Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng phòng chống loãng xương ở người từ 45 tuổi trở lên tại thành phố hồ chí minh năm 2013 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 159 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TP.HCM
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP

TRUNG TÂM Y TẾ DỰ PHÒNG QUẬN GÒ VẤP

BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN
THIỆP CỘNG ĐỒNG PHỊNG CHỐNG LỖNG
XƯƠNG Ở NGƯỜI TỪ 45 TUỔI TRỞ LÊN TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2013 - 2015
Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Trung Hòa
PGS.TS. Nguyễn Văn Tập


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Loãng xương là một căn bệnh thầm lặng, đang trở thành vấn đề sức khỏe toàn
cầu và là gánh nặng lên ngân sách y tế ở mỗi quốc gia. Hiện nay, ước tính tồn thế
giới có trên 200 triệu người bệnh loãng xương và đang tiếp tục gia tăng theo mức độ
già hóa dân số [58].
Đã từ lâu, người ta xem xương và cơ bị suy yếu hoặc nặng hơn là gãy xương
hông và xẹp xương đốt sống ở người lớn tuổi là một phần bình thường của sự già
hóa. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã nhận ra rằng sự suy yếu của xương ở người
cao tuổi là điều khơng bình thường, chúng được gây ra bởi một bệnh có thể điều trị
và ngăn ngừa được, đó là bệnh loãng xương. Bệnh chủ yếu xảy ra ở người từ tuổi
trung niên trở lên, phụ nữ sau mãn kinh. Hậu quả của bệnh thường dẫn đến biến
chứng gãy xương, địi hỏi chi phí chăm sóc và điều trị cao, làm giảm chất lượng


cuộc sống, đặc biệt là ở người cao tuổi. Riêng với phụ nữ, nguy cơ bị gãy xương do
loãng xương lớn hơn nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, ung thư nội mạc tử cung và ung
thư buồng trứng cộng lại. Ở những phụ nữ trên 45 tuổi, loãng xương và biến chứng
của loãng xương phải điều trị nhiều ngày hơn trong bệnh viện so với những bệnh
khác như nhồi máu cơ tim, bệnh tiểu đường, ung thư vú. Đối với nam giới, nguy cơ
gãy xương do loãng xương cao hơn nguy cơ ung thư tiền liệt tuyến [64],[71]. Dự
báo đến năm 2050, tỷ lệ gãy xương hông trên thế giới sẽ tăng thêm 310% ở nam
giới và 240% ở nữ giới, sẽ có 6,3 triệu trường hợp gãy cổ xương đùi do loãng
xương và 51% xảy ra ở các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam [47],[48],[67].
Năm 2006, theo ước tính nước ta có khoảng 2,5 triệu người bị lỗng xương,
trong đó 1,9 triệu người là phụ nữ, số người bị gãy xương do loãng xương khoảng
152.000 (phụ nữ 92.000 người). Dự báo đến năm 2030, số người mắc bệnh loãng
xương sẽ là 4,5 triệu, trong đó có 3,4 triệu người là phụ nữ, số người bị gãy xương
do loãng xương khoảng 262.650 (phụ nữ 162.650 người) [37].
Hiện nay, một số nước trên thế giới đã xây dựng và triển khai thực hiện chiến
lược quốc gia phịng chống lỗng xương và gãy xương như Mỹ, Úc, Canada, Châu
Âu... Những nội dung của chiến lược bao gồm các hoạt động tăng cường thông tin


2

truyền thông nhằm gia tăng nhận thức của người dân về bệnh loãng xương, nhất là ở
lứa tuổi học đường. Tích cực điều chỉnh lối sống của người dân theo chiều hướng
có tác dụng phịng ngừa nhằm tối ưu hóa mật độ xương và làm giảm bớt mức độ
mất xương liên quan với tuổi. Bên cạnh đó, việc tăng cường phương tiện tầm sốt,
chẩn đốn bệnh lỗng xương ở mỗi quốc gia cũng rất được quan tâm. Tại Việt Nam,
các thiết bị để đo mật độ xương còn rất hạn chế và chỉ tập trung ở các thành phố
lớn. Riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh, máy đo mật độ xương DXA trung tâm hiện
chỉ có ở một số bệnh viện lớn còn ở tuyến quận, huyện chưa nơi nào được trang bị.
Với nhu cầu được khám, chẩn đoán bệnh lỗng xương rất cao, nhất là tại cộng đồng

thì cần thiết phải có phương tiện phù hợp, đủ độ tin cậy chẳng hạn như máy đo mật
độ xương DXA ngoại biên bởi sự thuận tiện, rẻ tiền và có giá trị tầm sốt cao.
Ở nước ta, chưa có những nghiên cứu quy mơ quốc gia để biết tình hình lỗng
xương, nhưng với tỷ lệ người cao tuổi như hiện nay, thì thật sự lỗng xương là một
vấn đề y tế cơng cộng quan trọng. Thành phố Hồ Chí Minh có dân số hơn bảy triệu
người, là thành phố phát triển và đơ thị hóa với tốc độ nhanh, mật độ dân số cao và
đa dạng mơ hình bệnh tật. Thống kê năm 2009 tại Bệnh viện Chấn thương chỉnh
hình thành phố Hồ Chí Minh đã có 1442 người bệnh gãy cổ xương đùi, trong đó độ
tuổi từ 50 trở lên ở nam giới tỷ lệ 83%, ở nữ giới 66% và đa số có liên quan đến
lỗng xương [29]. Do đó, với thực trạng về bệnh lỗng xương hiện nay, thì rất cần
thiết phải có biện pháp can thiệp phịng chống bệnh đối với quần thể những người
trung niên trở lên. Vì vậy, chúng tơi thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu quả một số
biện pháp can thiệp cộng đồng phịng chống lỗng xương ở người từ 45 tuổi trở lên
tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2013-2015” với mục tiêu nghiên cứu sau:
1. Xác định tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến bệnh loãng xương ở
người từ 45 tuổi trở lên tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2013;
2. So sánh giá trị đo mật độ xương bằng kỹ thuật DXA ngoại biên tại đầu
xa xương cẳng tay với DXA trung tâm cổ xương đùi, toàn xương đùi và cột sống;
3. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng phịng chống
lỗng xương ở người từ 45 tuổi trở lên tại thành phố Hồ Chí Minh năm 20132015.


3

Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ BỆNH LOÃNG XƢƠNG
1.1.1. Định nghĩa bệnh loãng xƣơng và giảm mật độ xƣơng
Năm 1991, Tổ chức Y tế thế giới đưa ra định nghĩa về loãng xương, là một
bệnh với đặc điểm khối lượng xương suy giảm, vi cấu trúc của xương bị hư hỏng,

dẫn đến tình trạng xương bị suy yếu và hệ quả là tăng nguy cơ gãy xương [40]. Gãy
xương là hệ quả của bệnh lỗng xương, hay nói một cách khác bệnh loãng xương là
yếu tố nguy cơ dẫn tới gãy xương. Các nhà khoa học nghiên cứu chuyên sâu về
bệnh loãng xương đã đưa ra khái niệm về sức bền của xương mà trong đó ngồi mật
độ chất khống trong xương thì chất lượng xương là yếu tố quan trọng như nhau.
Giảm mật độ xương hoặc thiếu xương (osteopenia) là đề cập đến việc một
người nào đó bị giảm khối lượng xương thấp hơn bình thường nhưng chưa đến mức
gọi là bệnh loãng xương [105].
1.1.2. Cấu trúc và chức năng của xƣơng
Bộ xương người có khoảng 220 xương và chiếm khoảng 15% trọng lượng cơ
thể. Các nhà khoa học xem cấu trúc của xương như một tuyệt tác về kiến trúc. Đặc
điểm chung của xương gồm có lớp màng xương (lớp ngồi là lớp mơ liên kết sợi
chắc, mỏng, dính chặt vào xương, có tính đàn hồi, trên màng có các lỗ nhỏ; lớp
trong gồm các tạo cốt bào có nhiều mạch máu và thần kinh đến ni xương. Nhờ
lớp tế bào này mà xương có thể lớn lên, to ra). Kế đến là phần xương đặc và phía
trong là xương xốp (do nhiều bè xương bắt chéo nhau chằng chịt, để hở những hốc
nhỏ trông như bọt biển). Trong cùng là phần tủy xương nằm trong lớp xương xốp.
Xương có nhiều chức năng nhưng chủ yếu có 5 chức năng chính. Thứ nhất là hỗ trợ
và vận động; Thứ hai là đóng vai trị bảo vệ cho các cơ quan trong cơ thể; Thứ ba là
nơi chứa chất khoáng (99% can-xi, 80% phốt-pho và 50% ma-nhê của cơ thể được
lưu trữ trong xương. Có khoảng 1 đến 1,5 kg can-xi được xây dựng vào bộ khung
xương dưới hình thức tinh thể hydroxyapatite); Thứ tư xương cịn là kho chứa chất
nền protein (50% chất hữu cơ: 25% chất nền và 25% nước). Chất nền có 90% là


4

collagen loại I và 10% các protein khác; Và cuối cùng là bộ xương còn tham gia
điều hòa nội tiết và chuyển hóa năng lượng qua cơ chế liên quan đến leptin và
osteocalcin [109].

