Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Tuyển tập dàn ý chung và 12 bài văn mẫu về tác phẩm vợ nhặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.63 KB, 77 trang )

1
MỤC LỤC
Dàn ý chung về bài văn vợ nhặt.................................................................................2
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 1)........................................................................................6
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 2)........................................................................................8
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 3)......................................................................................14
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 4)......................................................................................18
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 5)......................................................................................24
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 6)......................................................................................29
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 7)......................................................................................41
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 8)......................................................................................44
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 9)......................................................................................51
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 10)....................................................................................55
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 11)....................................................................................64
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 12)....................................................................................72

1


2
Dàn ý chung về bài văn vợ nhặt
I. Mở bài:
Giới thiệu về tác giả Nam Cao và tác phẩm nghị luận văn học “Vợ nhặt”.
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về
cảnh nơng thơn, hình tượng người nơng dân lao động.
- Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người
nơng dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng
ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.
II. Thân bài:
1. Ý nghĩa nhan đề:
“Vợ nhặt” tức nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và


phản ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.
2. Tình huống truyện:
- Tình huống: Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà
lại là nhặt được, theo về khơng.
- Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hồn cảnh của
Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo khơng về, tự ngờ ngờ
mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
- Tình huống éo le: hồn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) khơng
cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể
trở thành chỗ dựa cho nhau.
3. Nhân vật Tràng:
Hồn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi
tàn, cuộc sống bấp bênh, …, bản thân: xấu xí, thơ kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai
bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, …
a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ:
- Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ
khơng có tình ý gì với cơ gái đẩy xe cùng mình.
- Lần gặp 2:

2


3
+ Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cơ ta ăn dù khơng
dư dả gì. Đó là hành động của người nơng dân hiền lành tốt bụng.
+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo
bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của
kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc,
thương yêu người cùng cảnh ngộ.
+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của

Tràng trước quyết định lấy vợ.
b. Trên đường về:
- Vẻ mặt “có cái gì hớn hở khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm
thấy vênh vênh tự đắc”, … Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
- Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c. Khi về đến nhà:
- Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn
tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
- Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ
đi vì gia cảnh q khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
- Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn
phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
- Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ
là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng
thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:
- Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngơi nhà (sân vườn, ang nước, quần
áo, …), Tràng nhận ra vai trị và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy
mình trưởng thành hơn.
- Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ
bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
- Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp.
Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
4. Nhân vật người vợ nhặt:
3


4
a. Lai lịch
- Khơng có q hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết

bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng khơng có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của
con người trong cảnh đói.
b. Chân dung
- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khn mặt lưỡi cày xám xịt
chỉ cịn hai con mắt.
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây
chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
- Lần thứ hai:
+ Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn,
khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh
đúc”.
+ Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ … cùng về”, thị đã theo về
thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
- Nhận xét: Cái đói khổ khơng chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách
con người. Người đọc vẫn cảm thơng sâu sắc với thị vì đó khơng phải là bản chất
mà do cái đói xơ đẩy.
c. Phẩm chất
- Có khát vọng sống mãnh liệt:
+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo
khơng về khơng cần sính lễ vì thị sẽ khơng phải sống cảnh lang thang đầu đường
xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố
cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội
sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:
+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị
ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
4



5
+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi
mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác
lập được vị trí trong gia đình.
+ Khi gặp mẹ chồng, ngồi câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã
rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
+ Sáng hôm sau, Thị dậy sớm qt tước nhà cửa, khơng cịn cái vẻ “chao
chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào
miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.
- Nhận xét: Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ
khơng vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người. Thị cịn là người có niềm tin vào
tương lai.
5. Nhân vật bà cụ Tứ:
- Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho
húng hắng, lẩm nhẩm tính tốn theo thói quen người già.
- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên
trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.
- Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhòa đi”: thương cho con trai
phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà
khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”, nói về
tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, …
- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.
III. Kết bài:
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm nghị luận – “Vợ
nhặt”.
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống
éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngơn

ngữ bình dị, gần gũi.

