Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về xây dựng đảng vững mạnh, trong sạch và phương hướng vận dụng vào công tác xây dựng đảng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.38 KB, 46 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng vững mạnh, trong sạch
và phương hướng vận dụng vào công tác xây dựng Đảng hiện nay


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Lý do mà em muốn chọn đề tài này là vì em muốn tìm hiểu về tư
tưởng của Bác về xây dựng Đảng, qua đó hiểu biết thêm về Đảng cộng sản,
và khi đã hiểu về Đảng, chúng ta có thể xây dựng một Đảng tốt đẹp hơn trong
bối cảnh hiện đại.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
 Mục đích của đề tài là tìm hiểu tư tưởng của Bác, để thấy rằng tư
tưởng ấy giúp cho dân Việt Nam ngày càng tốt hơn trong thực tại và đề cao ý
chí khát vọng đấu tranh cho nền tự chủ nước nhà.
 Nhiệm vụ nghiên cứu là đưa ra các dữ liệu, những luận điểm, luận cứ
để chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam, và đề cao tính áp dụng
cho Việt Nam hiện đại.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
 Đối tượng nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng
 Phạm vi nghiên cứu là thời điểm hiện tại.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là cơ sở phương
pháp luận khoa học để nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh.
 Cùng với chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta cần vận dụng chủ
nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong nghiên cứu khoa học, theo V.I. Lênin, chúng ta không được quên mối
liên hệ lịch sử căn bản, nghĩa là phải xem xét một hiện tượng nhất định đã


xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn
phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem
xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào? Nắm vững quan điểm này giúp


chúng ta hiểu được tư tưởng Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn của quá trình
phát triển lịch sử, quá trình phát triển sáng tạo, đổi mới.
 Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu
sắc về cách mạng Việt Nam, có quan hệ thống nhất biện chứng nội tại của nó.
Một yêu cầu về phương pháp luận khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trên
bình diện tổng thể hay từng bộ phận là phải luôn luôn quán triệt mối liên hệ
qua lại của các yếu tố, các bộ phận khác nhau trong sự gắn kết tất yếu của hệ
thống tư tưởng đó quanh hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự do. V.I. Lênin
cũng đã viết: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật
đó"
 Hồ Chí Minh là một nhà lý luận - thực tiễn. Người xây dựng lý luận,
vạch cương lĩnh, đường lối, chủ trương cách mạng và trực tiếp tổ chức, lãnh
đạo thực hiện. Và từ thực tiễn Người tổng kết, bổ sung để hoàn chỉnh và phát
triển, cho nên tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh ln ln sáng tạo, khơng lạc
hậu, giáo điều. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ căn cứ vào các
tác phẩm, bài viết mà cần coi trọng hoạt động thực tiễn của Người, thực tiễn
cách mạng dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Đảng do Người đứng đầu. Hơn
nữa, Hồ Chí Minh có một phong cách nói và viết rất ngắn gọn khơng theo lối
viết kiểu hàn lâm. Vì vậy, chỉ căn cứ vào bài viết, bài nói, tác phẩm của
Người là chưa đầy đủ. Hành động thực tiễn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng
trong chiến đấu và dựng xây của nhân dân Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng chính là lời giải thích rõ ràng giá trị khoa học của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Sự sáng tạo cách mạng của
Hồ Chí Minh trước hết là sự sáng tạo về tư duy lý luận, về chiến lược, về

đường lối cách mạng. Điều đó giữ vai trò quyết định hàng đầu dẫn đến thắng
lợi cách mạng. Tư tưởng lý luận cách mạng Hồ Chí Minh đã góp phần phát
triển phong phú thêm lý luận cách mạng của thời đại, trước hết là về cách
mạng thuộc địa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã tỏa sáng vượt ra ngoài biên giới


Việt Nam, đến với những người nô lệ ở các nước phương Đông và người lao
động làm thuê ở phương Tây.
5. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
 Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam
trên con đường xây dựng đất nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, phải nghiêm túc học tập tư tưởng Hồ
Chí Minh để nâng cao tư duy lý luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo
đức cách mạng, năng lực công tác, thực hiện tốt các nhiệm vụ cách mạng trọng
đại của Đảng, của Nhà nước ta trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
 Đối với thế hệ trẻ nói chung, với học sinh, sinh viên trong các trường
cao đẳng và đại học nói riêng, cần đặc biệt coi trọng giáo dục chính trị, tư
tưởng, đạo đức cách mạng, đặc biệt là giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm
nâng cao lý luận, phương pháp tư duy biện chứng, góp phần đào tạo sinh viên
thành những chiến sĩ đi tiên phong trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất
nước Việt Nam đàng hoàng hơn và to đẹp hơn như Di chúc của Người để lại:
"ĐỒN VIÊN VÀ THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái
xung phong, khơng ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo
giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế
xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
 Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng
và rất cần thiết"
6. KẾT CẤU CỦA TIỂU LUẬN
 Mở đầu: Nêu lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu
 Nội dung chính: Bao gồm 2 phần chính là lý thuyết và vận dụng.