1.1.3. Sinh lý xƣơng và bệnh loãng xƣơng
Xương là một dạng mô sống không ngừng phát triển và tự làm mới trong một
quá trình được gọi là tái mơ hình. Q trình này có chức năng duy trì mật độ xương
ở mức tối ưu. Ngồi ra, q trình tái mơ hình cịn có chức năng phục hồi những
xương bị tổn hại, kể cả khi xương bị “vi nứt” (microcrack) hay gãy xương. Xương
bị suy giảm khi các tế bào hủy xương tạo ra những lỗ phân hủy sâu hoặc khi các tế
bào tạo xương khơng có khả năng lắp vào những lỗ hổng do các tế bào hủy xương
để lại. Trong cơ chế hoạt động xương chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố nội tiết tố
estrogen và testosterone, là hai hormone đóng vai trị quan trọng trong giai đoạn tạo
xương. Tác động của estrogen đến xương là qua thụ thể estrogen (estrogen receptorER). Ảnh hưởng của estrogen đến q trình tái mơ hình là làm giảm số lượng và
hoạt động của tế bào hủy xương. Estrogen còn tác động đến sự phát sinh, hình thành
các enzym và protein qua những cơ chế phức tạp liên quan đến các hormone khác.
Estrogen tác động đến các tế bào tạo xương và tế bào hủy xương để ức chế sự phân
hủy xương ở mọi giai đoạn trong quá trình tái mơ hình xương. Ngay thời điểm hay
sau thời kỳ mãn kinh, estrogen bị suy giảm và hệ quả là mật độ xương cũng suy
giảm nhanh chóng, nhất là trong 5 năm đầu sau mãn kinh. Testosterone kích thích
sự tăng trưởng của cơ và tác động tích cực đến q trình tạo xương. Testosterone
cịn sản sinh ra estrogen trong q trình tác động đến cơ và xương [18].
Các chức năng tạo xương, hủy xương và chuyển hóa xương nói chung được
điều phối bởi một số yếu tố toàn thân và yếu tố nội tại. Các yếu tố tồn thân có vai
trị trong việc duy trì quân bình can-xi. Những yếu tố này bao gồm các yếu tố tại
chỗ ảnh hưởng đến sự vận hành của tế bào (các cytokin và colony stimulating
factors) và các yếu tố tăng trưởng (growth factors) kích thích sản sinh các tế bào tạo
xương và biệt hóa tế bào.
Can-xi đóng vai trị rất quan trọng trong hình thành, phát triển và duy trì bộ
xương. Các hormone cận giáp (Parathyroid hormone-PTH), calcitriol và calcitonin


5


là những hormone kiểm sốt can-xi. Các hormone này đóng vai trị duy trì sức khỏe
của xương. Parathyroid hormone giúp duy trì nồng độ can-xi trong máu, tăng
trưởng cả hai quá trình tạo xương và hủy xương, giúp di chuyển can-xi khỏi xương
vào máu, nhưng khi parathyroid hormone gia tăng sẽ đưa đến chứng cường cận giáp
và dẫn đến mất xương. Calcitriol hay 1,25 D được sản sinh từ cholecalciferol [41].
Một trong những nguyên nhân gây nên mất xương dẫn đến bệnh loãng xương
là do thiếu estrogen. Mất xương trong q trình tái mơ hình là do tăng các tế bào
hủy xương so với các tế bào tạo xương. Những cytokin sau đây được xem là đóng
vai trị quan trọng trong cơ chế estrogen - xương: (1) TRANCE / RANKL / OPGL:
Tumor necrosis factor-related activation-induced cytokine / Receptor activator of
nuclear factor kappa-B ligand / Osteoprotegerin ligand; (2) Macrophase colony
stimuating factor (M-CSF); (3) Granulocyte / monocyte-colony stimulating factor
(GM-CSF); (4) Interleukin 1 (IL-1); (5) Interleukin 6 (IL-6). Các yếu tố tăng
trưởng, IL-1, IL-6 và TNF (tumor necrosis factor) được sản sinh bởi các bạch cầu
đơn nhân và đại thực bào cũng như các hormone toàn thân như parathyroid
hormone và 1,25 D [18].
1.1.4. Nguyên nhân và phân loại bệnh loãng xƣơng
Các nhà lâm sàng thường phân loại nguyên nhân bệnh loãng xương ra 2
nhóm: Thứ nhất là bệnh lỗng xương ngun phát cịn gọi là bệnh lỗng xương sau
mãn kinh (típ 1) và bệnh lỗng xương do tuổi già (típ 2); Thứ hai là bệnh loãng
xương thứ phát do hậu quả của một số bệnh lý hoặc do thuốc như bệnh Basedow,
cường tuyến cận giáp, glucocorticoid liệu pháp, bệnh đa u tủy, bệnh lý kém hấp thu
ở ruột, cắt 2 buồng trứng, bệnh suy gan suy thận mãn tính, bất động lâu tại giường,
sử dụng thuốc chống co giật...[27],[46].
1.1.5. Các dấu hiệu lâm sàng bệnh loãng xƣơng nguyên phát và biến chứng
Bệnh loãng xương sau tuổi mãn kinh (típ 1): Đa số phụ nữ sau mãn kinh đều có
giảm khối lượng xương, nhưng quá trình này diễn ra chậm trong nhiều năm, chỉ đến
khi mức độ giảm vượt quá 25% người ta mới thấy xuất hiện các triệu chứng. Lúc đầu
là đau mỏi lưng, đau mỏi trong các ống xương dài, lưng còng dần, chiều cao giảm rõ,
vận động cột sống khó và đau khiến người bệnh không ngửa lưng được, đau ngày



6

càng tăng, đôi khi đau lan tỏa theo đường đi của các rễ và dây thần kinh (do có chèn
ép ở tủy sống), rất dễ gãy xương nhất là gãy xương ở phần dưới cẳng tay (gãy
Pouteau Colles) sau một va chạm nhẹ hoặc chống tay.
Bệnh loãng xương nguyên phát ở người già (típ 2) thường xuất hiện sau 75
tuổi ở cả hai giới, có thể sớm hơn với những người nghiện thuốc lá, lạm dụng rượu
bia, ít vận động, dinh dưỡng kém, dùng các thuốc corticosteroid kéo dài...Người
bệnh thấy đau mỏi xương nhất là vùng cột sống và vùng chậu hông, khả năng vận
động giảm nhiều, đau mỏi tăng sau hoạt động và khi thay đổi thời tiết nhưng đặc
biệt nhất là chỉ cần ngã hoặc va chạm nhẹ đã có thể xảy ra gãy xương. Vị trí gãy ở
cổ xương đùi chiếm tuyệt đại đa số trường hợp [41].
Hậu quả của bệnh loãng xương là gãy xương xảy ra sau một chấn thương nhẹ.
Vị trí gãy xương thường ở những nơi chịu lực của cơ thể như cổ xương đùi, cột
sống thắt lưng hoặc nơi dễ va chạm như cổ tay, xương sườn...Gãy xương do bệnh
loãng xương thường chậm lành, phải nằm điều trị dài ngày. Từ đó dễ dẫn đến biến
chứng bội nhiễm như viêm phổi, nhiễm trùng tiểu, loét do tỳ đè và làm tăng tỷ lệ tử
vong. Ngoài ra, hậu quả lâu dài của gãy xương do bệnh lỗng xương đó là tàn phế,
đau đớn khi vận động, chất lượng cuộc sống của người bệnh giảm trầm trọng và đặc
biệt là chi phí điều trị cao làm tăng gánh nặng kinh tế cho gia đình và xã hội.
1.1.6. Các xét nghiệm, thăm dị hình ảnh và chẩn đốn bệnh lỗng xƣơng
Trước đây các thầy thuốc lâm sàng thường sử dụng những xét nghiệm sinh
hóa định lượng một số chất ở trong máu và trong nước tiểu để chẩn đốn bệnh
lỗng xương như can-xi, phốt-pho, osteocalcin, men phosphatase acid và kiềm,
pyridiotin- deoxypiridiotin, hydroxyprotin... nếu thử nhiều lần theo thời gian, rồi đối
chiếu so sánh thì có thể phát hiện được mức độ và tốc độ bệnh loãng xương trong 1
hoặc 2 năm (phương pháp Christiansen).
Ngày nay, trên lâm sàng chủ yếu sử dụng phương pháp đo mật độ xương, là

phương pháp căn bản của chẩn đoán bệnh lỗng xương hay giảm mật độ xương. Có
thể chia thành hai nhóm chính là kỹ thuật sử dụng bức xạ (ionising radiation) và kỹ
thuật không sử dụng bức xạ:


7

*Các kỹ thuật bức xạ thứ nhất là phương pháp radionuclide gồm có: Hấp thu
năng lượng đơn (Single photon absorptiometry-SPA); Hấp thụ năng lượng kép
(Dual-photon absorptiometry-DPA). Thứ hai là phương pháp dựa vào quang tuyến
X gồm có: Quang tuyến kế (radiogrammetry); Hấp thụ năng lượng đơn X quang
(Single-Energy X-ray absorptiometry-SXA); Hấp thụ năng lượng kép X quang
(Dual-Energy X-ray absorptiometry-DXA); Chụp cắt lớp điện tốn (Quantitative
Computed Tomography-QCT).
*Các kỹ thuật khơng bức xạ bao gồm siêu âm định lượng (Quantitative
Ultrasound-QU) và cộng hưởng từ (Magnetic Resonance Tomography-MRT) [40].
Hiện nay, đo mật độ xương bằng phương pháp hấp thụ năng lượng kép X
quang (DXA) được xem là phương pháp chuẩn để chẩn đoán bệnh lỗng xương.
- Tiêu chuẩn chẩn đốn bệnh lỗng xƣơng bằng mật độ xƣơng
Trong giai đoạn dậy thì, mật độ xương tăng rất nhanh và đạt mức độ đỉnh
(peak Bone Mineral Density-pBMD) vào độ tuổi từ 20 đến 30. Sau độ tuổi này, mật
độ xương bắt đầu suy giảm và mức suy giảm một cách đáng kể sau thời kỳ mãn
kinh. Ở bất cứ độ tuổi nào, sự khác biệt về mật độ xương giữa các cá nhân trong một
quần thể dao động theo luật phân bố chuẩn. Độ lệch chuẩn (standard deviation-SD)
không khác biệt đáng kể giữa các độ tuổi.
Dựa vào các đặc điểm trên, các nhà nghiên cứu đề nghị chuẩn hóa các đo
mật độ xương bằng chỉ số T (T-score). Chỉ số T có thể ước tính theo cơng thức:

T 


iBMD  mBMD
SD

Trong đó, iBMD là mật độ xương đối tượng I, mBMD là mật độ xương trung
bình của quần thể trong độ tuổi 20-30 và SD là độ lệch chuẩn của mật độ xương
trung bình của quần thể trong độ tuổi 20-30 [40].
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh loãng xƣơng do WHO đề nghị 1994
* T-score > -1: Mật độ xương bình thường.
* -2,5 < T-score ≤ -1: Giảm mật độ xương.
* T-score ≤ -2,5: Bệnh loãng xương
* Bệnh loãng xương + gãy xương trong thời gian gần đây: Loãng xương nặng


8

Trong thực hành lâm sàng khi đo mật độ xương bằng phương pháp DXA
được phân chia thành hai khu vực: DXA trung tâm (vị trí đo ở cổ xương đùi, toàn
xương đùi, cột sống thắt lưng) và DXA ngoại biên (vị trí ở cẳng tay, ngón tay và
xương gót chân) [80]. Giá trị chẩn đoán thường dựa vào kết quả đo DXA ở trung
tâm. Một nghiên cứu tổng hợp có hệ thống (systematic review) với mục tiêu là sử
dụng DXA ngoại biên để đánh giá nguy cơ gãy xương, chẩn đốn, theo dõi và điều
trị bệnh lỗng xương đã được thực hiện bởi Hiệp hội quốc tế đo mật độ xương lâm
sàng vào năm 2007. Các kết quả đo mật độ xương của nghiên cứu này được thực
hiện từ thiết bị DXA ngoại biên của các nhà sản xuất Cooper Surgical, Osteometer
Meditech, Schick Technologies, GE Medical Systems, Demetech, Osteosys và
Aloka. Qua so sánh với phương pháp DXA trung tâm, kết quả cho thấy đo mật độ
xương bằng các thiết bị DXA ngoại biên có thể được sử dụng để đánh giá nguy cơ
gãy xương ở đốt sống và toàn cơ thể ở phụ nữ sau mãn kinh, tuy nhiên khả năng dự
báo gãy đốt sống yếu hơn so với DXA trung tâm và siêu âm gót chân. Kết quả cũng
cho biết phân loại chẩn đốn bệnh lỗng xương của WHO có thể chỉ áp dụng bởi đo

DXA (trung tâm hay ngoại biên) ở cổ xương đùi, toàn bộ xương đùi, xương đốt
sống thắt lưng và 1/3 (33%) vùng quan tâm xương quay qua tham chiếu từ dữ liệu
của thanh niên trẻ. Cơ sở cho sự khẳng định này do bởi trên biểu đồ so sánh cho
thấy độ cong của đường biểu diễn T-score so với tuổi ở ba vị trí đốt sống thắt lưng,
xương hông và 1/3 dưới xương quay đều giảm tương tự nhau khi qua ngưỡng T = 2,5 ở độ tuổi 75-87 [52],[59 ].
1.1.7. Điều trị bệnh lỗng xƣơng
Hiện nay có nhiều thuốc chống lỗng xương và gãy xương một cách hữu hiệu.
Trong điều trị cần cải thiện sự tuân thủ, chủ động tìm ra những yếu tố có nguy cơ cao
nhằm can thiệp giảm tác hại đến sức khỏe xương. Cần có một chiến lược phịng bệnh
bao gồm thực hiện những thay đổi lối sống theo hướng tích cực, tăng cường rèn
luyện thể lực, dinh dưỡng hợp lý, tránh lạm dụng rượu bia và hút thuốc lá. Các loại
thuốc được sử dụng trong dự phòng và điều trị bệnh loãng xương bao gồm:
- Cung cấp can-xi bằng cách duy trì lượng can-xi đủ qua ăn uống là một biện
pháp hữu hiệu, rất cần thiết cho việc ngăn ngừa can-xi bị di chuyển khỏi xương.


9

Trong chế độ ăn cần tăng cường sử dụng các sản phẩm như sữa tươi, phó-mát, sữa
chua, đậu nành, mè, vừng, bánh mỳ; Các loại rau xanh (bó xơi, bồ ngót), đậu khơ,
trái cây (bưởi, cam), thức ăn có nhiều đạm như cá hộp, thịt, sò, ốc...Việc gia tăng
lượng can-xi hàng ngày qua sử dụng thực phẩm là lựa chọn ưu tiên, tuy nhiên bổ
sung can-xi bằng thuốc viên cũng rất cần thiết nếu chế độ ăn uống thiếu can-xi.
- Vitamin D đóng vai trị quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của xương,
giúp hấp thu can-xi có hiệu quả, tăng lực của cơ, giữ thăng bằng và giảm nguy cơ té
ngã. Lượng vitamin D hàng ngày cần từ 800-1000 IU và với liều này nó giúp duy trì
nồng độ 25(OH)-D ở người trưởng thành đạt mức mong muốn là ≥ 30 ng/ml huyết
thanh (≥ 75 nmol/L) [19].
- Liệu pháp thay thế hormone (Hormone Replaycement Therapy-HRT) ở phụ
nữ sau thời kỳ mãn kinh, thường có thể xem xét sử dụng trong những trường hợp phụ

nữ mãn kinh sớm (trước 45 tuổi) và những trường hợp biểu hiện rối loạn sau mãn
kinh. HRT có khả năng ngăn ngừa mất xương, giảm nguy cơ gãy xương [33].
- Chất điều hòa thụ thể chọn lọc estrogen (Selective Estrogen Receptor
Modulators - SERM): là một nhóm thuốc liên kết các thụ thể estrogen và kích hoạt
trên một số mơ liên quan. Raloxifen là một thuốc trong nhóm SERM được chấp
thuận trong dự phịng và điều trị bệnh loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh [28].
- Calcitonin được sản sinh từ tuyến giáp có chức năng ức chế các tế bào hủy
xương, kích thích ruột hấp thu can-xi và phốt-pho, đóng vai trị quan trọng trong
việc duy trì sự phát triển của xương và kiểm sốt nồng độ can-xi.
- Bisphosphonat có tác dụng ức chế hoạt động hủy xương và gián tiếp kích
hoạt các tế bào tạo xương và đại thực bào. Hiện nay, bisphosphonat là thuốc điều trị
hàng đầu của bệnh loãng xương, nó có thể làm giảm ≥ 50% nguy cơ gãy xương và
tăng từ 3-8% mật độ xương [36].
- Strontium ranelate: Thuốc đã được chấp thuận cho điều trị bệnh loãng
xương ở một số nước Châu Âu. Thuốc thường được dùng thay thế bisphosphonat
khi có chống chỉ định hoặc dùng sau khi kết thúc đợt điều trị bằng bisphosphonat.
Cơ chế tác dụng chưa rõ, nhưng được cho là có tác dụng kép, vừa kích thích tạo
xương vừa ức chế hủy xương [28].


