Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật tiểu thuyết “tây phương mỹ nhơn” của huỳnh thị bảo hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.31 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

DƯƠNG VŨ QUỲNH MIÊN

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TIỂU THUYẾT “TÂY PHƯƠNG MỸ
NHƠN” CỦA HUỲNH THỊ BẢO HỊA

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ HỌC

ĐÀ NẴNG, NĂM 2022


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

DƯƠNG VŨ QUỲNH MIÊN

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TIỂU THUYẾT “TÂY PHƯƠNG MỸ
NHƠN” CỦA HUỲNH THỊ BẢO HỊA

Chun ngành: Ngơn ngữ học
Mã số
: 8229020

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. BÙI TRỌNG NGOÃN


ĐÀ NẴNG, NĂM 2022


i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới
sự hướng dẫn của PGS. TS. Bùi Trọng Ngoãn, giảng viên Khoa Ngữ Văn – Trường
Đại học Sư Phạm Đà Nẵng.
Các nội dung, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai cơng
bố trong bất kì cơng trình nào.
Tơi xin chịu trách nhiệm về mọi nội dung khoa học và thực tiễn của cơng trình
này.
Tác giả luận văn

Dương Vũ Quỳnh Miên




MỤC LỤC

MỞ ĐẦU............................................................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..........................................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................................6
6. Dự kiến đóng góp của đề tài.......................................................................................................7
7. Bố cục đề tài......................................................................................................................................7

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI............................8
1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật..........................................................................................................................8
1.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật theo quan niệm của lí luận văn học....................................8
1.12. Ngôn ngữ văn chương theo quan niệm của phong cách học..............................10
1.2. Huỳnh Thị Bảo Hòa và tiểu thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn.......................................12
1.2.1. Tác gia Huỳnh Thị Bảo Hòa............................................................................................12
1.2.2. Tiểu thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn...............................................................................14
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM TỪ VỰNG – NGỮ NGHĨA TRONG TIẾU THUYẾT TÂY
PHƯƠNG MỸ NHƠN...............................................................................................................................17
2.1. Các lớp từ giàu sắc thái tu từ trong Tây Phương Mỹ Nhơn......................................17
2.1.1. Từ ngữ Hán – Việt...............................................................................................................17
2.1.2. Từ cổ và từ lịch sử................................................................................................................26
2.1.3. Phương ngữ.............................................................................................................................31
2.2. Các phương tiện tu từ ngữ nghĩa.............................................................................................34
2.2.1. So sánh tu từ............................................................................................................................34
2.2.2. Ẩn dụ tu từ...............................................................................................................................37
2.2.3. Hốn dụ tu từ..........................................................................................................................40
2.2.4. Nhân hóa...................................................................................................................................44
2.2.5. Điệp ngữ...................................................................................................................................45
Tiểu kết chương 2.......................................................................................................................................47
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC – NGỮ PHÁP TRONG TIỂU THUYẾT
TÂY
PHƯƠNG MỸ NHƠN...............................................................................................................................48
3.1. Các kiểu câu trong Tây Phương Mỹ Nhơn..........................................................................48
3.1.1. Câu đơn.....................................................................................................................................48
3.1.2. Câu phức thành phần:.........................................................................................................55
3.1.3. Câu ghép...................................................................................................................................56
3.2. Các biện pháp tu từ về mặt cú pháp trong Tây Phương Mỹ Nhơn.......................62



3.2.1. Đảo ngữ.....................................................................................................................................62
3.2.2. Điệp cấu trúc...........................................................................................................................65
3.2.3. Biền ngẫu..................................................................................................................................65
Tiểu kết chương 2.......................................................................................................................................68
Chương 4. ĐẶC ĐIỂM CẤU ÂM – NGỮ ÂM TRONG TIỂU THUYẾT TÂY
PHƯƠNG MỸ NHƠN...............................................................................................................................69
4.1. Hiện tượng biến âm theo phương ngữ..................................................................................69
4.2. Các biện pháp tu từ ngữ âm trong Tây Phương Mỹ Nhơn........................................75
4.2.1. Biện pháp hài thanh.............................................................................................................76
4.2.2. Biện pháp điệp âm, điệp thanh.......................................................................................77
4.3. Nhạc tính trong câu văn Tây Phương Mỹ Nhơn..............................................................81
4.3.1. Nhịp điệu..................................................................................................................................82
4.3.2. Thanh điệu...............................................................................................................................86
Tiểu kết chương 3.......................................................................................................................................89
KẾT LUẬN....................................................................................................................................................90
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................................................92
PHỤ LỤC.....................................................................................................................................................PL1


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu
bảng biểu

Tên bảng biểu

Trang

2.1.
2.2.


Một số từ Hán – Việt trong Tây Phương Mỹ Nhơn
Bảng thống kê các từ cổ trong tiểu thuyết Tây
Phương Mỹ Nhơn

21
28

2.3.

Bảng thống kê các từ lịch sử trong tiểu thuyết Tây
Phương Mỹ Nhơn

29

2.4.

Bảng thống kê phương ngữ trong tiểu thuyết Tây
Phương Mỹ Nhơn

33

2.5.

Thống kê phép hoán dụ biểu thị mối quan hệ giữa tên
riêng và tên chung trong Tây Phương Mỹ Nhơn

42

3.1.


Bảng thống kê phân loại và tần suất sử dụng các kiểu
câu đặc biệt được dùng trong Tây Phương Mỹ Nhơn

52

4.1.
4.2.
4.3.

Bảng biến thể ngữ âm kị húy
Bảng thống kê âm vực trong Tây Phương Mỹ Nhơn
Bảng thống kê âm điệu trong Tây Phương Mỹ Nhơn

73
87
89

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ

Tên biểu đồ

2.1.

