn dân: Đảng phải thu phục đại bộ phận giai cấp công nhân, tập
hợp đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng; liên
lạc với tiểu tư sản, tri thức, trung nơng,…để lơi kéo họ về phía vơ sản giai cấp; cịn
đối với phú nơng, trung, tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập12.
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí Minh tha
thiết kêu gọi mọi người không phân biệt giai tầng, dân tộc, tơn giáo, đảng phái,…
đồn kết đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc. Trong Lời kêu gọi toàn quốc
8.
9.
10.
11
12.


Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.7, tr.41.
V.I. Lênin: Tồn tập, Sđd, t.39, tr.251.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.238.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.287
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.3.

7


kháng chiến ( tháng 12/1946), Người viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người
già, người trẻ, không chia đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì
phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”13.
Trong khi xác định lực lượng cách mạng là tồn dân, Hồ Chí Minh lưu ý rằng,
khơng được qn “công nông là người chủ cách mệnh…là gốc cách mệnh” 14. Trong
tác phẩm Đường cách mệnh, Người giải thích: giai cấp công nhân và nông dân là
giai cấp đông đảo và cách mạng nhất, bị bóc lột nặng nề nhất, vì thế “lịng cách
mạng càng bền, chí cách mệnh càng quyết…cơng nơng là tay khơng chân rồi, nếu
thua thì chỉ mất một kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc” 15
1.4 Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Do chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng thuộc địa nên
Quốc tế Cộng sản có lúc xem nhẹ vai trị của cách mạng thuộc địa, coi cách mạng
thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc. Đại hội VI Quốc tế Cộng
sản năm 1928 đã thông qua Những luận cương về phong trào cách mạng trong các
nước thuộc địa và nửa thuộc địa, trong đó có đoạn viết rằng: chỉ có thể thực hiện
hồn tồn cơng cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được
thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này có tác động khơng tốt, làm
giảm đi tính chủ động, sáng tạo của nhân dân các nước thuộc địa trong công cuộc
đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành độc lập cho dân tộc. Quán triệt tư tưởng
của V.L.Lênin về mối quan hệ chặt chẽ giữa cách mạng vơ sản ở chính quốc với

phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa.
Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ khắng khít, tác động qua lại lẫn nhau giữa
cách mạng thuộc địa và cách mạng vơ sản ở chính quốc - mối quan hệ bình đẳng,
khơng lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau.

13.
14.
15.

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.534.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.288.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.288.

8


Năm 1924, tại Đại hội V của Quốc tế Cộng sản, Người nói: “Vận mệnh của
giai cấp vơ sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi
xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”.
Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Người cũng viết: “Chủ nghĩa tư bản là
một con đĩa có một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi
khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải
đồng thời cắt cả hai vịi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi, thì cái vòi còn lại kia vẫn
tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt
lại sẽ mọc ra". Là một người dân thuộc địa, là người cộng sản và là người nghiên
cứu rất kỹ về chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: cách mạng thuộc địa
khơng những khơng phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc mà có thể giành
thắng lợi trước. Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và
áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột để tiện của một bọn thực dân lòng tham khơng
đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong

những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp
đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”.
Luận điểm sáng tạo trên của Hồ Chí Minh dựa trên các cơ sở sau:
-

Thuộc địa có một vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế

quốc, là nơi duy trì sự tồn tại, phát triển, là món mồi “béo bờ” cho chủ nghĩa đế quốc.
Tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, ngày 23-6-1924, Hồ Chí Minh đã phát biểu để “thức
tỉnh...về vấn đề thuộc địa”. Người cho rằng: “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản
chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”; nếu thờ ơ về vấn đề cách
mạng ở thuộc địa thì như “đánh chết rắn đẳng đuôi”. Cho nên, cách mạng ở thuộc địa có
vai trị rất lớn trong việc cùng với cách mạng vơ sản ở chính quốc tiêu diệt chủ nghĩa đế
quốc.
-

Tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc địa,

mà theo Người nó sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng lồ" khi được
tập hợp, hướng dẫn và giác ngộ cách mạng.

9


Với thực tiễn thắng lợi năm 1945 ở Việt Nam cũng như phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới đã thành công vào những năm 60, trong khi cách mạng vơ sản