10

1.2. TỶ LỆ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN BỆNH LOÃNG
XƢƠNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.2.1. Tỷ lệ bệnh loãng xƣơng trên thế giới
1.2.1.1. Tỷ lệ bệnh loãng xương ở Châu Âu
Châu Âu là một lục địa già hóa dân số sớm nhất, cứ mỗi 30 giây có một
người gãy xương do bệnh lỗng xương. Vào năm 2000, những người 50 tuổi trở lên
ở Châu Âu ước tính có 620.000 người mới bị gãy xương hơng, 574.000 người gãy
xương cẳng tay, 620.000 người xẹp đốt sống, số trường hợp gãy xương chiếm

34,8% trên thế giới [77]. Gãy xương hông là hậu quả nặng nề nhất của bệnh loãng
xương, là căn nguyên gây tàn phế nghiêm trọng và dễ dẫn đến tử vong. Hầu hết gãy
xương hông xảy ra sau té ngã, 80% là phụ nữ và 90% ở người trên 50 tuổi [107].
Quy mô dân số ở Châu Âu dự kiến sẽ tăng 26% ở phụ nữ và 36% ở nam giới từ
năm 2000 đến 2050, do đó tỷ lệ bệnh lỗng xương sẽ tăng gấp đơi trong 50 năm tới
do bởi sự già hóa dân số và yếu tố lối sống [68].
Tại Vương Quốc Anh và xứ Wales, có hơn 1,14 triệu phụ nữ sau mãn kinh đã
được chẩn đốn bệnh lỗng xương bằng phương pháp DXA ở cổ xương đùi, 1 trong
2 phụ nữ và 1 trong 5 người đàn ông sẽ bị gãy xương sau tuổi 50. Theo thống kê,
người dân Anh tăng tuổi thọ lên gấp đôi trong hơn 200 năm qua và nó tiếp tục gia
tăng 2 năm cho mỗi thập kỷ, tương đương thọ thêm 12 phút cho mỗi giờ trôi qua.
Hiện ở Anh có gần 20 triệu người từ 50 tuổi trở lên và đến năm 2020 sẽ là 25 triệu,
dân số càng già tỷ lệ bệnh loãng xương càng tăng [99]. Nhiều nghiên cứu cho thấy
1/3 số người trên 65 tuổi bị té ngã một lần trong năm, 40-60% dẫn đến chấn thương,
trong đó 5% bị gãy xương (1% là gãy xương hông) [119].
Tại nước Pháp, cũng với thực trạng dân số già, số phụ nữ bị bệnh loãng
xương khoảng 4-5 triệu người, nam giới khoảng 1,4 triệu người. Mỗi năm có từ 3
đến 5 ngàn trường hợp bị gãy cổ xương đùi, trong đó 10% bị tàn phế và chi phí cho
điều trị lên đến 1,35 tỷ Frances [30].
Năm 2003, thống kê có 7,8 triệu người Đức (6,5 triệu phụ nữ) đã bị ảnh
hưởng bởi bệnh loãng xương, trong đó 4,3% đã trải qua ít nhất một lần gãy xương
lâm sàng và chỉ có 21,7% được điều trị với một loại thuốc chống loãng xương. Theo


11

báo cáo của Ủy ban Châu Âu (năm 1998), ước tính sự gia tăng tỷ lệ gãy xương
hơng ở Đức từ 117.000 trường hợp trong năm 2000 lên 240.000 trong năm 2040,
tổng số chi phí trực tiếp cho điều trị bệnh loãng xương là 5,4 tỷ Euros [50]. Tại Tây
Ban Nha, nước thuộc khu vực Nam Âu, vào năm 2010 theo thống kê có khoảng

2,45 triệu người bị bệnh lỗng xương từ 50 tuổi trở lên, số gãy xương mới vào
khoảng 204.000 trường hợp và gãy xương hông trong khoảng thời gian 14 năm
(1988-2002) đã tăng 54% [76].
Tình hình bệnh lỗng xương ở một số nước Đơng Âu cũng có mức độ lưu
hành tương tự các khu vực khác của Châu Âu. Tại Nga, một quốc gia rộng lớn nhất
thế giới với dân số khoảng 143 triệu người, các chuyên gia y tế ước tính có 14 triệu
người (10% dân số) mắc bệnh loãng xương và 20 triệu người giảm mật độ xương.
Cũng theo thống kê, tại Nga những người trên 50 tuổi mắc bệnh loãng xương chiếm
33,8% ở nữ và 26,9% ở nam. Ucraina, một quốc gia kề cận Liên bang Nga, ước tính
số phụ nữ mãn kinh có nguy cơ bệnh loãng xương và giảm mật độ xương là 7 triệu
người (28% tổng số phụ nữ). Riêng ở Rumani, nước nằm ở phía Đơng Nam Châu
Âu, theo thống kê thì tỷ lệ bệnh lỗng xương khá thấp, ở phụ nữ sau mãn kinh ước
tính là 11,5% bị bệnh loãng xương và một trong ba phụ nữ Rumani bị bệnh loãng
xương hoặc giảm mật độ xương sau tuổi 55 [72].
1.2.1.2. Tỷ lệ bệnh loãng xương ở Châu Á
Trên thế giới, tình trạng gãy xương do bệnh lỗng xương đã trở thành gánh
nặng chi phí cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe mà nó chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều bệnh
khác như bệnh tim mạch, đột quỵ và ung thư vú [69]. Tại Hồng Kơng, tỷ lệ mắc
mới bệnh lỗng xương là 1% ở người từ 70 tuổi trở lên, tỷ lệ lưu hành bệnh loãng
xương ở Malaysia là 24,1% vào năm 2005. Mức độ lưu hành bệnh loãng xương ở
người dân Châu Á cao hơn những nước phương Tây do bởi chỉ số khối cơ thể và
chiều cao thấp hơn [87]. Báo cáo về tỷ lệ gãy xương hông từ nhiều quốc gia Châu Á
cho thấy rằng tỷ lệ gãy xương thay đổi đáng kể trong các quần thể khác nhau như
Đài Loan, Singapore và Hồng Kơng, nó tăng từ 4 đến 5 lần trong khoảng thời gian
30 năm ở Singapore và Hồng Kông, gấp 1,5 lần trong khoảng thời gian 15 năm tại
Nhật Bản [83].


12


Ở Châu Á, rất nhiều trường hợp bệnh loãng xương chưa được chẩn đoán và
điều trị, ngay cả ở những người bệnh có nguy cơ cao nhất và đã thật sự bị gãy
xương, đặc biệt là người bệnh ở khu vực nông thôn. Trung Quốc là nước đông dân
nhất trên thế giới và sự gia tăng đáng kể dân số trong những thập niên gần đây đã
dẫn đến một số lượng lớn những người cao tuổi. Do đó, bệnh lỗng xương ngày
càng trở nên phổ biến và sẽ tiếp tục tăng trên toàn Trung Quốc. Thống kê từ năm
2003 - 2006 cho thấy tỷ lệ của bệnh loãng xương ở người từ 50 tuổi trở lên tại
Trung Quốc là 15,7%, ở nam là 8,8% và ở nữ là 30,8%, khu vực thành thị chiếm từ
10-20%. Bệnh loãng xương đã ảnh hưởng hơn 69,4 triệu người Trung Quốc trên 50
tuổi và đã gây ra 687.000 trường hợp gãy xương mỗi năm [70].
Ở Đài Loan, kết quả một nghiên cứu từ năm 2005-2008 cho thấy tỷ lệ bệnh
loãng xương ở người trên 50 tuổi nam giới là 23,9%, nữ giới 38,9%. Theo dữ liệu
của Bảo hiểm y tế quốc gia Đài Loan, trong thời gian từ năm 1996-2002, tỷ lệ gãy
xương hông ở người trên 65 tuổi tăng từ 49 đến 64 trường hợp trên một triệu người
mỗi năm [124].
Trong một nghiên cứu ở phụ nữ Ấn Độ từ 30-60 tuổi ở các nhóm có thu nhập
thấp, mật độ xương được báo cáo là thấp hơn nhiều so với các báo cáo từ các nước
phát triển, với tỷ lệ giảm mật độ xương là 52%, bệnh loãng xương là 29% và
nguyên nhân được cho là do thiếu hụt dinh dưỡng. Nhật Bản cũng có tần suất bệnh
lỗng xương ở phụ nữ trong độ tuổi 50-79 được ước tính là khoảng 35% ở cột sống
và 9,5% ở hơng. Tình trạng gãy xương hơng mới tăng 1,7 lần trong thời gian từ năm
1987-1997 và tổng số gãy xương hông được dự báo là 153.000 trường hợp trong
năm 2010, 238.000 vào năm 2030. Tại Thái Lan, qua cuộc khảo sát bằng phương
pháp DXA ở 909.000 phụ nữ được đo ở xương hông và 1,3 triệu phụ nữ đo tại cột
sống, thì tỷ lệ lưu hành bệnh lỗng xương là 13,6% ở xương hơng và 19,8% ở cột
sống [70],[76].
1.2.1.3. Tỷ lệ bệnh loãng xương ở Bắc Mỹ
Hoa Kỳ là quốc gia có dân số đứng hàng thứ ba thế giới, với hơn 330 triệu
người thì gánh nặng về vấn đề chăm sóc sức khỏe đặc biệt là bệnh loãng xương và
gãy xương càng lớn, mặc dù là nước có nền kinh tế dẫn đầu thế giới. Vào năm