Tỉ lệ sử dụng các kiểu so sánh trong Tây Phương Mỹ
Nhơn

Trang
35



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiên cứu ngơn ngữ văn học, đặc biệt là tiếp cận, tìm hiểu đặc điểm về ngôn
ngữ của một tác giả, qua một hoặc một số tác phẩm là một hướng đi cần thiết trong
nghiên cứu phong cách ngôn ngữ học, đồng thời là cách nghiên cứu về vốn từ trong
một giai đoạn lịch sử nhất định, hướng đi này vừa mang tính chuyên sâu, vừa mang
tính liên ngành và ngày càng được mở rộng theo nhiều trường phái khác nhau.
Trong quá trình hình thành và vận động của nền văn học hiện đại bằng chữ quốc ngữ
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, văn xuôi được xem là bộ phận “mới lạ nhất, hiện đại
nhất”. Và trong văn xuôi, tiểu thuyết là thể loại rất đáng được lưu tâm. Dù chưa phải là
chặng hoàn tất và đạt được nhiều thành tựu thể loại như giai đoạn sau (1930 – 1945),
nhưng tiểu thuyết giai đoạn giao thời (1900 – 1930) đã xuất hiện nhiều tác phẩm gây được
ấn tượng. Cho đến nay, người ta vẫn nhắc tới Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách) với vai trò của
“cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tiên”, Quả dưa đỏ (Nguyễn Trọng Thuật) với vị trí của “cuốn
tiểu thuyết luận đề đầu tiên”, Cậu bé nhà quê (Nguyễn Lân) với ý nghĩa của “cuốn tiểu
thuyết giáo dục đầu tiên”,… Tuy nhiên, trong đội hình khoảng 30 nhà tiểu thuyết thế hệ
thứ hai, những người được xem là đặt nền móng chuẩn bị cho giai đoạn tăng tốc của văn
xuôi Việt Nam vào những năm ba mươi trở về sau, chúng ta chỉ mới thấy thấp thoáng hai
gương mặt đại diện cho Trung Kỳ là Lê Dư và Phan Khôi, song dường như mục tiêu sự
nghiêp của họ không dành cho văn xuôi. Tuyệt nhiên không thấy một bóng hồng nào
“hành nghề” văn xi. Gần đây, nhờ vào công phu khảo cứu của nhiều nhà nghiên cứu,
đặc biệt là ông Thy Hảo Trương Duy Hy, chúng ta được có trên tay cuốn tiểu thuyết Tây
Phương Mỹ Nhơn của Huỳnh Thị Bảo Hòa in cùng các tác phẩm khác của bà trong cuốn
Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa – Người phụ nữ viết tiểu thuyết đầu tiên (NXB Văn học, Hà
Nội, 2003). (Cách ghi tên tác phẩm với 04 chữ cái đầu viết hoa mà chúng tôi sử dụng
trong toàn bộ luận văn cũng được dựa trên nguồn ngữ liệu này)
Lâu nay, giới nghiên cứu vẫn cho rằng, phụ nữ Việt đầu tiên viết tiểu thuyết là nữ sĩ

Anh Thơ với cuốn Răng đen (1943). Trong khi đó, tiểu thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn đã
được ấn hành từ năm 1927. Đây là cuốn “luân lý tiểu thuyết” của nữ tác giả Huỳnh Thị
Bảo Hòa, người làng Đa Phước, Hòa Minh, Hòa Vang (nay là Liên Chiểu, Đà Nẵng) viết
ở Đà Thành mùa thu năm Bính Dần 1926. Sách được in thành 2 tập (tổng cộng 76 trang,
khổ 14x20cm) tại nhà in Bảo Tồn, 36 bis phố Bonnard, Saigòn 1927, bìa có hình bán thân
của một phụ nữ Pháp, chít khăn, cổ mang xâu chuỗi hạt trai. Cuốn tiểu thuyết này đã vinh
dự được cụ Huỳnh Thúc Kháng viết lời tựa, nhà thơ Tản Đà viết lời đề tặng, nhà báo Bùi
Thế Mỹ viết lời bạt. Và cuốn sách cũng được ông Diệp Văn Kỳ, chủ bút tờ Đông Pháp
thời báo giới thiệu ở mục điểm sách ngay số ra đầu tiên của trang Phụ trương văn chương
trên tờ Đông Pháp thời báo số 635, ra ngày 14-10-1927. Đấy là tất cả vinh dự ngay lúc
sinh thời của tác phẩm. Nhưng éo le thay, hơn 90 năm qua cuốn tiểu thuyết đã rơi vào


2
quên lãng, và vị trí tiên phong của một nhà tiểu thuyết là phụ nữ như tác giả đã bị bỏ
qua. Thực tế cũng cho thấy các cuốn nghiên cứu, chuyên khảo văn học sử về tiểu
thuyết Việt Nam, xuất bản từ sau 1950 ở cả miền Bắc lẫn miền Nam, đều khơng thấy
nhắc nhở gì tới cuốn truyện này của bà Bảo Hồ. Và cũng hầu như chưa có nguồn tài
liệu nào biết chính xác tiểu sử, thơng tin của bà Bảo Hịa. Đây là một thiếu sót to lớn
cần được bổ sung trong lược sử các tác gia và tác phẩm Việt Nam. Vậy nên, mặc dù
còn nhiều mặt hạn chế về nghệ thuật song những đóng góp của bà Bảo Hòa và tiểu
thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn là rất lớn và cần được biết đến trên nhiều phương diện.
Xuất phát từ những lí do trên, luận văn nghiên cứu “Đặc điểm ngôn ngữ nghệ
thuật tiểu thuyết “Tây Phương Mỹ Nhơn” của Huỳnh Thị Bảo Hịa” khơng chỉ tìm
hiểu về phong cách ngơn ngữ của một tác giả mà nhằm góp phần khẳng định vị trí
quan trọng của tác giả cũng như tác phẩm trong lược sử văn học Việt Nam mà cịn tìm
hiểu về ngơn ngữ dân tộc và phương ngữ, qua đó phản ánh một giai đoạn của q trình
phát triển ngơn ngữ trong đời sống hiện thực Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tây Phương Mỹ Nhơn được coi là cuốn tiểu thuyết luân lý đầu tiên của Việt

Nam. Nhưng cái đặc sắc của nó nằm ở tính chất ngược dịng, khác biệt so với những
tiểu thuyết cùng thời mặc dù có chung nguồn cảm hứng đạo lý. Trong dòng chảy
chung của cảm hứng đạo lý giai đoạn giao thời, Tây Phương Mỹ Nhơn đứng thành một
mạch riêng. Tác phẩm gây được ấn tượng ngay từ khi ra đời khơng phải chỉ vì được
liệt vào “thời kỳ thứ nhất của mục văn tiểu thuyết đàn bà”, mà chủ yếu là bởi một đề
tài và chủ đề khá đặc sắc. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại thì các cơng trình
nghiên cứu về bà Bảo Hòa cũng như tiểu thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn chưa nhiều,
thậm chí là cịn khá nhiều người chưa biết đến nữ sĩ và tác phẩm này.
Báo Tiếng Dân số ra ngày 4/10/1941 nhận xét Huỳnh Thị Bảo Hòa là người “vang
danh trên mặt báo” và là người “chia sẻ gánh nặng với giới mày râu. Năm 1943, tạp chí
Tri tân ở Hà Nội ra liền hai số chuyên đề về Văn học phụ nữ, các bài viết của Hoa Bằng,
Phạm Mạnh Phan cũng đều ghi nhận cây bút Huỳnh Thị Bảo Hoà trong làng báo đầu thế
kỷ XX. Nhưng phần việc bà góp với làng văn thì q ít người biết. Chính Hoa Bằng, khi
ghi nhận bà Bảo Hồ là cây bút đã viết cho tờ Tiếng dân, thì đồng thời lại khơng biết bà
có cuốn truyện Tây Phương Mỹ Nhơn này, nên đã kể cuốn Răng đen của Anh Thơ như là
cuốn tiểu thuyết thứ nhất của tác giả nữ Việt Nam ở thế kỷ XX [43]. Người trước nhất có
cơng phát hiện ra văn bản chính là nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân. Năm 2001, ông Lại
Nguyên Ân phát hiện được toàn bộ tiểu thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn ở Thư viện Quốc gia
Hà Nội và ông là người đầu tiên làm cái việc khơi đống tro tàn thời gian để đưa ra ánh
sáng người phụ nữ viết tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên của nước ta song bất hạnh,
bị người đời lãng quên suốt 70 năm (tính đến năm 2001).
Ở phần mở đầu, trước khi vào truyện, có đến bốn bài viết khác nhau (các bài tựa của
Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Thế Mỹ và tiểu dẫn của tác giả). Cả bốn bài này đều