chính quốc chưa nổ ra và thắng lợi, càng chứng minh luận điểm trên của Hồ Chí


Minh là độc đáo, sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn.
1.5 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
bạo lực cách mạng
Trong bộ Tư bản, quyển I, tập thứ nhất, xuất bản lần đầu tiên năm 1867,
C.Mác viết: “Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ
mới". Năm 1878, trong tác phẩm Chống Đuyinh, Ph.Ăngghen nhắc lại: “Bạo lực
cịn đóng một vai trị khác trong lịch sử, vai trị cách mạng; nói theo C.Mác, bạo lực
còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới; bạo lực là công cụ
mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan tành những hình
thức chính trị đã hóa đá và chết cứng”. Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, với kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga và cách mạng thế giới,
V.I.Lênin khẳng định tính tất yếu của bạo lực cách mạng: khơng có bạo lực cách
mạng thì khơng thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được.
Dựa trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã thấy rõ sự cần
thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù
của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách
mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền". Người vạch rõ: “Chế độ thực
dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi".
Và sau khi xâm chiếm, bọn thực dân đế quốc đã thực hiện chế độ cai trị vô cùng tàn
bạo: dùng bạo lực để đàn áp dã man các phong trào yêu nước, thủ tiêu mọi quyền tự
do, dân chủ của nhân dân, bóc lột và đẩy người dân thuộc địa vào bước đường cùng.
Vì vậy, muốn đánh đổ thực dân - phong kiến giành độc lập dân tộc thì tất yếu phải
sử dụng phương pháp bạo lực cách mạng, dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo
lực phản cách mạng của kẻ thù.

10


Về hình thức bạo lực cách mạng, theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng ở đây là

bạo lực của quần chúng được với hai lực lượng chính trị và qn sự, hai hình thức đấu
tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; chính trị và đấu tranh chính trị của
quần chúng là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ
trang; đấu tranh vũ trang có ý nghĩa quyết định đối với việc tiêu diệt lực lượng quân sự
và âm mưu thơn tính của thực dân đế quốc, đi đến kết thúc chiến tranh. Trong Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, với hình thức tổng khởi nghĩa của quần chúng nhân dân
trong cả nước, chủ yếu dựa vào lực lượng chính trị, kết hợp với lực lượng vũ trang,
nhân dân ta đã thắng lợi, giành chính quyền về tay nhân dân.

11


Chương 2. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
2.1 Giá trị về mặt lý luận
2.1.1 Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vơ sản
Sự đồn kết, thống nhất về ý chí và đội ngũ của giai cấp cơng nhân chính là
nội dung cơ bản, ngun tắc hàng đầu. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác
và Ph.Ăngghen thay mặt Liên đoàn những người cộng sản viết và được cơng bố vào
tháng 3-1848 có lời kết như lời kêu gọi và cũng là mệnh lệnh hành động của tất cả
những người vô sản trên thế giới: Công nhân toàn thế giới hãy liên hiệp lại! Đây là
điểm mà những người nghiên cứu về chủ nghĩa Mác đều thống nhất khi đề cập đến
nội dung của chủ nghĩa quốc tế vơ sản. V.Lênin: “Vơ sản tồn thế giới và các dân
tộc bị áp bức đoàn kết lại”
Nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này, chúng ta có thể nhận ra “những tầng bản
chất” của chủ nghĩa quốc tế vơ sản. Điển hình là 5 nội dung về sự thống nhất mà
giai cấp cơng nhân tồn thế giới cần đạt tới: thống nhất về lợi ích, thống nhất về tư
tưởng, thống nhất về mục tiêu, thống nhất về tổ chức và thống nhất trong hành
động.
2.1.2 Hồ Chí Minh vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin trong vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam

2.1.2.1 Nhận định lại về thực tiễn và cốt lõi vấn đề giải phóng dân tộc
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn đất nước và quá trình
hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc, giải quyết đúng đắn, sáng
tạo vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Những sáng tạo lý
luận của Người về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc là một dấu ấn
nổi bật, góp phần tạo nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng
thời có giá trị thời đại sâu sắc.
Do những quy định của điều kiện lịch sử và cả những sai lầm trong đường lối
cứu nước của các bậc tiền bối dựa vào chủ nghĩa phong kiến, tư bản đã không giải
quyết thành công vấn đề dân tộc thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy nhu cầu

12


bức thiết, trước mắt cũng như lâu dài của các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt
Nam là đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập, tự do cho dân tộc và tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Từ thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh khẳng định, nội dung cốt lõi của vấn đề
dân tộc thuộc địa là “độc lập dân tộc”. Giải quyết mâu thuẫn ấy để giành lại độc lập,
tự do là nhiệm vụ hàng đầu, khơng giành được độc lập dân tộc thì khơng có gì hết.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (năm 1930) đã chủ trương: “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Nhiệm vụ hàng
đầu của tư sản dân quyền cách mạng là: “Ðánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” 16. Cách mạng tư sản dân
quyền sẽ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là đánh đuổi đế quốc, thực dân giành
độc lập dân tộc; đánh đổ phong kiến tay sai giành ruộng đất cho dây cày nghèo.
Trong hai nhiệm vụ ấy, giải phóng dân tộc cần được đặt lên trước hết.
Độc lập phải là độc lập thật sự. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Một dân tộc có được nền độc lập thật sự khi đánh đuổi hoàn toàn kẻ xâm lược,
thống trị ra khỏi lãnh thổ, quốc gia của dân tộc mình và có tồn quyền quyết định