13

2010, ước tính ở Hoa Kỳ có khoảng 12 triệu người bệnh loãng xương và 40 triệu
người giảm mật độ xương ở tuổi trên 50. Số người mắc sẽ gia tăng vào năm 2020 là
14 triệu người bệnh loãng xương và 47 triệu giảm mật độ xương cũng ở độ tuổi trên
50 [89],[76]. Bệnh loãng xương gây ra 1,5 triệu trường hợp gãy xương mỗi năm tại
Mỹ, trong đó có 300.000 gãy xương hông, 700.000 xẹp xương đốt sống, chi phí
điều trị vào năm 2005 là 17 tỷ USD và chi phí này tăng 50% vào năm 2025 [86].
Một cuộc khảo sát bệnh loãng xương ở phụ nữ các dân tộc khác nhau cho kết quả
bệnh ở phụ nữ Mỹ bản địa 11,9%, phụ nữ gốc Châu Á 10%, phụ nữ da trắng 7,2%
và phụ nữ da đen thấp nhất 4,2% [53],[114].
Canada là một quốc gia thuộc khu vực Bắc Mỹ, bệnh loãng xương cũng ảnh
hưởng đến khoảng 1,4 triệu người dân, chủ yếu là phụ nữ sau mãn kinh và người
cao tuổi [76]. Dự báo đến năm 2030, số trường hợp gãy xương hông sẽ tăng gấp
bốn lần. Riêng tại Ontario, Viện khoa học đánh giá lâm sàng cho biết có 68.000
người vào cấp cứu, trong đó có 62.000 người phải nằm viện và 14.000 tử vong do
bệnh loãng xương từ năm 2003 đến năm 2007 [96].
1.2.1.4. Tỷ lệ bệnh loãng xương ở Mỹ La-tinh
Thống kê từ 14 quốc gia trong khu vực Mỹ La-tinh, dân số từ 50 tuổi trở lên
chiếm từ 13% đến 29% (Cục điều tra dân số Mỹ). Vào năm 2050, ước tính dân số
khu vực này tăng từ 28% đến 49%. Hiện nay, dữ liệu về tỷ lệ bệnh loãng xương ở
Mỹ La-tinh rất ít. Theo thống kê của 5 nước trong khu vực là Argentina, Brazil,
Colombia, Mexico và Puerto Rico, tỷ lệ xẹp xương đốt sống chiếm 14% dân số và
trong đó tỷ lệ xẹp xương đốt sống cao nhất ở phụ nữ 80 tuổi trở lên (38%). Dự đoán
vào năm 2050, số lượng gãy xương hông ở phụ nữ và nam giới tuổi từ 50-64 tại Mỹ
La-tinh sẽ tăng 400% và đối với nhóm tuổi trên 65 sẽ tăng 700% [75]. Nghiên cứu
về mật độ xương ở Mỹ La-tinh đã cho kết quả 50-70% người dân từ 50 tuổi trở lên
có mật độ xương thấp, 12-18% phụ nữ bệnh loãng xương ở cột sống, 8-22% bệnh

loãng xương ở cổ xương đùi [79].
Nghiên cứu mật độ khoáng xương tại Argentina cho thấy hai trong bốn phụ
nữ sau mãn kinh bị giảm mật độ và một bị bệnh loãng xương. Đến năm 2025, hơn
ba triệu phụ nữ dự kiến sẽ bị giảm mật độ xương và sẽ tăng lên hơn năm triệu trong


14

năm 2050. Tại Brazil có 33% phụ nữ sau mãn kinh và 15,4% nam giới độ tuổi từ 65
trở lên bị bệnh loãng xương. Tỷ lệ xẹp xương đốt sống ở phụ nữ 50 tuổi trở lên
được ước tính là 14,2% và trong 21 triệu người ở nhóm tuổi này thì có 2,9 triệu
người đã và đang sống với tình trạng xẹp đốt sống. Theo tính tốn, ở Colombia có
2.609.858 người giảm mật độ xương và 1.423.559 người bệnh loãng xương ở phụ
nữ 50 tuổi trở lên. Số trường hợp gãy xương hơng ở phụ nữ ước tính từ 8.000 đến
10.000 người mỗi năm. Một nghiên cứu của LAVOS (The Latin American
Vertebral Osteoporosis Study) ở phụ nữ và nam giới Mexico về tỷ lệ xẹp xương đốt
sống, kết quả tại cột sống thắt lưng bệnh loãng xương 9% ở nam giới và 17% ở phụ
nữ, giảm mật độ xương 30% nam giới và 43% ở phụ nữ. Nguy cơ gãy xương hơng
trong suốt cuộc đời cịn lại ở người từ 50 tuổi trở lên là 8,5% ở phụ nữ và 3,8% ở
nam giới. Riêng về xẹp đốt sống ở phụ nữ Mexico tuổi từ 50-59 là 8,3% và nếu trên
80 tuổi tỷ lệ này là 37,9% [75].
1.2.1.5. Tỷ lệ bệnh lỗng xương ở Trung Đơng và Châu Phi
Dân số năm 2010 ở Ai Cập được ước tính là 80 triệu người. Thống kê cho
thấy có 53,9% phụ nữ sau mãn kinh giảm mật độ xương và 28,4% bị bệnh loãng
xương, 26% nam giới bị giảm mật độ xương và 21,9% bị bệnh loãng xương ở độ
tuổi từ 20-89. Bệnh loãng xương ở Iran được xem là vấn đề y tế công cộng quan
trọng, một số nghiên cứu được tiến hành cho kết quả tỷ lệ giảm mật độ xương ở phụ
nữ từ 50 tuổi trở lên là 59,9% và bệnh lỗng xương là 22,2%, ở đàn ơng lần lượt là
50,1% và 11%. Tại Li-băng, một nghiên cứu trên người cao tuổi ở Beirut cho thấy
tỷ lệ xẹp xương đốt sống chiếm 12% nam giới và 19% nữ giới, tỷ lệ bệnh loãng

xương được đo ở cổ xương đùi là 33% phụ nữ và 22,5% nam giới. Ở Qatar, năm
2005 có một nghiên cứu cắt ngang trên 574 phụ nữ tuổi từ 20 đến 69 đã được thực
hiện bằng phương pháp DXA, cho thấy các đối tượng có sự suy giảm mật độ
khoáng xương ở tuổi sau khi đạt mật độ xương đỉnh tại các điểm cột sống là 30-39
tuổi và ở xương đùi là 40-49 tuổi. Một nghiên cứu trên 483 phụ nữ sau mãn kinh tại
Saudi Arabia tuổi từ 52 đến 62 cho thấy tỷ lệ bệnh loãng xương là 24% và giảm mật
độ xương là 34% [73].


15

1.2.1.6. Tỷ lệ bệnh loãng xương ở Châu Đại Dương
Theo báo cáo của Viện Sức khỏe và Phúc lợi Úc, ước tính có 692.000 người
Úc (3,4% tổng dân số) đã được các bác sĩ chẩn đốn bệnh lỗng xương vào năm
2007-2008, phụ nữ chiếm đa số (81,9%). Bệnh xảy ra chủ yếu ở người tuổi từ 55 trở
lên (84%) [49]. Tuy nhiên, theo thống kê của Tổ chức Loãng xương thế giới hiện
Úc có 2,2 triệu người đang bị ảnh hưởng bởi bệnh lỗng xương, trong đó khoảng
11% nam giới và 27% phụ nữ từ 60 tuổi trở lên bệnh loãng xương; 42% nam giới và
51% phụ nữ giảm mật độ xương. Các chuyên gia cũng cho rằng, nguy cơ suốt đời bị
gãy xương do bệnh loãng xương sau 50 tuổi là 42% ở phụ nữ, 27% ở nam giới và
đã có 20.000 trường hợp gãy xương hơng mỗi năm tại Úc (tăng 40% mỗi thập kỷ),
tổng chi phí liên quan đến bệnh loãng xương là 7,4 tỷ USD mỗi năm, trong đó 1,9
tỷ USD là chi phí trực tiếp [76].
Tại New Zealand, có khoảng 84.000 trường hợp gãy xương do bệnh loãng
xương trong năm 2007, với 60% trong số này xảy ra ở phụ nữ. Gãy xương hông
được ước tính chiếm 5% của tất cả các gãy xương. Tổng chi phí cho bệnh lỗng
xương được ước tính là hơn 1,15 tỷ USD mỗi năm [76].
1.2.2. Tỷ lệ bệnh loãng xƣơng tại Việt Nam
Tình hình bệnh lỗng xương ở nước ta cũng được giới y khoa quan tâm và đã
có những cơng trình nghiên cứu trong vịng 20 năm qua. Việt Nam là một quốc gia

đang phát triển và là nước vừa thoát nghèo, người dân thuộc chủng tộc Châu Á,
những điều này cho thấy sẽ có nhiều yếu tố nguy cơ và những tác động ảnh hưởng
sâu sắc đến tỷ lệ bệnh lỗng xương và biến chứng của nó trong cộng đồng, nhất là ở
những người cao tuổi. Mặt khác, các thầy thuốc đã có một thời gian dài bỏ quên
người bệnh loãng xương trên lâm sàng, thiếu sự quan tâm chẩn đoán, theo dõi và
điều trị phù hợp, dẫn đến việc phịng bệnh gần như khơng có, nhất là ở khu vực
cộng đồng. Thêm vào đó nền tảng nhận thức của xã hội về bệnh cũng còn rất thấp,
phương tiện chẩn đốn cịn thiếu và chỉ tập trung ở các đô thị lớn. Theo kết quả
thống kê, năm 2009 dân số nước ta có khoảng 86 triệu người, trong đó người trên
65 tuổi chiếm 7%. Dự báo dân số sẽ tăng lên 104 triệu người vào năm 2030 và
người trên 65 tuổi chiếm tới 11%. Năm 2006, bệnh lỗng xương ước tính ảnh