3
lưu ý một điểm: đây vốn là một chuyện có thật ở vùng Quảng Nam được nữ tác giả soạn
thành tiểu thuyết. Hơn nữa, ba vị khách đề tựa đều đoan quyết rằng đây là cuốn tiểu thuyết
đầu tiên của nữ tác giả Việt Nam trong thế kỷ XX. Khi viết lời tựa cho Tây Phương Mỹ
Nhơn, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã viết: “Tiểu thuyết nước ta nay còn đương nẩy chồi mọc

mống, trong đám mày râu mới xuất hiện một đôi bản như Quả dưa đỏ, Cảnh thu di hận,
... cịn nữ giới thì thật chưa có. Nay bà đem cái thì giờ quý báu mà làm được bản này, lấy
cái học thức sở đắc mà ra công thêu dệt để tự tạo cho thành một nhà văn trong nữ giới, cái
công mở núi vỡ đường, thật không những là ngọn cờ tiên phong cho đạo quân nương tử
trong làng quần thoa, mà cũng là tiếng trống trên thành, phu nhơn làm một tay nữ tướng
quân kình địch cho đám mày râu trong trường văn trận bút. Bạo dạn thật! Khó nhọc thật”
[49; tr.40]. Tản Đà khẳng định đây “là vở tiểu thuyết thứ nhất của trong bạn quần thoa
mới soạn ra”. Bùi Thế Mỹ, một trong những cây bút trụ cột của Đông Pháp thời báo, là
người được tác giả nhờ trơng nom việc in cuốn sách, thì thận trọng hơn nữa: “Nay tiểu
thuyết Tây phương Mỹ Nhơn của bà Vương Khả Lãm ra đời, hay dở thế nào, xin nhường
có hải nội chư qn tử phẩm bình; tôi với bà là chỗ tri giao, tưởng chẳng nên để lời tán
tụng; song có một điều là nếu pho sử văn học của nước nhà mà có ngày xuất thế, thời tôi
tin rằng tiểu thuyết Tây phương mỹ nhân của bà Vương Khả Lãm đây cũng sẽ được liệt
vào trong thời kỳ thứ nhất của mục văn tiểu thuyết đàn bà vậy” [49; tr.43-44]. Một cuốn
tiểu thuyết có giá trị về đạo lý và lược sử văn học là vậy nhưng trên thực tế, những người
viết văn học sử đời sau lại chưa ghi nhận và chưa chứng thực được điều ấy.

Mặt khác, đối với nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa, dù là bà từng tham gia trong làng
báo, làng văn, biên khảo,… và có những tác phẩm gây tiếng vang từ năm 1927 đến
năm 1936 nhưng vẫn chưa có nhà phê bình, nghiên cứu nào phát hiện. Cụ thể như nhà
phê bình Vũ Ngọc Phan, khi viết tác phẩm “Nhà văn hiện đại” – nổi tiếng cuối thập
niên 30 của thế kỷ trước không hề nhắc đến tên nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa. Chẳng
những thế mà hầu hết các từ điển văn học hoặc các bộ Tổng tập văn xuôi xuất bản
trước năm 2003 cũng không hề nhắc đến tên bà [49; tr.18].
Mãi đến lúc nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân phát hiện vào năm 2001 và tác phẩm
Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa – Người phụ nữ viết tiểu thuyết đầu tiên do Thy Hảo
Trương Huy Dư sưu tầm, giới thiệu năm 2003, thì từ đó đến nay, giới nghiên cứu, báo
chí và độc giả trong và ngoài nước mới đặc biệt quan tâm đến. Sự kiện này gây được
tiếng vang đáng kể bằng bài viết của nhiều vị trong và ngoài nước, khen ngợi một nữ
sĩ tài danh đã tự tạo cho mình một hướng đi có đạo lý vào thời buổi vơ cùng khó khăn

đối với phái nữ, song vẫn đạt được những thành tựu bằng những nét son rực rỡ trong
tiến trình văn hóa dân tộc cận hiện đại.
Điều rõ ràng nhất mà mọi người đều cảm nhận được là từ khi tên nữ sĩ được cơng bố
trong tác phẩm nói trên, lập tức được trang trọng đưa vào các cuốn sách Từ điển Văn học
(Đỗ Đức Hiểu chủ biên, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá biên soạn), Từ
điển Nhân vật lịch sử Việt Nam (Nguyễn Q.Thắng – Nguyễn Bá Thế), Tổng tập Văn


4
xi lãng mạn miền Nam (Hồng Lại Giang chủ biên), Kỷ lục Việt Nam (Tập 3), Từ điển
Tác phẩm Văn xi Việt Nam (Vũ Tuấn Anh – Bích Thu chủ biên). Trước đó, từng có
36 tập, 48 quyển Tổng tập văn học Việt Nam ghi một số lượng tác giả được công bố lần
đầu về phần văn xuôi Quốc ngữ (khơng có tên nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hịa) nhưng tơn
danh của những tác giả được cơng bố đó hầu như không gây được tiếng vang lớn như
trường hợp của bà Bảo Hòa từ giữa năm 2003 đến nay (Xem [48; tr.20]). Đây là hiện
tượng đáng để giới cầm bút cũng như chính quyền sở tại quan tâm, phục hồi vị trí của
một nữ sĩ giàu lịng u nước, góp phần xây dựng và phát huy tổ chức cuộc sống mới
cho giới quần thoa, ở ngay trong thời buổi cực kỳ khó khăn bởi ảnh hưởng của cuộc
xâm lược Pháp và Nho giáo khắt khe, chưa hoàn toàn lụi tàn.
Bởi vì q trình phát hiện có phần chậm trễ này, cho nên những nghiên cứu về bà
Bảo Hòa và tác phẩm này chưa nhiều. Có chăng, chỉ là những bài viết được rút ra từ
báo, tạp chí hoặc từ điển của một số ít các nhà nghiên cứu đã kịp biết về bà Bảo Hòa
hoặc kịp đọc tác phẩm này.
Người đầu tiên và quan trọng cần được nhắc đến, không ai khác, chính là nhà
nghiên cứu Lại Nguyên Ân. Sau khi phát hiện cuốn tiểu thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn,
trên trang cá nhân của mình, ơng đã viết một bài với tựa đề “Tây Phương Mỹ Nhơn –
Một cuốn truyện bị lãng quên suốt 70 năm qua” [43], bài viết sau này được đăng lại trong
tạp chí Văn học (trang 82, số 6/2001), giới thiệu về tác giả, tác phẩm cũng như q trình
ơng “khơi đống tro tàn” để đưa được tác phẩm đến với độc giả. Trong đó, ơng khẳng định
và giải thích việc gọi Tây Phương Mỹ Nhơn là “cuốn tiểu thuyết thứ nhất của nữ tác gia