5


6
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh
người nơng dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức
sống mãnh liệt của họ.
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 1)
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc
và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào
lịng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình.
Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện
thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp
tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống
bần cùng giai đoạn đó.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi
vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nhan nhản,
”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng
không gặp ba bốn cái thây nằm cịng queo bên đường. Khơng khí vấn lên mùi ẩm
thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả
được cái đói đang hồnh hành, đời sống nhân dân thê thảm. Ngay từ nhan đề của
tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn
khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên
cuộc đời của từng nhân vật.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng
“hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…”
Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một
anh nơng dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hồnh hành, đám trẻ con

khơng buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã khơng cịn sức lực. Khung cảnh buồn thiu,
đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của
Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một
bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
6


7
Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh
người nơng dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực. Tác giả đã thật khéo
để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một
con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy
được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con
người trong xã hội bấy giờ.
Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn
đầy ám ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng
nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo
khổ, khơng cịn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ơng nghèo khổ, cùng cực đúng
là một đôi trời sinh. Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên
khung cảnh đìu hiu, ảm đạm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào,
ngăn ngắt.
Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, khơng nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc
đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma.
Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngồi bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.
Khơng cịn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như
vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cái nghèo đè nén đến chìm nghỉm. Bằng ngòi
bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lịng người đọc nhiều chua xót, đắng
cay cho những phận nghèo long đong.
Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về
người đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu

ra, có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt khơng
cịn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về
làm vợ. Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã
đẩy hai con người đến với nhau, khơng phải tình u nhưng là tình thương. Hẳn
người đọc sẽ cảm thơng và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.
7


8
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn
biến và sự chuyển đổi trong tâm tính thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn
tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước
theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…”
Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng
hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lịng người mẹ nghèo khổ ấy còn
hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai ốn, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi
người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, cịn mình…”
Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ
tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc
nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều khơng qn là
hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo
cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “khơng cịn gì
giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hơm nay thay đổi tâm trạng, tồn nói những chuyện vui
trong nhà, vì bà muốn mang lại khơng khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh
“nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai
cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu
nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà
có thể mang lại cho con.
Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim

Lân khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện
của cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi
sáng hơn. Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân
vật sắc sảo, độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người
đọc khung cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó
tác giả cũng nhấn mạnh tình u thương giữa người với người luôn bất diệt.

8


9
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 2)
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông
dân. Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng
ngời những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt là
một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.
Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện
“Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” –
được viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được viết
dở dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hịa bình lập lại, nhân một số
báo văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã nhớ lại tiểu
thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện ngắn. Ngay từ
khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.
Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói
khủng khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp
diễn ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu
tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông. Trước hết là
màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt của đàn quạ
bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và héo úa. Bao
quanh khơng gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, mùi

đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hịa lẫn với tiếng khóc
hờ từ những gia đình có người chết.
Để làm rõ nét hơn, Kim Lân cịn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng
có ba bốn thây người nằm chết cong queo bên đường. Tình cảnh vơ cùng thảm
thương, bất hạnh. Kim Lân nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét,
không né tránh, phơi bày tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái
khủng khiếp của nạn đói năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ
trong bóng tối của cái đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn
con người.
9


10
Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên
truyện xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu
Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ
cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ khơng được sống trong trung
tâm của làng như những người khác. Không chỉ vậy, họ cịn khơng được chia ruộng
đất, khơng được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã.
Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề xã hội. Khơng dừng lại ở đó, gia đình Tràng còn rất
nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì khơng được chia ruộng
nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.
Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là
người ngụ cự, anh Tràng cịn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà
đắm vào bóng chiều, cịn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn
hơn. Thân hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm
nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu
Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, cịn với các cơ gái anh hồn tồn
khơng có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng khơng có
khả năng để lấy được vợ.

Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy
được vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân ta
thường có những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh cu
Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với
giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về
làm vợ thật.
Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng
con mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng
trong nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thơ kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và
cười hềnh hệch, hơm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về
Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh
10


11
phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng
ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc khi lấy được
vợ.
Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa
nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã
trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt
nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần
ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lí, nhạy
bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến
sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của anh cu Tràng.
Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ơng trong gia đình.
Sáng hơm sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như
người đi ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ.
Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay
đổi mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ, khơng khí

gia đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa.
Trành thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người xung quanh,
đồng thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho gia đình, vợ
con. Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm xăm chạy ra sân,
muốn chung tay tu sửa căn nhà.
Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình.
Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan
tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Ngun Bắc Giang khơng đóng thuế
mà cịn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ
bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu
cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách
mạng.
11


12
Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực
của nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó cịn là sự cảm thương cho
số phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong
tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương
lai. Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ
nhặt. Người vợ nhặt khơng có lai lịch rõ ràng, khơng rõ tên tuổi, quê quán, nghề
nghiệp và cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng,
trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa.
Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rách rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp
đi vì đói, mặt lưỡi cày xám ngt…. Ngoại hình thị vơ cùng thảm hại, do cái đói đã
gây ra cho con người. Ngơn ngữ của thị cũng hết sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu!
Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”;
rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”,
“cong cớn”, “cắm đầu ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người

hết sức vô duyên, dường như cái đói, cái chết có thể mài mòn nhân cách con người
ta ghê gớm đến như vậy.
Nhưng đằng sau sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát
vọng sống vơ cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành động,
cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh liệt. Bên
cạnh đó, thị cịn hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón rén, e thẹn:
“Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi nghiêng nghiêng
che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh nhà chồng thị nén
tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi gặp mẹ chồng. Sáng
hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Nhân vật thể hiện tư
tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thống trong tác phẩm, nhưng
cũng có vai trò, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ
cư tha phương cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm
12


13
nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con nhưng mãi khơng dành dụm được tiền, trong lúc
nghèo đói đến cùng cực người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa vợ về,
bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đôi trẻ. Bà dặn dị hai
vợ chồng mới, nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin, sự lạc quan
cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học
hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân,
đồng thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng
niu những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho thấy
nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.

13



14
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 3)
Kim Lân được mệnh danh là nhà văn của người nông dân, của làng quê Việt
Nam bởi trong các tác phẩm của ông luôn hướng tới hình ảnh người nơng dân. Với
văn phong giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc thấm đẫm tinh thần nhân văn, tác giả
Kim Lân đã gửi tới người đọc một tác phẩm kinh điển thể hiện tình cảm đậm đà
của ông dành cho những số phận người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ.
Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm đặc sắc đại diện cho văn
phong, cũng như nhân sinh quan của tác giả Kim Lân. Vợ nhặt ra đời khi nước ta
đang trong giai đoạn một cổ hai trịng vừa bị thực dân Pháp đơ hộ, vừa bị phát xít
Nhật cai trị, kèm theo chế độ phong kiến trong thời kỳ suy tàn, thối nát làm cho
người dân vô cùng khốn khổ. Câu chuyện xoay quanh bối cảnh nạn đói kinh điển
năm 1945 làm chết hai triệu đồng bào ta. Tại một xóm ngụ cư nghèo nơi tập trung
những gia đình đi di tản từ khắp nơi kéo tới đây, tạo thành một khu ngụ cư mới.
Ngay cái nhan đề của tác phẩm “Vợ nhặt” đã gợi lên cho người đọc nhiều suy nghĩ
về nội dung câu chuyện, thể hiện một việc trọng đại của đời người chính là việc
dựng vợ gả chồng nhưng lại được làm rất qua loa, như việc nhặt một món đồ, một
viên gạch ngoài đường mang về nhà.
Mở đầu tác phẩm tác giả Kim Lân đã phác họa lên hình ảnh nhân vật anh cu
Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh
ra…” Chỉ bằng vài chi tiết nho nhỏ tác giả Kim Lân đã khiến cho người đọc hình
dung ra được hình ảnh nhân vật. Nhân vật Tràng là người có ngoại hình thơ kệch,
xấu xí, gia cảnh thì mẹ góa con cơi, bần hàn. Hắn chẳng có điểm nào thu hút phụ
nữ. Công việc của Tràng làm nghề kéo xe bị th chở hàng cho người ta, một cơng
việc lao động tay chân, bán mồ hôi sức lao động để kiếm vào đồng xu lẻ. “Hắn
bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như
những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.