16

hưởng đến 2,5 triệu người Việt Nam, dự báo đến năm 2030 là 4,5 triệu người. Số
trường hợp gãy xương do bệnh loãng xương khoảng 152.000 và dự báo đến năm
2030 là 262.650 trường hợp [37].
Năm 2003, Vũ Thị Thu Hiền và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu với mục
tiêu xác định tỷ lệ bệnh loãng xương ở phụ nữ trưởng thành Hà Nội. Có 2.232 phụ
nữ từ 20 tuổi trở lên tham gia, khơng mắc các bệnh có liên quan đến rối loạn chuyển
hoá xương đã được chọn từ 30 xã, phường của Hà Nội vào nghiên cứu. Kết quả cho
thấy tỷ lệ bệnh lỗng xương thơ ở phụ nữ trưởng thành là 15,4%, sau khi hiệu chỉnh
tuổi tỷ lệ này là 9%, tương đối cao so với các nước trong khu vực. Phân bố bệnh
lỗng xương có sự khác nhau giữa khu vực nội thành và ngoại thành ở 2 nhóm đối
tượng chưa mãn kinh và sau mãn kinh. Ở phụ nữ chưa mãn kinh, tỷ lệ bệnh loãng
xương cao hơn ở khu vực nội thành so với ngoại thành. Ngược lại, ở phụ nữ sau
mãn kinh, tỷ lệ này lại cao hơn ở khu vực ngoại thành [8]. Tuy nhiên, hạn chế của
nghiên cứu này là khơng có đối tượng nghiên cứu nam giới và chẩn đốn bệnh
lỗng xương bằng phương pháp siêu âm đo khối lượng xương ở vị trí xương gót

chân, kết quả của phép đo này chỉ mang ý nghĩa tầm soát. Để tránh những hạn chế
này, nghiên cứu của Nguyễn Huy Thông và cộng sự đã sử dụng phương pháp đo
mật độ xương bằng DXA ở vị trí trung tâm cũng ở người từ 20 tuổi trở lên cho kết
quả bệnh loãng xương ở nữ 16% và nam là 9,6% [32]. Tỷ lệ bệnh này cao gấp đôi
so với nghiên cứu trên nhưng có điểm hạn chế là đối tượng nghiên cứu không được
chọn ngẫu nhiên từ cộng đồng mà là những người bệnh đến khám tại Bệnh viện 103
trong hai năm 2008-2009. Năm 2008, Đỗ Thị Khánh Hỷ cũng tiến hành nghiên cứu
tình hình bệnh lỗng xương trên phụ nữ mãn kinh Hà Nội và các vùng lân cận đến
khám tại Viện Lão khoa. Kết quả cho thấy tỷ lệ bệnh lỗng xương tăng dần theo
tuổi, nhóm tuổi từ 50-59 tỷ lệ 25,7%, từ 60-69 tuổi tỷ lệ 53,5%, từ 70-79 tuổi tỷ lệ
71,8% và ở lứa tuổi từ 80 trở lên có đến 95,9% bị bệnh lỗng xương [12]. Ưu điểm
của nghiên cứu này là đo mật độ xương bằng phương pháp DXA ở trung tâm,
nhưng còn hạn chế là đối tượng nghiên cứu chỉ là nữ giới và cũng từ nguồn người
dân đến khám bệnh tại Viện, trong đó có những bệnh nhân về cơ xương khớp hoặc
những bệnh lý khác có ảnh hưởng đến mật độ xương cho nên tỷ lệ mắc bệnh loãng


17

xương cao hơn nhiều nghiên cứu khác. Năm 2009, cũng tại Hà Nội, Nguyễn Thị
Thanh Hương đã khảo sát bệnh loãng xương ở phụ nữ từ 50 đến 65 tuổi, kết quả
cho thấy tỷ lệ mắc là 23% [102]. Tỷ lệ này cao hơn so với một số nước Châu Á như
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Tại miền Nam vào năm 2003, Nguyễn Thị Hoài Châu đã tiến hành khảo sát
mật độ xương ở phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh miền Tây. Nghiên
cứu được tiến hành trên 305 phụ nữ tuổi từ 40 trở lên. Kết quả cho thấy ở phụ nữ
chưa mãn kinh tỷ lệ bệnh loãng xương là 6,94%, giảm mật độ xương là 22,22%,
trong khi đó ở phụ nữ mãn kinh bệnh loãng xương chiếm 39,8%, giảm mật độ
xương 32,9% [1]. Điểm hạn chế của nghiên cứu này là sử dụng phương pháp đo
mật độ xương bằng siêu âm gót chân và thu dung đối tượng nghiên cứu từ phịng

khám bệnh khơng có ý nghĩa đại diện cho phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh và một số
tỉnh miền Tây. Khu vực miền Trung năm 2009 có nghiên cứu của Đào Thị Vân
Khánh đã khảo sát tình hình bệnh lỗng xương ở phụ nữ lớn tuổi tại Bệnh viện
Trường Đại học y dược Huế bằng phương pháp siêu âm định lượng. Kết quả cho
thấy phụ nữ ở tuổi từ 60 trở lên có tỷ lệ bệnh lỗng xương là 51,06% [13]. Tương tự
như nghiên cứu trên, kết quả này chỉ mang ý nghĩa tầm sốt tại Bệnh viện, khơng
đại diện cho phụ nữ lớn tuổi tại Huế.
Tại Thái Bình, Ninh Thị Nhung và cộng sự đã nghiên cứu bệnh loãng xương
và giảm mật độ xương trên phụ nữ 40-65 tuổi bằng phương pháp siêu âm định
lượng ở xương chày và xương quay. Kết quả nghiên cứu cho thấy xương quay tỷ lệ
giảm mật độ xương là 29,9% và bệnh loãng xương là 20,8%; xương chày tỷ lệ giảm
mật độ xương là 35,4% và bệnh loãng xương là 20,2%. Tỷ lệ giảm mật độ xương cả 2
điểm đo là 28,5% và bệnh loãng xương là 11,8%. Tỷ lệ bệnh loãng xương tăng dần theo
tuổi và tuổi mãn kinh [24]. Điểm hạn chế của nghiên cứu này ngồi việc chẩn đốn
lỗng xương bằng siêu âm định lượng, kết quả chỉ khảo sát ở phụ nữ nhóm tuổi 40-65.
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng sử dụng cỡ mẫu khá lớn (1657 người) và được chọn ngẫu
nhiên từ cộng đồng.
Theo nghiên cứu của Hồ Phạm Thục Lan thì tỷ lệ lưu hành bệnh lỗng xương
ở người trưởng thành tại TPHCM là 17% và số người xẹp đốt sống là 23% [16].


18

Bảng 1.1. Bảng tổng hợp một số nghiên cứu tỷ lệ bệnh loãng xƣơng ở Việt Nam
Tác giả

Địa điểm và

Đối tượng và


Nghiên cứu

thời gian

phương pháp đo

nghiên cứu

mật độ xương

Kết quả

Vũ Thị Thu

Hà Nội (*)

Phụ nữ ≥ 20 tuổi

Hiền và cs

Năm 2003

Siêu âm định lượng hiệu chỉnh tuổi là 9%,

Nguyễn Huy

Hà Nội (**)

Người ≥ 20 tuổi


Bệnh LX ở nữ giới là 16%

Thông và cs

Năm 2009

DXA trung tâm

và nam là 9,6%

Đỗ Thị Khánh

Hà Nội (**)

Phụ nữ mãn kinh

LX tuổi 50-59: 25,7%, 60-

Hỷ

Năm 2008

DXA trung tâm

69: 53,5%, 70-79: 71,8%.

Nguyễn Thị

Hà Nội (*)


Phụ nữ 50 - 65 tuổi

Tỷ lệ mắc bệnh loãng

Thanh Hương

Năm 2009

DXA trung tâm

xương là 23%

Ninh Thị

Thái Bình (*)

Phụ nữ 40-65 tuổi

Tỷ lệ LX xương quay

Nhung và cs

Năm 2007

Siêu âm định lượng 20,8%, xương chày 20,2%

Đào Thị Vân

BV ĐHYD


Phụ nữ ở tuổi ≥ 60

Khánh

(**)

Nguyễn Thị

TPHCM, M.

Hoài Châu

Tây (**), 2003 Siêu âm định lượng Mãn kinh LX 39,8%

Hồ Phạm Thục

TPHCM (*)

Người ≥ 50 tuổi

Tỷ lệ LX ở nữ giới 43,7%,

Lan và cs

Năm 2010

DXA trung tâm

nam 29,6%


Bùi Đức Văn

Cà Mau (**)

Người ≥ 50 tuổi

Tỷ lệ LX ở nữ giới là

và cs

2010

Siêu âm định lượng 26,6%, ở nam giới 14,2%.

Huế , 2009 Siêu âm định lượng

Phụ nữ tuổi ≥ 40

Tỷ lệ bệnh LX sau khi

Tỷ lệ bệnh loãng xương là
51,06%
Chưa mãn kinh LX 6,94%,

Bảng 1.1 cho thấy các nghiên cứu thực hiện tại cộng đồng (*) và tại bệnh viện
(**), có 2 phương pháp đo mật độ xương là DXA trung tâm và siêu âm định lượng,
nghiên cứu về phụ nữ nhiều hơn nam giới và có nhiều nhóm tuổi khác nhau. Nhận
xét chung là kết quả tỷ lệ bệnh loãng xương tại cộng đồng thấp hơn ở bệnh viện, tỷ
lệ bệnh ở phương pháp đo siêu âm định lượng thấp hơn DXA, tỷ lệ bệnh khu vực
phía Nam cao hơn phía Bắc. Kết quả tỷ lệ bệnh nghiên cứu từ lứa tuổi trưởng thành

20 tuổi trở lên ít có ý nghĩa về dịch tễ học.