người Việt trong thế kỉ XX”. Ông nhận xét tác giả đang “chủ quan hóa”, “Việt hóa” một
thế giới xa lạ nhưng ln biết giới hạn của mình; chủ đề và cách thức có phần khn mẫu,
sáo mịn nhưng chất liệu ít nhiều mới mẻ (những sự việc, những con người, nhưng tình
huống thuộc loại ít được biết đến). Bài viết là lời giới thiệu ban đầu
đến mọi người về Huỳnh Thị Bảo Hòa và Tây Phương Mỹ Nhơn.
Báo Đà Nẵng cuối tuần (số 1607 ngày 20/10/2002) đăng tải bài viết của tác giả
Ngơ Tồn: “Về Tây Phương Mỹ Nhơn và nữ tiểu thuyết gia quốc ngữ đầu tiên của văn
học Việt Nam”. Ngoài những giới thiệu về tác giả và tác phẩm, Ngơ Tồn ghi nhận và
dành sự ngợi khen đối với việc tác giả đưa tiếng nói đời thường, dân dã vào tác phẩm,
thể hiện tính tích cực cơng dân, ông gọi đây là “sự thể hiện ngoạn mục năng lực cách
tân của giới chị em”.
Tác giả Lê Quang Đức (Hội viên Hội Nhà Văn TP. Đà Nẵng) với bài viết “Trường
hợp nhà tiểu thuyết Huỳnh Thị Bảo Hòa” trên tạp chí Văn hóa Việt Nam có nhắc đến việc
phát hiện Tây Phương Mỹ Nhơn là một “sự kiện văn hóa”. Ơng cho rằng, mặc dù
Tây Phương Mỹ Nhơn là một cuốn tiểu thuyết chứa đựng tất cả những nhược điểm cơ bản
của một cuốn tiểu thuyết ở thời ký chuyển giao văn học, nhưng những đóng góp tác phẩm
là rất lớn và cần được nhận thức rõ trên nhiều phương diện. Ông làm rõ sự đột phá về mặt
nội dung, tư tưởng, cốt truyện và nhân vật của tác phẩm, bên cạnh đó là luận bàn


5
(một cách khơng chắc chắn) về vấn đề quyền bình đẳng xã hội, những phê phán, tố cáo
ẩn mình sau tác phẩm. Cuối cùng, ơng khẳng định vị trí đáng được cơng nhận của bà
Bảo Hịa và tác phẩm.
Mục “Văn hóa nghệ thuật” của báo Thanh niên số 187 – 188 (phát hành vào ngày
5 và ngày 6 tháng 7 năm 2004) đã đăng tải hai bài viết của tác giả Nguyễn Thế Thịnh
viết về Vương phu nhân và Tây Phương Mỹ Nhơn. Bài thứ nhất viết về cuộc đời và
những câu chuyện của bà Bảo Hòa, tác giả gọi Vương phu nhân là “người phụ nữ đặc
biệt” thông qua việc bà là người phụ nữ đầu tiên cắt tóc ngắn, đi xe đạp và làm báo, bà
cố súy cho phong trào phụ nữ văn minh, hô hào chị em phải học chữ quốc ngữ, phải

biết vận dụng kiến thức khoa học, phải biết nuôi con nhưng cũng phải biết hoạt động
xã hội. Bài thứ hai viêt về Tây Phương Mỹ Nhơn, Nguyễn Thế Thịnh cho rằng nội
dung cuốn tiểu thuyết rất độc đáo và bày tỏ sự thán phục vì cách đây 77 năm mà một
tác giả, lại là phụ nữ, đã thể hiện một quan điểm tiến bộ như thế (câu chuyện người
đàn bà Pháp lấy chồng An Nam) thông qua tiểu thuyết.
Trong Từ điển Văn học (bộ mới, NXB Thế giới) trang 671 – 673, tác giả Đặng Thị
Hảo khi nhắc về Tây Phương Mỹ Nhơn có phân tích sơ lược về kết cấu và ngơi nhân vật
của tiểu thuyết. Thơng qua đó, tác giả cho rằng “tác phẩm kết cấu theo dòng chảy của thời
gian, đơn giản nhưng cảm động, văn viết khá chắc tay, đặc biệt là những đoạn tả cảnh”,
tuy nhiên “tâm lý, nhân vật đôi chỗ thể hiện chưa thật khéo nên hiệu quả khắc họa cá tính
có phần hạn chế”. Tác phẩm là sự thể nghiệm đầu tiên và dường như cũng là cuối cùng
đối với hình thức nghệ thuật chương hồi của tiểu thuyết quốc ngữ.
Tác giả Hà Diệp Hằng nhận xét Tây Phương Mỹ Nhơn là một bước đột phá so với
nền tiểu thuyết Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX với một hệ thống đông đảo nhiều nhân vật là
người nước ngồi và khơng gian mở rộng. Tác giả trích lời nhà văn Lê Quang Đức nhận
định về tác phẩm như sau: “Với việc xây dựng một câu chuyện tình vượt biên giới như
Tây Phương Mỹ Nhơn, nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa một lần nữa làm một cuộc cách mạng
trong việc thay đổi nhãn quan văn hóa cho xã hội, xóa bỏ ít nhiều tinh thần dân tộc hẹp
hịi, nhìn rộng ra xa hơn cảnh quan của mình để thấy một thế giới khác, dù chưa chắc là
ưu việt nhưng vẫn mới lạ và có quá nhiều điều cần phải suy ngẫm và học tập, trực tiếp đặt
vấn đề xung đột giữa dân tộc và văn hóa Pháp đang tồn tại trong xã hội …”
(Thông tin phụ nữ 8/3, 2005)
Một số bài viết khác trên các báo và tạp chí cũng có nhắc đến bà Bảo Hịa và
cuốn tiểu thuyết này, tuy nhiên, ngồi những thơng tin về cuộc đời giới thiệu sơ lược
về cuốn tiểu thuyết thì chỉ là những nhận xét chung chung và có phần chủ quan. Tuyệt
nhiên chưa một ai nghiên cứu và tìm hiểu một cách đầy đủ về đặc điểm ngôn ngữ của
Vương phu nhân nói riêng và tác phẩm Tây Phương Mỹ Nhơn nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu ngơn ngữ nghệ thuật của Huỳnh Thị Bảo Hòa trong Tây Phương Mỹ