Trong các phần lại chia thành nhiều tiểu mục nhỏ.
 Kết luận: Tóm lược nội dung chính


CHƯƠNG 1
NHIỆM VỤ VÀ NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
1. Nội dung của công tác xây dựng Đảng
 Theo chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng để có thể thành cơng trong
cơng tác xây dựng Đảng thì chúng ta phải dựa vào những lý luận về cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, lấy Đảng làm cốt, cụ thể:
o Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận, bao gồm các nội dung sau:
- Việc học tập nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin phải
luôn phù hợp với từng đối tượng
- Việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin phải luôn luôn phù hợp với
từng hồn cảnh.
- Trong q trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa
những kinh nghiệm tốt của các Đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải
tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ sung vào chủ nghĩa Mác — Lênin
- Đảng ta phải tăng cường đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ
nghĩa Mác — Lênin. Chú ý chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác –
Lênin; chống lại những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác
— Lênin.
o Xây dựng Đảng về chính trị:
- Cần phải thường xun giáo dục đường lối, chính sách của Đảng,
thơng tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên định giữ vững
lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị dù ở bất cứ hồn cảnh nào. Đồng thời
cũng cảnh báo về những nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị sẽ gây ra hậu
quả nghiêm trọng đối với vận mệnh của Tổ quốc, sính mệnh chính trị của
hàng triệu đảng viên cũng như của hàng triệu nhân dân lao động.
o Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ

- Tập trung dân chủ


- Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách Hồ Chí Minh giải thích về tập
thể lãnh đạo như sau: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo?
- Tự phê bình và phê bình nhằm mục đích là để làm cho phần tốt trong
mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần
xấu bị mất dần đi, tức là nói đến sự vươn tới chân, thiện, mỹ.
- Kỷ cương , kỷ luật nghiêm minh, chấp hành tự giác
- Đoàn kết thống nhất trong công tác Đảng
- Công tác cán bộ là công tác nguồn gốc, cội nguồn của Đảng của nó
bao gồm các vấn đề liên quan đến bảo mật, mật khẩu liên hồn, có quan hệ
chặt chẽ với nhau: tuyển chọn cán bộ, đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ,
bên cạnh đó là cơng tác đánh giá đúng cán bộ, tuyển dụng, sắp xếp, bố trí cán
bộ và thực hiện các chính sách đối với cán bộ sao cho phù hợp nhất.
o Xây dựng Đảng về đạo đức:
- Giáo dục đạo đức cách mạng là một nội dung quan trọng, cần thiết
và không thể thiếu trong việc tu dưỡng rèn luyện của cán bộ, đảng viên. Nó
gắn chặt với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức
nhằm làm cho Đảng luôn luôn thật sự trong sạch.
2. Nhiệm vụ của công tác xây dựng Đảng
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta công tác xây dựng đảng được xác
định là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cần thiết. Là yếu tố then chốt quyết
định đến kết quả của công cuộc đổi mới này. Bao gồm hai nhiệm vụ cụ thể là:
2.1.

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng

- Thực hiện các hoạt động ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức cũng như lối sống của người dân về những biểu hiện

như “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
- Tập trung xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là các
cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ
2.2.

Xây dựng và tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị


- Việc thực hiện xây dựng và tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là hoạt
động mang đến những hiệu lực, hiệu quả to lớn góp phần đẩy mạnh vào cơng
cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng và lãng phí, đặc biệt là chuyện quan
liêu.
- Việc thực hiện được hai nhiệm vụ nêu trên của Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp đã tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo triển khai và tổ chức thực hiện toàn diện, đồng bộ hai nhiệm vụ
lớn của công tác xây dựng Đảng hiện nay từ đó chỉnh đốn đội ngũ cán bộ và
đảng viên đồng thời kịp thời chỉnh đốn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị,
bên cạnh đó chỉnh đốn cả cơng tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ với
quyết tâm chính trị cao để có thể đạt được kết quả quan trọng.
- Bài viết trên đây là những chia sẻ chi tiết về công tác xây dựng
Đảng, đồng thời khẳng định rằng trong công cuộc đổi mới ở nước ta công tác
xây dựng đảng được xác định là nhiệm vụ trọng điểm thiết yếu. Hy vọng với
những chia sẻ của chúng tôi trên đây sẽ giúp các bạn hiểu và góp sức để việc
thực hiện cơng tác được nhanh chóng và đạt được hiệu quả cao.