vận mệnh và mọi vấn đề của dân tộc mình, trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia dân
tộc mình. Độc lập dân tộc thật sự còn gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Năm
1945, sau Cách mạng tháng Tám, trong bức thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng, Hồ Chí Minh nói: “Nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” 17. Độc lập dân tộc là tiền đề, điều kiện
của CNXH.
Trong bối cảnh chính trị mới của thế giới hiện nay, chủ nghĩa quốc tế vô sản
vẫn là quy luật vận động phát triển và thắng lợi của cuộc đấu tranh của giai câp
cơng nhân trên tồn thế giới. Đã và đang xuất hiện nhiều thách thức, khó khăn mới
từ chiến lược tồn cầu của chủ nghĩa đế quốc, từ “chủ nghĩa tự do mới” và chủ
nghĩa quốc gia - dân tộc hiện đại...Thực tế đó địi hỏi mỗi đảng cộng sản và tồn thể

16 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị qc gia, H. 2011, tr 1
17 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr64

13


phong trào công nhân thế giới cần phải nỗ lực, đồn kết và sáng tạo để vượt qua.
2.1.2.2 Hồ Chí Minh vận dụng và giải quyết sáng tạo vấn đề giải phóng
dân tộc
Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản.
Năm 1920, đọc Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và các vấn đề
thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn - con
đường cách mạng vô sản và Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Người khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”18. Người sớm xác định phương hướng chiến lược của
cách mạng Việt Nam là: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản. Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ

sản, tức là độc lập dân tộc đi tới xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên
quyết, là tiền đề đi tới XHCN. CNXH là hạnh phúc, tự do. Chính theo con đường
cách mạng vơ sản, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám
1945, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa (2/9/1945). Trong
Tun ngơn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh
trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật
đã thành một nước tự do độc lập”19.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo.
Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân
tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa
18 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr 30
19 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr 3

14


ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có
bàn chỉ nam”20. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng
thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem
lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh so với chủ nghĩa Mác - Lênin khơng chỉ bổ sung
yếu tố phong trào yêu nước vào sự ra đời của Đảng Cộng sản mà còn cho thấy
phong trào yêu nước có khả năng kết hợp với phong trào cơng nhân, vì cả hai phong
trào cùng một nhiệm vụ và mục tiêu trước mắt là chống xâm lược, giành độc lập dân
tộc.

Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên
cơ sở liên minh cơng nơng
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết tồn
dân, trên cơ sở liên minh cơng nơng làm nịng cốt... “Cách mạng giải phóng dân tộc
là sự nghiệp đồn kết tồn dân, trên cơ sở liên minh cơng nơng làm nòng cốt”...
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin nêu khẩu hiệu “Giai cấp vô sản và
các dân tộc bị áp bức đồn kết lại!”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đồn kết, đồn kết,
đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”. Khẩu hiệu đồn kết của Hồ
Chí Minh chứa đựng ba tầng đồn kết: đồn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn
kết quốc tế, chỉ có đồn kết mới tạo thành sức mạnh, tạo nên thành công.
Từ thực tiễn Việt Nam, đánh giá cao vai trị, sứ mệnh của giai cấp nơng dân,
nhưng Hồ Chí Minh luôn khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách
mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh cơng - nơng làm nịng cốt cho
Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đồng thời nó cịn sự bổ sung kịp thời vào kho tàng lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và có giá trị lý luận và thực tiễn đối với cách mạng
thế giới.
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
cách mạng bạo lực, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn, hịa bình, kết hợp đấu tranh
chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang.
20 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr 289

15


“Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính
quyền và bảo vệ chính quyền”21. Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh
khơng hề đối lập với tinh thần u chuộng hịa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân
tộc Việt Nam mà là sự tiếp nối truyền thống nhân nghĩa của cha ông ta. Đối với Hồ
Chí Minh, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, việc sử dụng bạo lực cũng nhằm mục đích hịa bình.

Tuy đề cao vai trị của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh khơng tuyệt đối
hóa vai trị của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh cách mạng. Với
Người, đấu tranh vũ trang chỉ là một trong những phương pháp để thực hiện mục
tiêu chính trị của cách mạng. Người căn dặn: “Chính trị trọng hơn quân sự”, “tuyên
truyền trọng hơn tác chiến”, “người trước, súng sau”.
Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18/2/1995 của Bộ Chính trị khóa VII khẳng
định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên nhiều vấn đề quan
trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã
hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX
(2001), lần thứ XI: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.”.
Về vấn đề CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở nước ta, Hồ Chí Minh
khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta nhất
định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta
mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và con người. Đặc điểm lớn nhất của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa”.

21 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr 275

16



×