19

1.2.3. Một số yếu tố liên quan đến bệnh loãng xƣơng
Theo Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa một yếu tố nguy cơ là bất kỳ thuộc
tính, đặc điểm hoặc tiếp xúc của một cá nhân mà làm tăng khả năng phát triển một
căn bệnh hoặc chấn thương. Những yếu tố nguy cơ gây ra bệnh loãng xương và gãy
xương do bệnh lỗng xương gồm 2 nhóm thay đổi được và khơng thay đổi được.
Bên cạnh đó cịn có những nguy cơ thứ phát gồm một số bệnh lý và thuốc.
Bảng 1.2. Những yếu tố nguy cơ gây ra bệnh loãng xƣơng [66]
Những yếu tố nguy cơ

Những yếu tố nguy cơ Những yếu tố nguy cơ

thay đổi đƣợc

không thay đổi đƣợc

thứ phát

Lạm dụng rượu bia

Tuổi

Bệnh suyễn, Crohn´s,

Hút thuốc lá


Giới nữ

Chỉ số khối cơ thể thấp

Tiền sử gia đình bị bệnh

(gầy)

lỗng xương

Dinh dưỡng kém

Có gãy xương trước đây

số rối loạn di truyền.

Rối loạn ăn uống

Chủng tộc

Hội chứng Kleinfelter,

Thiếu vận động

Mãn kinh, cắt buồng trứng

amenorrhea, Turner...

Chế độ ăn thiếu can-xi


Corticoid liệu pháp kéo dài

Thiếu vitamin D

Suy tuyến sinh dục tiên

heparin, ức chế bơm

Thường xuyên té ngã

phát hoặc thứ phát ở nam

proton, lợi tiểu quai...)

tiểu đường, cường cận
giáp, viêm đa khớp
dạng thấp. Bệnh về
máu, bệnh ác tính, một

Bất động lâu. Sử dụng
một số thuốc (corticoid,

1.2.3.1. Những yếu tố liên quan đến bệnh loãng xương thay đổi được
Cũng giống như các cơ quan khác trong cơ thể, bộ xương cần một nguồn
cung cấp liên tục về năng lượng và các chất dinh dưỡng. Những năm quan trọng để
xây dựng khối lượng xương là ở thời kỳ ấu thơ và vị thành niên, bởi vì ở giai đoạn
này sự thành lập xương mới nhanh hơn so với sự hủy xương, làm cho xương trở nên
lớn hơn và dày đặc hơn. Một trong những yếu tố nguy cơ chính mà có thể ảnh
hưởng đến mật độ xương đó là chế độ ăn thấp can-xi, nhất là ở trẻ em, vị thành niên
và người trưởng thành trẻ [81]. Can-xi là một chất khoáng rất quan trọng trong việc



20

xây dựng bộ xương, vitamin D có vai trị trong việc hỗ trợ hấp thu can-xi từ chế độ
ăn uống và để đảm bảo cho hoạt động khống hố mơ xương. Khi thiếu hụt can-xi
do thiếu hấp thụ từ chế độ ăn, cơ thể sản xuất nhiều hormone cận giáp hơn, làm tăng
tái tạo xương, huy động các hủy cốt bào để phá vỡ xương, sau đó đưa can-xi từ
xương cung cấp cho các dây thần kinh, tế bào cơ và các cơ quan khác. Điều này làm
tăng tốc độ bệnh loãng xương. Những nghiên cứu trên đối tượng là thanh thiếu niên
cho thấy khi cung cấp một chế độ ăn tăng cường can-xi hoặc uống sữa thì có liên
quan đến tăng cường hấp thu can-xi cho xương. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế
thế giới, người trưởng thành cần ít nhất 800 IU vitamin D và 1.000 đến 1.200 mg
can-xi mỗi ngày để có thể bảo vệ chống lại bệnh loãng xương [110],[116]. Nhu cầu
dinh dưỡng khuyến nghị về can-xi hàng ngày của người trưởng thành Việt Nam là
700 mg và nếu ở người ≥ 50 tuổi cần cung cấp cho cơ thể 1000 mg [45]. Tuy nhiên,
tại Việt Nam cũng như nhiều nước Đông Nam Á, lượng can-xi được cung cấp qua
ăn uống hàng ngày rất thấp (450-550 mg/ngày đối với phụ nữ sau mãn kinh người
Malaysia và người Hoa sống ở Kuala Lumpur, 270 mg/ngày đối với phụ nữ tiền
mãn kinh sống tại Jakarta [21]; Tại Việt Nam, lượng can-xi cung cấp qua bữa ăn
trung bình cho phụ nữ sau mãn kinh là 683 mg/ngày [19]). Ở phụ nữ Iran, can-xi
cung cấp hàng ngày là 689,08 ± 393,15 mg [111]. Một nghiên cứu tại TPHCM, tỷ lệ
thiếu vitamin D ở nam giới là 20%, nữ giới là 46% [15].
Protein cũng là một thành phần quan trọng của mô xương, lượng protein cung
cấp không đủ là bất lợi cho việc xây dựng khối lượng xương trong thời kỳ thanh
thiếu niên và cho việc duy trì khối lượng xương ở giai đoạn già hóa. Tình trạng dinh
dưỡng kém, đặc biệt là đối với vấn đề thiếu chất đạm thường phổ biến ở người lớn
tuổi có liên quan đến mật độ xương và nghiêm trọng hơn ở những bệnh nhân bị gãy
xương hơng [113]. Protein có tác dụng lên tính tồn vẹn của xương, vì vậy suy dinh
dưỡng do thiếu protein cũng dẫn đến giảm khối cơ và sức mạnh cơ nên có thể là yếu

tố nguy cơ gây té ngã. Trong nghiên cứu thuần tập Framingham, ở nam giới và phụ
nữ lớn tuổi có tổng số đạm động vật được cung cấp trong chế độ ăn thấp hơn thì có
tỷ lệ mất xương hơng và xương cột sống nhiều hơn so với người tiêu thụ số lượng
đạm cao [93]. Một trong những cơ chế mà lượng sử dụng protein tăng có thể có tác


21

động thuận lợi trên xương là thông qua sự gia tăng nồng độ của IGF-I trong máu,
mà nó là một hợp chất quan trọng trong việc tham gia thúc đẩy hình thành xương
[113]. Trong các nghiên cứu trên trẻ em khỏe mạnh hoặc người lớn được cho ăn
thêm sữa trong khẩu phần ăn của họ, thì lượng protein được tăng thêm dẫn đến sự
gia tăng đáng kể IGF-I trong huyết thanh so với các đối tượng chứng. IGF-I huyết
thanh cũng tăng ở người cao tuổi bị gãy xương hông được điều trị bằng truyền dung
dịch protein tinh khiết [65]. Mặc dù các bằng chứng nghiên cứu ở trên cho thấy
protein mang lại lợi ích cho sức khỏe xương và thúc đẩy sự phục hồi ở người bệnh
gãy xương hông, nhưng vẫn có những nghiên cứu cho rằng nếu một chế độ ăn quá
nhiều protein có thể có tác động tiêu cực trên sự trao đổi chất can-xi và có thể gây
mất xương. Điều này liên quan đến giả thuyết cho rằng sự cân bằng a-xít – kiềm của
chế độ ăn uống là một yếu tố nguy cơ tiềm ẩn cho bệnh lỗng xương. Khi thức ăn
đã được tiêu hóa, hấp thu và chuyển hóa trong cơ thể, nó tạo ra những sản phẩm có
tính a-xít, trung tính hoặc kiềm. Khi a-xít được tạo ra, nó cần phải được trung hịa
bởi hệ thống đệm để duy trì độ pH trong máu ở mức tối ưu cho các tế bào trong cơ
thể. Hệ thống đệm này được điều hòa bởi các hoạt động của thận (bài tiết các chất
a-xít) và phổi (thở ra khí carbon dioxide). Thực phẩm cũng có thể được chia theo
sản phẩm mà nó tạo ra sau chuyển hóa là a-xít hoặc kiềm trên một mức độ được gọi
là khả năng tải a-xít của thận (Potential Renal Acid Load - PRAL). Chẳng hạn như
ngũ cốc, gạo, mì ống, một số loại phó mát cứng, cá, thịt đều sinh ra a-xít và có mức
giá trị PRAL cao hơn các loại trái cây và rau quả (là thực phẩm tạo ra chất kiềm,
chúng chứa muối kiềm của ka-li, can-xi, ma-nhê). Đã có giả thuyết cho rằng, nếu

chế độ ăn uống cung cấp thực phẩm có tính a-xít chiếm ưu thế (bao gồm nguồn
protein là chủ yếu) và không đủ thức ăn giàu chất kiềm, thì các muối kiềm của bộ
xương có thể bị lơi kéo vào giúp q trình đệm, sau đó một số lượng can-xi từ
xương bị mất qua nước tiểu. Tuy nhiên, phải có một thời gian dài có chế độ ăn uống
nhiều protein thì mới có thể dẫn đến mất xương. Ngược lại với cung cấp thừa
protein, người có rối loạn ăn uống, chán ăn tâm thần ở bệnh nhi hoặc ở tuổi vị thành
niên sẽ ảnh hưởng đến khối lượng xương đỉnh của họ vì đây là thời gian của cuộc
sống lũy tích tối đa khối lượng xương. Cơ thể gầy ở nữ bệnh nhân chán ăn dẫn đến