CHƯƠNG 2:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN
1. LÝ LUẬN CỦA HỒ CHÍ MINH
- Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh

luôn coi trọng lý luận và việc học tập lý luận của cán bộ, đảng viên và toàn
thể nhân dân. Người rất tâm đắc với câu nói nổi tiếng của V.I.Lênin: “Khơng
có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào cách mạng”. Người thường
xuyên đòi hỏi người lãnh đạo cách mạng, đội ngũ cán bộ và đảng viên phải
học tập lý luận, biết vận dụng lý luận trong thực tiễn, không được coi thường
lý luận và lý luận suông.
- Lý luận mà Hồ Chí Minh quan tâm, trước hết là lý luận trong cơng
tác của Đảng - đó là lý luận chính trị, lý luận cách mạng, lý luận về con
đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; lý luận
về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại; lý luận về sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết
dân tộc; lý luận về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự
của dân, do dân, vì dân; lý luận về quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân; lý luận về phát triển kinh tế và văn hố, khơng ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; lý luận về đạo đức cách
mạng; lý luận về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; lý luận về
xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh
đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân… Đó là những lý luận liên
quan trực tiếp tới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, tới việc
củng cố nền tảng tư tưởng, lập trường giai cấp công nhân và nhân sinh quan
cách mạng trong toàn Đảng cũng như trong mỗi người cán bộ, đảng viên. Lý
luận đó được hình thành và phát triển trên cơ sở tiếp thu lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và những thành tựu của các khoa học lý luận khác, những giá trị
tích cực của các học thuyết chính trị - xã hội trước đó và đương đại, những


kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động của Đảng và sáng kiến của các tổ chức
Đảng, của quần chúng nhân dân.
- Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa là một sự nghiệp mới mẻ và do vậy,
càng không thể thiếu lý luận. Để có thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội, nhất

thiết phải nâng cao trình độ lý luận cho toàn thể cán bộ, đảng viên, nhất là các
cán bộ cốt cán của Đảng. Nói về nhiệm vụ này, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Muốn cải tạo xã hội mà đảng viên khơng tự cải tạo mình, khơng tự nâng cao
mình thì khơng thể được. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa địi hỏi đảng viên
và cán bộ phải có lập trường giai cấp vô sản thật vững chắc, giác ngộ về chủ
nghĩa xã hội cao; đòi hỏi cán bộ đảng viên phải rửa sạch ảnh hưởng của
những tư tưởng của giai cấp bóc lột, rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, rèn luyện
chủ nghĩa tập thể. Nó địi hỏi cán bộ và đảng viên phải khắc phục các bệnh
quan liêu và cơ độc hẹp hịi để liên hệ chặt chẽ với quần chúng, do đó mà phát
huy được đầy đủ tính sáng tạo của hàng triệu quần chúng nhân dân xây dựng
chủ nghĩa xã hội, vì chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác
ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người. Muốn thế phải
nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, phải tổ chức học tập lý luận trong
Đảng, trước hết là trong những cán bộ cốt cán của Đảng”
- Tuy đề cao lý luận, song Hồ Chí Minh không xem nhẹ và không coi
thường kinh nghiệm thực tế. Người cho rằng, lý luận phải đem ra thực hành,
lý luận phải liên hệ với thực tế, lý luận thống nhất với thực tiễn là một nguyên
tắc cơ bản. Người viết: “Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực
tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận sng”(4).
Đối với Hồ Chí Minh, lý luận cách mạng cốt nhằm nâng cao trình độ tư
tưởng, lý luận của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân nhằm thúc đẩy cách
mạng tiến lên và đạt được hiệu quả cao nhất. Người thường nhắc nhở Đảng và
Nhà nước khi xây dựng đường lối, chính sách, chủ trương, biện pháp, kế
hoạch phải xuất phát từ thực tiễn, từ những đòi hỏi bức thiết của thực tiễn
cách mạng, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn chân lý, làm nguồn cung cấp cứ liệu


và kinh nghiệm sinh động cho hoạt động nghiên cứu lý luận và cho việc đề
xuất lý luận.
- Từ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận với thực tiễn, Hồ Chí Minh