6
Nhơn nhằm khảo sát tồn bộ đặc điểm ngơn ngữ trong cuốn tiểu thuyết này, xác định
được năng lực biểu đạt của hệ thống ngôn ngữ này đối với tác phẩm và đối với nhân
vật, xác định được phong cách ngơn ngữ của Huỳnh Thị Bảo Hịa trong Tây Phương
Mỹ Nhơn. Đồng thời qua đó, nhận diện được một trường hợp cụ thể của ngôn ngữ tiểu
thuyết Việt Nam trước năm 1930 nói riêng và nhận diện một phần về ngơn ngữ văn
chương Việt Nam đầu thế kỉ XX nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ khung lí thuyết đã xây dựng cùng với những vấn đề lí luận đã được đưa ra,
luận văn xác định những nhiệm vụ cơ bản như sau: Chúng tơi sẽ tiến hành khảo sát,
phân tích ngữ liệu một cách có hệ thống trên các bình diện từ vựng – ngữ nghĩa, ngữ
pháp, ngữ âm; phân tích đặc điểm nghệ thuật ngơn từ qua các biện pháp tu từ; nghiên
cứu định lượng và định tính tồn bộ các bình diện; khảo sát và phân tích ngữ liệu một
cách khách quan và đầy đủ nhất; cuối cùng, rút ra được những nhận xét tổng quát nhất
về vấn đề đã được nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu là đặc điểm
ngôn ngữ nghệ thuật của Huỳnh Thị Bảo Hịa trên các bình diện: từ vựng – ngữ nghĩa,
ngữ pháp, ngữ âm.
Phạm vi nghiên cứu là tiểu thuyết tình cảm Tây Phương Mỹ Nhơn trong mối quan
hệ với toàn bộ tác phẩm của Huỳnh Thị Bảo Hòa và trong mối quan hệ với các tác
phẩm văn chương Việt Nam được viết bằng chữ Quốc ngữ đầu thế kỉ XX.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ học, chúng tơi phân
tích tồn bộ đặc điểm ngơn ngữ nghệ thuật của Tây Phương Mỹ Nhơn để miêu tả một
cách rõ nét nhất về đặc điểm ngôn ngữ của bà Bảo Hòa, đồng thời bổ sung thêm các
thủ pháp sau:
- Thủ pháp thống kê: Chúng tôi tiến hành thống kê ngơn ngữ nghệ thuật trong tác

phẩm theo các bình diện từ vựng – ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ âm nhằm đem đến kết
quả mang tính định lượng.
- Thủ pháp cải biến: Chúng tôi phân ranh giới các ý nghĩa và cố gắng hợp nhất
các từ nhận được vào các lớp nghĩa tương đương, qua đó chẩn đốn và phát hiện hiệu
quả biểu đạt của ngơn từ.
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, chúng tôi cũng vận dụng phương pháp đối
sánh thông qua việc tiến hành so sánh – đối chiếu từ kết quả thống kê để đánh giá năng
lực biểu đạt của đơn vị ngôn ngữ với chuỗi đồng nghĩa hoặc với các tác giả khác.
Trong quá trình khảo sát và xử lý tư liệu, một số thủ pháp cũng được vận dụng
linh hoạt để làm nổi rõ và phát hiện bản chất của đối tượng, đó là các thủ pháp phân
tích ngơn cảnh, thủ pháp xã hội học, thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp,…


7
6. Dự kiến đóng góp của đề tài
6.1. Về mặt lí luận
Qua tìm hiểu của chúng tơi, chưa có một cơng trình nào thật sự đi sâu vào nghiên
cứu cụ thể và đầy đủ về đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật của nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hịa nói
chung cũng như của tiểu thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn nói riêng. Luận văn này được thực
hiện với mong muốn đi sâu vào tìm hiểu “địa hạt” đang được quan tâm và chú trọng này
trên các bình diện từ vựng – ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ âm. Qua đó, góp phần nhỏ làm
sáng tỏ cái đạo đức luân lý mà bà Bảo Hịa muốn nói đến trong bối cảnh giao thời, thay
đổi một vài định đề thiếu chính xác đã trú ngụ xưa nay trong lịch sử văn học, đồng thời
làm sáng tỏ một vài giả thuyết quan trọng khác về văn chương xứ Quảng.
6.2. Về mặt thực tiễn
Như đã nói ở trên, việc tiểu sử, thông tin của nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa và cuốn
tiểu thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn bị lãng quên suốt 90 năm qua là một thiếu sót lớn
của nền văn học Việt Nam. Rõ ràng, với những gì được diện kiến qua tác phẩm này, có
thể khẳng định, những trang lược sử về tác gia hoặc văn xuôi Việt Nam cần phải dành
một chỗ cho bà Bảo Hòa với tư cách một người mở đầu cho tiểu thuyết viết bằng chữ

Quốc ngữ, người mở đường cho văn xuôi tự sự, tư cách khai phá đề tài về người phụ
nữ chống lễ giáo và định kiến xã hội, tư cách khai phá đề tài về người ngoại quốc,…
Về phía tác phẩm, Tây Phương Mỹ Nhơn cho dù viết lại một chuyện có thật hay
chỉ là hư cấu để làm tấm gương đạo đức, thì tác phẩm vẫn là một hiện tượng đặc sắc.
Nó thể hiện sự giao thoa văn hố Đơng Tây theo chiều ngược lại với những gì đang
xảy ra trong đời sống xã hội ta lúc bấy giờ. Tác phẩm khơng chỉ có ý nghĩa với đương
thời mà ngày nay, nó vẫn khiến người đọc phải ngạc nhiên. Đối với đương thời, một
mặt nó thể hiện xu hướng tư tưởng “Pháp - Việt đuề huề”, mặt khác chứng tỏ một cái
nhìn khách quan và “rộng lượng” của tác giả ngay trong hoàn cảnh nước ta đang bị
thực dân Pháp xâm lược. Trong tinh thần giao lưu hiện đại, tác phẩm cịn có thể được
tiếp nhận với ý nghĩa thể hiện mối quan hệ hoà hiếu giữa các dân tộc trên thế giới.
Điều này càng thực sự cần thiết trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay.
Vậy nên, tác giả mong muốn đưa tên tuổi nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa và tiểu
thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn đến gần với mọi người hơn thông qua luận văn này.
7. Bố cục đề tài
Dự kiến bố cục của luận văn gồm 4 chương (ngoài các phần mở đầu, kết luận,
phụ lục, tài liệu tham khảo):
Chương 1: Những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài
Chương 2: Đặc điểm từ vựng – ngữ nghĩa trong tiểu thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn
Chương 3: Đặc điểm cấu trúc – ngữ pháp trong tiểu thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn
Chương 4: Đặc điểm cấu âm – ngữ âm trong tiểu thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn


8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Ngơn ngữ nghệ thuật
Trong q trình phát triển lịch sử, lồi người đã sáng tạo ra nhiều loại hình nghệ
thuật: văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, … Mỗi một loại hình nghệ thuật
sẽ có chất liệu riêng, có các tín hiệu thẩm mĩ riêng, có cách thức sáng tạo và tiếp nhận

riêng, có chức năng riêng trong việc đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ của con người. Nếu như
âm nhạc được tạo nên bởi các giai điệu, âm thanh; hội họa được tạo nên từ màu sắc và
đường nét; điêu khắc và kiến trúc được tạo nên bởi đường, khối thì ngơn ngữ chính là
chất liệu của văn học. Một trong các chức năng chính của ngơn ngữ là chức năng thẩm
mĩ hay cịn gọi là chức năng làm chất liệu cho nghệ thuật văn chương. Xét theo phong
cách học, loại ngôn ngữ này được gọi là ngôn ngữ văn chương hoặc ngôn ngữ nghệ
thuật, đây cũng là một trong sáu phong cách ngôn ngữ chính được hình thành dựa trên
ngữ cảnh và mục đích giao tiếp của con người.
Ngôn ngữ nghệ thuật là chất liệu và là phương tiện mang tính đặc thù của văn học.
Ngôn ngữ nghệ thuật “được tổ chức trên cơ sở nhịp điệu, hết sức cô đọng, hàm súc và đặc
biệt gợi cảm” [17; tr.215]. Khơng có ngơn ngữ thì khơng thể có tác phẩm văn học, bởi
chính ngơn ngữ đã cụ thể hóa và vật chất hóa sự biểu hiện của chủ đề và tư tưởng, tính
cách và cốt truyện,… Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng trong quá trình
chuẩn bị và sáng tạo tác phẩm. Bên cạnh đó, nó cũng là yếu tố xuất hiện đầu tiên trong sự
tiếp xúc của người đọc với tác phẩm. Có thể nói, trong khi thực hiện chức năng thẩm mĩ,
ngôn ngữ cũng đồng thời thực hiện chức năng giao tiếp và tư duy.
Các nhà văn khi sáng tác ra một tác phẩm, họ đã trải qua một quá trình nhận thức,
chiêm nghiệm về tự nhiên, cuộc sống và xã hội xung quanh. Rồi sau đó thể hiện kết
quả nhận thức và tư duy của mình thơng qua các hình tượng nghệ thuật, các tín hiệu
thẩm mĩ. Vì thế, tác phẩm văn chương mang tính hình tượng sinh động, cụ thể, cá thể
và tác động vào cảm xúc, lí trí độc giả.
Như vậy, khi sáng tác tác phẩm, các tác giả đã tiến hành hoạt động tư duy nghệ
thuật, sau đó thể hiện qua các tín hiệu thẩm mĩ để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật.
Khi tiếp nhận, độc giả cũng tiến hành nhận thức và lĩnh hội tác phẩm theo các tín hiệu
thẩm mĩ để rút ra ý nghĩa thẩm mĩ của tác phẩm. Và các tín hiệu thẩm mĩ ở đây chính
là ngơn ngữ nghệ thuật trong văn học hay cịn gọi là ngơn ngữ văn chương.
1.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật theo quan niệm của lí luận văn học
Các nhà nghiên cứu đều thừa nhận một ngun lí là khơng có ngơn ngữ thì khơng có
văn học. Theo quan niệm của lí luận văn học, bằng ngơn ngữ, tác phẩm văn chương có thể
biểu hiện được mọi nội dung nhận thức của con người thuộc về mọi giác quan (thị giác,

thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác), khắc họa hình tượng khơng thua kém gì các loại
hình nghệ thuật khác, hơn thế nữa, cịn khắc họa được mọi khía cạnh sâu kín,


9
tế nhị, phức tạp trong tình cảm, tâm lí con người. Đó chính là những ưu thế làm cho
nghệ thuật văn chương sớm ra đời và tồn tại trường cửu cùng với con người và xã hội
loài người, cho dù con người đã, đang và sẽ sáng tạo thêm nhiều loại hình nghệ thuật
khác.
Trong cuốn Cơ sở lí luận văn học (tập 2) (1985), Lê Bá Hán đã trình bày năm
đặc điểm của ngơn ngữ văn học dưới góc nhìn của lí luận văn học như sau:
Thứ nhất, ngơn ngữ văn chương có tính chính xác, trong sáng, biểu hiện đúng
những gì muốn nói, cần nói. Thường thì một khái niệm có thể được diễn tả bằng nhiều từ,
nhưng tùy theo tư tưởng, tình cảm của từng tác giả mà mỗi người sẽ chọn ra một từ thể
hiện đúng nhất, chính xác nhất điều mà bản thân muốn nói, muốn truyền đạt. Giống như
Vích-to Huy-gơ từng nói: “Trong tiếng Pháp, khơng có từ nào hay, từ nào dở, từ nào đặt
đúng chỗ là từ đó hay”. Trong ngơn ngữ văn chương cũng vậy, sự giác ngộ sâu sắc về
ngôn ngữ của các nhà văn giúp sự việc, hiện tượng được tái tạo sinh động, miêu tả đúng
cảnh vật, khắc họa đúng hình dáng, làm cho tác phẩm của họ có giá trị bền lâu.
Thứ hai, tính hàm súc, văn học đòi hỏi sử dụng một khối lượng những chất liệu và
phương tiện nghệ thuật tối thiểu nhằm đạt đến một hiệu quả nghệ thuật tối đa. Hàm súc
ở đây chính là cách dùng từ sao cho thật “đắt”, có giá trị biểu cảm cao nhất, miêu tả
mọi sự vật, hiện tượng một cách cơ đọng, ít lời nhiều ý, “lời chật, ý rộng”, vậy nên đôi
khi những chỗ ngừng, chỗ ngắt câu, dấu ba chấm lại là chỗ được nói đến nhiều nhất
khi phân tích một tác phẩm văn học. Nguyễn Du đã lật tẩy bản chất đê tiện, vô văn hóa
của Mã Giám Sinh ngay trong những câu đầu tiên miêu tả về y chỉ bằng một chữ “tót”.
Đây là đặc điểm nhưng đồng thời cũng là yêu cầu của ngôn ngữ văn chương.
Thứ ba, ngôn ngữ văn chương phải có tính tạo hình và biểu cảm, tức là phải có
khả năng tái tạo hiện thực như nó vốn có và mang tính truyền cảm. Nhà văn phản ánh
hiện thực và thế giới nội tâm bằng tư duy hình tượng và luận lí nên mượn ngơn ngữ để