14


15
Sự đói nghèo bần hàn, vây quanh lấy hắn, nhưng trong đầu hắn luôn hiện lên
những suy nghĩ lạ lùng thỉnh thoảng lại thấy hắn ngửa mặt cười cười một cái gì đó.
Tràng thật sự là một con người kỳ quái. Giữa khung cảnh nghèo đói, cùng cực ấy.
Một con người xấu xí, thơ kệch nghèo khổ như Tràng những tưởng vĩnh viễn phải
sống kiếp cơ độc vì chả có gì thu hút người khác thì làm sao mà lấy được vợ.
Nhưng không ngờ Tràng vẫn lấy được vợ, mà con lấy được một cách dễ dàng
“nhặt” được vợ như nhặt một cục đá mà thơi.
Chỉ bằng những câu nói bông đùa vu vơ, mà Tràng nhặt được vợ “Muốn ăn
cơm trắng với giị, thì ra đây đẩy xe bị với anh nào” Chỉ có như thế thơi nhưng một
cơ gái ngoan ngoãn ra đẩy xe với hắn. Rồi theo hắn về nhà làm vợ. Tác giả Kim
Lân đã xây dựng tình huống truyện vơ cùng thú vị, độc đáo làm thay đổi số phận
của nhân vật Tràng. Làm cho câu chuyển sang một hướng rẽ mới thú vị và thu hút
người đọc. Hành động nhặt được vợ của Tràng khiến người ta phải suy nghĩ, bởi
việc lấy vợ lấy chồng là việc vô cùng quan trọng trong đời người, bình thường
người ta phải làm thật cẩn thận suy tính trước sau. Cơ gái làm vợ Tràng cũng thật
thiệt thịi biết bao, làm vợ người ta mà khơng có một lễ cưới, không được làm dăm
ba mâm ra mắt họ hàng, khơng có giấy đăng ký kết hơn, khơng có chứng nhận của
hai bên họ hàng.
Sự nghèo khó đã đẩy những con người khốn khổ xích lại gần nhau hơn. Họ
tìm đến với nhau để nương tựa vào nhau trong lúc khó khăn, cho bớt cơ cực. Họ
cũng hy vọng khi có nhau rồi cuộc sống của họ sẽ thay đổi ít nhiều có thêm niềm
vui vào tương lai. Hình ảnh vợ Tràng hiện lên làm người đọc không khỏi xúc động
“thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che
khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”.
Khi đưa thị về nhà khung cảnh xóm ngụ cư hiện lên đìu hiu, buồn bã, ảm
đạm như những con người sống trong xóm nghèo đó “từng trận gió từ cánh đồng

thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn,
lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như
15


16
những bóng ma…” Những người hàng xóm tị mị hỏi Tràng về người phụ nữ đi
bên cạnh Tràng. Họ tò mị vì một người nghèo khổ xấu xí như Tràng mà cũng có
gái theo. Nhưng có người cũng thực tế hơn họ cho rằng trong thời kỳ đói khổ
miếng ăn khơng có như hiện nay mà cịn cưới vợ vác thêm một miệng ăn về nhà thì
khác nào vác một cục nợ.
Cứ như thế Tràng và thị đi trong những tiếng xì xào, bàn tán nhưng họ cứ
mặc kệ cứ bước đi bên nhau và hy vọng vào ngày mai tươi sáng hơn. Cuộc gặp gỡ
giữa mẹ chồng nàng dâu cũng khiến nhiều người phải ám ảnh bà cụ Tứ mẹ Tràng
“bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một
người đàn bà ở trong…”
Lúc đầu bà cụ lo lắng lắm nhưng rồi bà cụ Tứ cũng nhận ra vấn đề “bà lão
cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lịng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao
nhiêu cơ sự, vừa ai ốn, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ơi người ta dựng vợ
gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, cịn mình…” Những suy nghĩ đau
đớn chua xót của một người mẹ thương con, được tác giả Kim Lân tái hiện qua
những trang viết vô cùng xúc động làm lay động trái tim người đọc.
Bà cụ Tứ vui mừng chấp nhận người vợ của con trai mình. Hình ảnh bữa
cơm đầu tiên sau đêm tân hôn hiện ra khiến nhiều người không khỏi nghẹn ngào
đắng ngắt trong cổ họng. Đó chính là “nồi cháo cám” với đĩa muối trắng, hoa chuối
thái vội. Một hình ảnh đại diện cho cái nghèo, hiện lên chân thực, mộc mạc. Tuy
nhiên, trong bữa cơm ấy ba con người trong câu chuyện lại ăn uống rất ngon. Họ
cịn nói chuyện với nhau về tin đồn Việt Minh phá kho thóc Nhật chia cho dân
nghèo. Trong bữa cơm ấy, ba con người khốn khổ cùng mơ ước có một ngày được
thấy ngọn cờ đỏ sao vàng, được sống một kiếp sống khác. Họ cùng nhau tin tưởng