đã phê phán sai lầm của chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm.
Người cho rằng, kinh nghiệm là rất quý, bởi nó là sản phẩm của thực tiễn,
nhưng khơng vì thế mà tuyệt đối hố kinh nghiệm, từ đó dẫn đến coi thường
lý luận, khơng nhận thấy tầm quan trọng của lý luận, chỉ biết vùi đầu vào
cơng tác sự vụ, xa rời lý luận, ít đào sâu suy nghĩ, áp dụng kinh nghiệm một
cách thiếu sáng tạo, thiếu sự chỉ dẫn của lý luận. Theo Người, chủ nghĩa giáo
điều, kinh viện thì coi lý luận là tất cả, là một cái gì khơng thay đổi được, tách
lý luận khỏi thực tiễn, rơi vào bệnh lý luận sng, khơng biết cụ thể hố lý
luận cách mạng cho thích hợp với điều kiện, hồn cảnh từng lúc, từng nơi,
không biết bổ sung lý luận bằng những kết luận mới rút ra trong thực tiễn sinh
động, làm cho lý luận khô cứng, không bám sát thực tiễn, không bắt rễ được
vào đời sống hiện thực, phong phú, đa dạng và từ đó, sinh ra bệnh coi thường
lý luận hay “khinh lý luận”, “lý luận vì lý luận” dẫn đến mất phương hướng,
“lúng túng như nhắm mắt mà đi” và dẫn đến bao “cái bệnh” khác nữa. Hồ Chí
Minh ln đề cao vai trị của lý luận, Người chỉ rõ: “Lý luận làm cho quần
chúng giác ngộ, bày cho quần chúng tổ chức, động viên quần chúng để đấu
tranh cho đúng. Nhờ lý luận mà quần chúng hiểu rõ nguyên nhân vì sao mà
cực khổ, thấy rõ đường lối đấu tranh để giải phóng mình, hiểu rõ phương
pháp đấu tranh với địch. Có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới
đúng đắn, mới phát triển được tài năng và lực lượng vơ cùng tận của mình”.
- Vì thế, cùng với tư tưởng về lý luận, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc
học tập lý luận chính trị. Giải thích “vì sao phải học lý luận”, Người chỉ rõ:
Trước hết, Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình
độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và
tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn cơng tác của
mình, hồn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình. Và, để học tập


lý luận tốt, Người đã chỉ dẫn một cách cặn kẽ: “Khi học tập lý luận thì nhằm
mục đích học để vận dụng chứ khơng phải học lý luận vì lý luận, hoặc vì tạo

cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng. Tất cả
những động cơ học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho sạch”.
- Hồ Chí Minh khơng chỉ nói rõ mục đích, động cơ học tập lý luận, mà
còn chỉ rõ phương pháp học tập đúng đắn, phù hợp với bản chất cách mạng và
khoa học của lý luận Mác - Lênin. Theo Người, “không phải học để thuộc
lòng từng câu, từng chữ, đem kinh nghiệm của các nước anh em áp dụng một
cách máy móc. Nhưng chúng ta phải học chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích
và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta, cho hợp với điều kiện
đặc biệt của nước ta”. Rằng, chúng ta “phải học tập tinh thần của chủ nghĩa
Mác - Lênin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa
Mác - Lênin để áp dụng… giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công
tác cách mạng của chúng ta. Như thế chúng ta học tập lý luận là cốt để áp
dụng vào thực tế”.
- Tóm lại, theo Hồ Chí Minh, học lý luận khơng phải để thuộc lịng
từng câu, từng chữ, cũng khơng phải học lý luận vì lý luận, học lý luận để
đem loè thiên hạ, để kiêu ngạo, để thành con mọt sách, thành người lý thuyết
suông, học lý luận là cốt để áp dụng vào thực tế. Những chỉ dẫn của Hồ Chí
Minh về học tập lý luận cho chúng ta thấy, Người là một nhà duy vật thực
tiễn tiêu biểu - đó là chủ nghĩa duy vật hành động, chủ nghĩa duy vật thực
tiễn, đưa lý luận cách mạng vào quần chúng, khơi dậy và phát huy sức mạnh
của quần chúng, đem lý luận gắn liền với quần chúng nhân dân.
- Hồ Chí Minh khơng những đề cao vai trò, tác dụng của lý luận, coi
trọng việc học tập lý luận, mà còn chỉ rõ những yếu kém về lý luận, những cái
sai trong học tập lý luận và cách sửa chữa chúng. Người nói: “Trong Đảng ta
trình độ lý luận cịn thấp kém khơng ai có thể tự xưng mình là giỏi lý luận. Do
đó phải nêu cao tinh thần khiêm tốn, thật thà. Đào sâu suy nghĩ khi nghiên
cứu các tác phẩm của Mác - Lênin, các bài giảng của các đồng chí giáo sư