xây dựng hình tượng nghệ thuật trong các tác phẩm văn học. Ngôn ngữ văn học không
trừu tượng như ngôn ngữ triết học, chính trị, cũng khơng phải ngơn ngữ kí hiệu hóa
như một số mơn khoa học; ngơn ngữ văn học trực tiếp xây dựng hình tượng trong tác
phẩm dựa trên ấn tượng của nhà văn về con người, sự vật trong cuộc sống, nó gắn liền
với quan điểm, tư tưởng và khát vọng của nhà văn, cho nên nó mang tính chất cảm
tính. Tác giả tạo ra hình tượng bằng sức gợi ngôn từ, cho nên, mỗi nhà văn phải làm
sao để vừa tái hiện thật nhất, sinh động nhất những cái vốn có, mà thơng qua đó phải
vừa phản ánh được ý đồ, tâm tư, tình cảm mà mỗi hình tượng muốn thể hiện.
Thứ tư, một đặc điểm rất đáng chú ý đó là tính nhiều nghĩa, tức là tính nhiều nghĩa
thơng thường được nhân lên nhiều lần trong ngôn ngữ văn học. Bản thân ngôn ngữ thông
thường đã mang nhiều tầng nghĩa khác nhau, tùy vào hoàn cảnh mà người nói sẽ chuyển
nghĩa, tạo nghĩa sao cho phù hợp, nhưng trong văn học, sự đa nghĩa không chỉ dừng lại
ở nghĩa đen, nghĩa gốc, nghĩa ban đầu mà cịn có nghĩa mới, nghĩa phát sinh, đơi khi tạo
nên hiện tượng “nhịe nghĩa” trong văn thơ. Chính đặc tính này đã làm cho mỗi từ, mỗi


10
ngữ trong tác phẩm văn học ẩn chứa một nét nghĩa, nét đẹp tiềm tàng, kích thích, khiêu
gợi, tạo điều kiện cho người đọc, người nghe đồng sáng tạo.
Cuối cùng, thuộc tính bản chất nhất của ngơn ngữ văn học – tính thẩm mĩ. Cái
đẹp của văn học đến từ cả hai phương diện: hình thức và nội dung. Hình thức của văn
học chính là ngơn ngữ, hình ảnh được tác giả sử dụng, nhà văn dùng ngòi bút để tạo
nên đứa con tinh thần của mình, chắt lọc và khéo léo sử dụng ngôn từ để mở ra cánh
của mn vàn cảm xúc. Đó chính là cái đẹp mà ngôn ngữ văn chương mang lại, một
tác phẩm không chỉ đơn thuần là kể lại một chuỗi sự việc trọn vẹn mà còn tác động sâu
sắc đến tâm tư độc giả, làm lắng đọng những giá trị tinh thần khó phai. Tuy nhiên, Lê
Bá Hán khơng xếp tính thẩm mĩ vào hệ thống các đặc điểm đã nêu mà quan niệm rằng
nó là thuộc tính của mọi thuộc tính, hịa thấm vào các thuộc tính khác, [10; tr178-197].
1.12. Ngơn ngữ văn chương theo quan niệm của phong cách học
Theo quan niệm của phong cách học, ngôn ngữ văn chương được xếp vào phong

cách ngôn ngữ nghệ thuật. Ngôn ngữ nghệ thuật ra đời từ rất sớm và vì được cải tạo từ
hệ thống tín hiệu thứ nhất (khẩu ngữ) nên có thể xem là một loại hình phái sinh của
khẩu ngữ [41; tr.93]. Tuy nhiên, khẩu ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật có sự đối lập nhau
về mặt chức năng, nếu khẩu ngữ dùng để giao tiếp trong cuộc sống thơng thường thì
ngơn ngữ nghệ thuật lại có chức năng thông báo – thẩm mĩ. Một mặt, tác phẩm nghệ
thuật thơng báo một nội dung nào đó, nhưng mặt khác lại địi hỏi nó đáp ứng nhu cầu
cái đẹp của con người.
Chức năng thẩm mĩ của ngôn ngữ trong các văn bản nghệ thuật được thể hiện ở chỗ
tín hiệu ngôn ngữ (đặc trưng nghĩa và đặc trưng âm thanh) trở thành yếu tố tạo thành của
hình tượng. Theo quan điểm của Đinh Trọng Lạc trong cuốn Phong cách học tiếng Việt
(1999), muốn thực hiện chức năng thẩm mĩ, ngôn ngữ nghệ thuật phải có được những đặc
trưng chung như tính cấu trúc, tính hình tượng, tính cá thể hóa, tính cụ thể hóa.
Đầu tiên là về tính cấu trúc. Mỗi văn bản nghệ thuật tự thân nó là một cấu trúc,
trong đó các thành tố nội dung tư tưởng, tình cảm, hình tượng và các thành tố hình thức
ngơn ngữ diễn đạt chúng không những phụ thuộc lẫn nhau mà cịn phụ thuộc vào hệ thống
nói chung. Sự lựa chọn, cấu tạo và tổ hợp những thành tố này bị quy định bởi chức năng
thẩm mĩ của ngôn ngữ nghệ thuật, cụ thể hợn là bởi ý định thẩm mĩ của tác phẩm.
Tính cấu trúc của ngơn ngữ nghệ thuật là tính chất mà theo đó “các yếu tố ngơn ngữ
trong cùng một tác phẩm phải gắn bó qua lại với nhau để cùng thực hiện nhiệm vụ chung,
phải phù hợp với nhau, giải thích cho nhau và hỗ trợ cho nhau để đạt tới một hiệu quả diễn
đạt chung” [7; tr.18]. Tất cả các yếu tố và các mối quan hệ như thế làm cho văn bản trở
thành “một bản hịa tấu, có một tổng hợp lực mạnh mẽ, tác động đến người tiếp nhận văn
bản” [36]. Chỉ cần bỏ đi một từ, thay bằng từ khác là có thể làm hỏng một câu thơ, câu
văn, phá hỏng nhịp điệu của nó, xóa sạch mối quan hệ của nó với hồn cảnh xung quanh.
Từ nghệ thuật khơng sống đơn độc, tự nó, vì nó đứng trong đội ngũ, góp phần mình vào
các từ “đồng đội” khác. Có thể nói, tính cấu trúc là điều kiện