22

thiếu estrogen và vơ kinh góp phần mất khối lượng xương cũng giống như phụ nữ
thiếu estrogen sau thời kỳ mãn kinh. Trọng lượng cơ thể thấp và cụ thể là thiếu dinh
dưỡng ở người bệnh chán ăn đã trở thành yếu tố nguy cơ gây khối xương thấp, tác
động đến những rối loạn nhiều hormone và mất cân bằng trao đổi chất. Người bệnh
chán ăn trong một thời gian trung bình khoảng 6 năm sẽ cho thấy có một tỷ lệ gãy
xương hàng năm lớn hơn 7 lần so với phụ nữ khỏe mạnh cùng tuổi [65].
Vitamin K cần thiết cho việc sản xuất và hoạt động của osteocalcin (là protein
nhiều thứ hai trong xương sau collagen). Một số bằng chứng cho thấy rằng nếu
cung cấp vitamin K thấp trong chế độ ăn hoặc tình trạng thiếu vitamin K trong cơ
thể sẽ góp phần làm giảm mật độ xương và gia tăng nguy cơ gãy xương ở người già.
Vai trị của vitamin A trong nguy cơ gây lỗng xương hiện còn đang tranh cãi. Nếu
tiêu thụ một lượng rất cao vitamin A (cao hơn mức tiêu thụ hàng ngày được đề
nghị) thì có ảnh hưởng xấu đến xương (cùng với gan và da). Một nghiên cứu quan
sát dựa vào dân số trên phụ nữ sau mãn kinh tại Mỹ đã tìm thấy một mối liên hệ
giữa mức độ sử dụng vitamin A và nguy cơ gãy xương hông. Muối khống ma-nhê
có liên quan đến sự hằng định nội mơi can-xi và trong sự hình thành hydroxyapatite
(khống xương). Một thử nghiệm cho sự thiếu hụt ma-nhê nghiêm trọng thì đưa đến
sự bất thường trong cấu trúc và chức năng của xương. Ở những người cao tuổi khả

năng có nguy cơ thiếu hụt nhẹ ma-nhê do có sự giảm hấp thu và thận bài tiết manhê tăng theo tuổi [100]. Các muối kẽm là thành phần của hydroxyapatite và đóng
một vai trò trong chu chuyển xương. Kẽm cũng cần thiết cho việc thực hiện chức
năng điều chỉnh men phosphatase kiềm, mà men này cần thiết cho q trình khống
xương. Thiếu kẽm nghiêm trọng thường thấy liên quan với sự thiếu năng lượng và
suy dinh dưỡng, mà nó có sự kết hợp với sự kém phát triển xương ở trẻ em. Tuy
nhiên, mức độ nhẹ hơn của thiếu kẽm đã được báo cáo ở người già và có khả năng
góp phần cho tình trạng xương yếu [65].
Mặc dù một số nghiên cứu quan sát cho thấy có mối liên hệ giữa sử dụng
thức uống có gas mức độ cao với giảm mật độ xương hoặc gia tăng tỷ lệ gãy xương
trong thanh thiếu niên, nhưng khơng có bằng chứng thuyết phục rằng những thức
uống có gas ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của xương. Một số nhà khoa học giải


23

thích rằng nhiều khả năng trên thực tế là các thức uống này thay sữa trong chế độ ăn
uống, do đó tác động trên sự cung cấp can-xi. Cà phê làm cho sự gia tăng bài xuất
can-xi qua đường niệu và giảm hấp thu can-xi vào, nhưng sự cân bằng của cơ thể
xuất hiện để giảm bài tiết can-xi ngay sau đó trong ngày, do đó ảnh hưởng thực là
khơng đáng kể [65].
Khi nồng độ na-tri cao trong máu sẽ thúc đẩy can-xi bài tiết qua nước tiểu, do
đó ăn mặn được coi là một yếu tố nguy cơ cho mất khối xương. Sử dụng trái cây và
rau xanh đã chứng minh tác dụng có lợi trên mật độ khống xương ở người đàn ông
và phụ nữ lớn tuổi. Bằng chứng về tác dụng có lợi của trái cây và rau xanh trên sức
khỏe của xương được cung cấp bởi một can thiệp thử nghiệm bằng phương pháp
tiếp cận chế độ ăn uống để ngăn chặn tăng huyết áp (Dietary Approaches to
Stopping Hypertention – DASH). Nghiên cứu được thực hiện ở người trong độ tuổi
từ 23 đến 76. Mặc dù DASH được thiết kế để nghiên cứu về chế độ ăn uống có thể
ngăn ngừa bệnh tim mạch, nhưng một trong số thiết kế đó có tồn bộ nội dung của
chế độ ăn uống cũng ảnh hưởng đến sức khỏe xương. Trong nghiên cứu về xương,

một nửa trong số các đối tượng được yêu cầu thay đổi toàn bộ chế độ ăn uống của
họ bao gồm tiêu thụ nhiều trái cây, rau, các sản phẩm sữa ít chất béo và hàm lượng
na-tri thấp (chế độ ăn DASH), một nửa khác tiếp tục với chế độ ăn thường xuyên
của họ. Trong khoảng thời gian một vài tháng, các chế độ ăn theo DASH đã cải
thiện các chỉ số của xương và chuyển hóa can-xi, nó có thể có khả năng giúp cải
thiện mật độ xương nếu tiếp tục trong thời gian dài [84].
Uống rượu vừa phải sẽ không gây hại cho xương, nhưng nếu uống rượu mức
độ cao (hơn 2 đơn vị tiêu chuẩn rượu hàng ngày, 1 đơn vị = 25ml alcohol 40%) sẽ
đưa đến gia tăng đáng kể nguy cơ gãy xương hơng và các xương khác do bệnh
lỗng xương. Uống rượu quá mức sẽ có tác động trực tiếp gây tổn thương trên các
tế bào tạo xương và ảnh hưởng trên các nội tiết tố điều chỉnh sự trao đổi chất can-xi.
Người hút thuốc lá có khối lượng khoáng xương tại cổ xương đùi và cột sống cũng
thấp hơn người không hút. Một nghiên cứu thực hiện ở Thụy Điển cho thấy nam
thanh niên hút thuốc tuổi từ 18-20 đã làm giảm mật độ xương và làm mỏng lớp vỏ
cứng bên ngoài của xương. Phát hiện này cho thấy rằng hút thuốc lá ở những người


24

trẻ có thể làm giảm khối lượng xương đỉnh của họ và do đó làm tăng nguy cơ bệnh
lỗng xương trong cuộc sống sau này [66],[74].
Thiếu cân là một yếu tố nguy cơ của bệnh lỗng xương bởi vì trọng lượng cơ
thể thấp có liên quan với mật độ xương đỉnh thấp hơn trong giai đoạn phát triển
xương ở tuổi trẻ và tăng nguy cơ gãy xương ở người già. Nguy cơ gãy xương hông
gần như tăng gấp đôi ở những người có BMI 20 kg/m² so với những người BMI 25
kg/m². Những người có một lối sống ít vận động có nhiều khả năng bị gãy xương
hơng hơn những người thường xuyên vận động. Chẳng hạn, phụ nữ ngồi hơn chín
giờ một ngày thì 50% khả năng bị gãy xương hơng hơn những người ngồi ít hơn sáu
giờ một ngày [66].
Người bị bệnh loãng xương, đặc biệt là ở người cao tuổi dễ bị té ngã do sức

khỏe giảm sút, các cơ quan bị giảm chức năng như cơ teo, khớp thối hóa, biến
dạng xương, rối loạn dáng đi, rối loạn thăng bằng, giảm đáp ứng, sa sút trí tuệ, giảm
thị lực, dùng quá nhiều thuốc (thuốc hạ huyết áp, an thần...) và những nguyên nhân
này ít nhiều đều có liên quan đến bệnh lỗng xương.
1.2.3.2. Các yếu tố liên quan đến bệnh lỗng xương khơng thay đổi được
Tuổi có liên quan đến lỗng xương, tuổi càng cao tỷ lệ bệnh lỗng xương
càng lớn. Trong tồn bộ cuộc đời phụ nữ mất khoảng 35% khối lượng xương đặc
và 50% khối lượng xương xốp, trong khi đó nam giới chỉ mất 1/3 khối xương.
Theo kết quả của các nghiên cứu, tỷ lệ mất xương ở nam giới và phụ nữ lớn hơn 35
tuổi là khoảng 0,3-0,5% mỗi năm, tỷ lệ này là 2-5% mỗi năm ở phụ nữ sau khi mãn
kinh từ 4 đến 6 năm và trở nên ổn định sau đó.
Phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ sau mãn kinh dễ bị mất khối xương hơn nam giới
vì cơ thể họ sản xuất ít estrogen. Một sự khác biệt quan trọng ở nam giới và nữ giới
có thể giải thích tại sao gãy xương lại thường ít xảy ra ở nam giới, đó là cùng một
lúc xương đang bị mất đi vào bên trong của phần xương tiếp giáp với khoang tủy,
thì có xương mới lắng đọng bên vỏ ngoài của xương giống như một lớp sơn. Số
lượng xương mới lắng đọng trên bề mặt bên ngoài ở nam giới hơn khoảng ba lần so
với phụ nữ. Điều này làm tăng kích thước xương và do đó duy trì sức mạnh của
xương cũng như bù đắp sự mất xương từ bên trong [63]. Mãn kinh sớm, có kinh


×