vào tương lai.
Nhân đạo trong tác phẩm Kim Lân cũng thật đặc biệt. Ông đẩy mỗi nhân vật
đến tận cùng của khổ sở, để rồi sau đó mở ra con đường, tương lai cho họ. Hình
16


17
ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện cuối tác phẩm, đã mở ra một tương lai tươi sáng,
giải thoát cuộc đời của những con người dưới đáy xã hội. Giá trị nhân đạo của tác
phẩm được thể hiện rõ nét nhất ở chia tiết này.
Những dòng văn cuối cùng đã kết đọng tinh thần nhân đạo sâu sắc của nhà
văn Kim Lân. Ông trân trọng, yêu thương từng cá nhân, từng số phận. Đồng thời ta
cũng thấy được nghệ thuật miêu tả, và tạo dựng tình huống bậc thầy của nhà văn
này.

17


18
Nghị luận Vợ nhặt (mẫu 4)
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân –
một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một
lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay
ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hồ bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp
tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ Nhặt” ra
đời.
Lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới,
một điểm sáng soi chiếu tồn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng
vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ Nhặt và
bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc

sắc nhất là Kim Lân đã có cơng khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói “Khi viết về nạn đói người ta
thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta
hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện
ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới cuộc
sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lại. Họ vẫn muốn sống, “sống cho ra
con người”. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống về tương lai của
những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình
huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật
thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nơng dân, ngơn ngữ dung dị, đời
thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt chúng ta
một khơng gian đói thật thảm hại, thê lương.
Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ,
lặng lẽ giữa tiếng khóc hờ và tiếng gào thét gửi gắm trong không gian tối đen như
mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành,
yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như
18


19
anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới
cùng đám người đói phá kho thóc của Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt
vợ” của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét
đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với
nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người
này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha
và người ra rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân
lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và
bà cụ Tứ.

Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người
lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “khơng khí vẩn lên mùi hơi của rác rưởi
và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy
nhưng lạ thay chúng ta thật khơng thể cầm lịng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp
mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ Tràng nữa. Một
thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người – thân xác vạm vỡ,
lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thơ kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao
nghĩa tình cao đẹp.
“Cái đói đã tràn vào xóm tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bịng thêm một
cơ vợ trong khi anh khơng biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều
lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một
gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vơ cùng. Và dường như lúc ấy trong con
người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành.
Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình
cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vơ tình, khơng có
chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy không hề mở cho ta thấy
tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người
đồng cảnh ngộ.
19


20
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”,
“ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và
nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn.
Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình. Từ
một anh chàng ngờ nghệch, thơ lỗ, cọc cằn, Tràng đã sớm thay đổi trở thành một
người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy dường như
một cái gì đó “ơm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt
nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “trong một lúc Tràng dường như

quên hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày qua”. Và
Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp logic. Những
thay đổi ấy khơng có gì khác ngồi tâm hồn đơn hậu, chất phác và giàu tình yêu
thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật
khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con
có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng
nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh
phúc. “Hắn thấy yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “hắn thấy mình có trách
nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành
động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự chuyển
biến lớn. Chính tình u của người vợ, tình mẹ con hồ thuận ấy đã nhen nhóm
trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi khi hắn nghĩ
đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời hắn, của vợ
hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy khơng thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tố ấy rồi
sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng cuộc sống tự do đang ở phía trước sức mạnh của thời
đại. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân
vật của mình. Người vợ nhặt làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo, tăm
tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên.
20



×