11
của cái đẹp. Một yếu tố ngơn ngữ chỉ có được ý nghĩa thẩm mỹ khi nằm trong tác

phẩm. Chính là trên cái nền văn bản phù hợp mà từ ngữ có thể thay đổi ý nghĩa: cũ kĩ
hay mới mẻ, dịu dàng hay thâm độc, trang trọng hay hài hước,…
Thứ hai là tính hình tượng. Trong nghiên cứu văn học, từ hình tượng được xem
xét theo ba nghĩa: hình tượng như là một chi tiết có màu sắc, hình ảnh, một ẩn dụ hoặc
một hình thức chuyển nghĩa khác gắn với nghĩa bóng; hình tượng như là nhân vật văn
học và hình tượng như là một kiểu đặc biệt của nhận thức và phản ánh thế giới khách
quan. Cách giải thuyết thứ ba là giải thuyết chung nhất về hình tượng, cịn hai cách
giải thuyết đầu có thể được coi là những phương tiện nhận thức và phản ánh một cách
hình tượng về thực tế khách quan.
Trong ngơn ngữ học, đặc biệt là phong cách học, tính hình tượng có thể xác định
là thuộc tính của lời nói nghệ thuật, khơng chỉ truyền đạt thơng tin lơgic mà cịn truyền
đạt thơng tin tri giác một cách cảm tính (cảm giác, tri giác, biểu tượng) nhờ hệ thống
những hình tượng ngôn từ. Một từ trong tác phẩm nghệ thuật không thể được coi
ngang bằng như từ của ngôn ngữ thực hành, vì trong văn bản nghệ thuật, từ nghệ thuật
có hai bình diện theo khuynh hướng nghĩa của mình, có mối tương quan đồng thời cả
với những từ của ngôn ngữ văn hóa chung, cả với những yếu tố của cấu trúc ngôn từ
trong văn bản nghệ thuật. Xét trong phạm vi những đơn vị lớn hơn từ thì khái niệm
hình tượng có thể được xác định như là một thể thống nhất của tạo hình và biểu đạt.
Hình tượng là một tín hiệu phức tạp trong đó xuất hiện với tư cách là bình diện nội
dung, có sự biểu đạt mới, không bị rút gọn lại ở cái biểu đạt trước đó.
Lời nói nghệ thuật khơng phải là phương tiện truyền đạt những hình tượng tồn tại
trong một trong một hình thức này hay một hình thức khác, mà là bản thân sự thể hiện của
những hình tượng này. Ngôn ngữ của tác phẩm nghệ thuật không phải là cái vỏ ngồi của
hình tượng mà là hình thức duy nhất mà trong đó, hình tượng có thể tồn tại được.
Thứ ba là tính cá thể hóa. Tính chất này được hiểu là dấu ân phong cách tác giả
trong ngôn ngữ nghệ thuật. Dấu ấn phong cách tác giả là cái thuộc về đặc điểm bản chất,
thuộc về điều kiện bắt buộc của ngơn ngữ nghệ thuật. Nó khơng được đặt ra với ngơn ngữ
phi nghệ thuật. Nó khơng có trong văn bản chính luận, văn bản khoa học hay các tác phẩm
dân gian truyền miệng. Dấu ấn phong cách tác giả chỉ có thể có trong tác phẩm nghệ thuật
với tư cách là một thể thống nhất của cấu trúc tu từ học hoàn chỉnh được liên kết lại bởi

hình tượng tác giả, bởi ý định thẩm mĩ, bởi chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Ngôn ngữ là chung, nhưng sự vận dụng ngôn ngữ là tùy thuộc cá nhân. Mỗi nhà
văn do xu hướng, sở trường, thị hiếu, tập qn, tâm lí xã hội, cá tính mà hình thành
“giọng nói riêng”, cái vẻ riêng của tác giả. Tính cá thể hóa thể hiện ở từng sự vật, từng
hồn cảnh, từng nhân vật của tác phẩm. Đối với một nhà văn, cái riêng đó là cái có giá
trị quyết định.
Thứ tư là tính cụ thể hóa. Ngơn ngữ nghệ thuật có đặc tính chung nhất, một thuộc
tính rộng nhất là sự cụ thể hóa nghệ thuật hình tượng. Ngơn ngữ phi nghệ thuật không


12
có nét này. Đó là sự di chuyển từ bình diện khái niệm sang bình diện hình tượng. Sự cụ
thể hóa này có tính chất tổng hợp, nó được diễn đạt trong hệ thống hồn chỉnh của các
phương tiện ngơn ngữ thuộc các cấp độ khác nhau vốn góp phần vào việc tạo lập và thể
hiện hệ thống các hình tượng, tác động và kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Bức
tranh miêu tả sẽ trở nên vô cùng phong phú, sinh động trước mắt người đọc, các biến cố
hiện lên trong từng giai đoạn, từng vận động, từng trạng thái, trong sự biến đổi liên tục.

Sự cụ thể hóa nghệ thuật được thực hiện nhờ cách lựa chọn và tổ chức các
phương tiện ngôn ngữ. Tham gia vào việc chuyển từ bình diện khái niệm sang bình
diện hình tượng của tác phẩm có thể là những đơn vị của tất cả các cấp độ ngôn ngữ.
Đặc biệt là những từ ngữ có nghĩa hẹp, có sức gợi hình ảnh đậm nét. Dùng các từ ngữ
này thay cho các từ ngữ có nghĩa khái quát là cách tiêu biểu nhất để tạo hình tượng cụ
thể tác động vào trí tưởng tượng của người đọc [24; tr.127-150].
1.2. Huỳnh Thị Bảo Hòa và tiểu thuyết Tây Phương Mỹ Nhơn
1.2.1. Tác gia Huỳnh Thị Bảo Hòa
Huỳnh Thị Bảo Hòa (1896-1982) tên thật là Huỳnh Thị Thái, người làng Đa
Phước, xã Hòa Mỹ (sau đổi thành Hòa Minh), huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, nay
thuộc phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.


Theo các vị cao niên làng Đa Phước, ngày đó trong làng có ơng Huỳnh Phúc Lợi (có
tài liệu ghi là Huỳnh Thúc Lợi) làm quan Triều Nguyễn đến chức Quang lộc Tự khanh
thuộc hàm Tam phẩm, nên thường được gọi là ông Quang Lợi. Về sau, ông tham gia Hội
Cần vương Quảng Nam. Mỗi lần về làng ông đều đi bằng xe kéo, cả làng đổ ra xem.
Ơng Quang Lợi và vợ (bà Bùi Thị Trang) có hai người con nổi tiếng. Một người
là Huỳnh Phúc Quý, thường gọi là Nghè Q hay Giáo Q, vì ơng này đỗ tiến sĩ và
làm giáo viên trường làng. Người kia chính là Huỳnh Thị Thái, về sau làm báo, viết
văn với bút danh Huỳnh Thị Bảo Hòa. Từ nhỏ, bà đã được cha dạy cho chữ Hán, sau
này học thêm chữ Quốc ngữ và chữ Pháp.



×