bạn, khiêm tốn học tập các đồng chí giáo sư bạn, cái gì biết thì nói biết, khơng

biết thì nói không biết. Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học
tập. Phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà
người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được”.
- Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, cơng cuộc đổi mới ở nước ta ngày càng mở rộng và phát triển
theo chiều sâu. Những biến đổi trên thế giới ngày càng phức tạp, nhanh
chóng, khó lường, những vấn đề mới đặt ra ngày càng nhiều, đòi hỏi phải làm
sáng tỏ để tìm ra giải đáp đúng đắn và do vậy, cơng tác lý luận càng trở nên
đặc biệt quan trọng. Mặt khác, các thế lực thù địch ln tìm mọi cách phá
hoại sự nghiệp cách mạng của chúng ta, ra sức tấn công vào nền tảng tư tưởng
của Đảng nhằm làm cho chúng ta đi chệch hướng, việc đấu tranh để bảo vệ,
phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
đã trở thành những nhiệm vụ hàng đầu trong công tác lý luận. Giáo dục lý
luận, học tập lý luận, truyền bá lý luận càng trở nên bức xúc nhằm làm cho
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nắm vững lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, nâng
cao phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn, hướng dẫn họ vận
dụng những hiểu biết ấy vào cuộc sống sơi động hiện nay. Trong bối cảnh đó,
tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và học tập lý luận chính là cái soi đường cho
chúng ta đi.
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hố Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động, đồng thời nêu rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước
ta”.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, Đại
hội IX của Đảng (tháng 4 năm 2001) xác định tư tưởng Hồ Chí Minh gồm:



Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người;
về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại; về sức mạnh nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do
dân, vì dân; về quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân;
về phát triển kinh tế và văn hóa, khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…
Trong giai đoạn hiện nay, để “tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị
to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng,
đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, cần tập trung nghiên cứu,
quán triệt nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh trong 6 nhóm vấn đề:
về con đường của cách mạng Việt Nam; về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam; về nhân dân; đại đoàn kết toàn dân tộc, về xây dựng văn hóa và con
người, về phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân; về xây dựng Đảng.
2.1.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng

2.1.1. Về sự ra đời của Đảng cộng sản
Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp phong trào công nhân với phong trào
yêu nước đã dẫn tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
Đây không chỉ là đặc thù của Việt Nam mà còn là sự sáng tạo của Hồ Chí

Minh trong q trình chuẩn bị và thành lập Đảng Cộng sản ở một nước thuộc


địa nửa phong kiến. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ln ln gắn bó
với dân tộc, là “con nịi” của dân tộc, được tồn dân gọi là Đảng ta.
2.1.2. Về vai trò lãnh đạo và bản chất của Đảng
Về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách
mệnh trước hết “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi. Đảng
có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy”. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp
với quy luật phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của
giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công
nhân của Đảng dựa trên cơ sở Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nên tảng
tư tưởng, thực hiện vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Tuy số
lượng ít so với dân số nhưng giai cấp cơng nhân có đầy đủ phẩm chất và năng
lực lãnh đạo đất nước thực hiện những mục tiêu của cách mạng.
Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt
Nam đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc, xây dựng đất nước hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, nên được toàn thể nhân dân lao
động và cả dân tộc thừa nhận và đi theo. Đảng Cộng sản ở Việt Nam là Đảng
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền,
trở thành Đảng cầm quyền, nhưng là quyền do nhân dân ủy nhiệm, nhân dân
mới thực sự là chủ. Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy
tớ trung thành của nhân dân. Hồ Chí Minh sáng lập Đảng ta cũng đồng thời là
tác giả đầu tiên soạn thảo Chánh cương vắn tắt của Đảng. Sách lược vắn tắt của

Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt
nam. Người khẳng định, Đảng chân chính cách mạng phải là Đảng tiên phong


về lý luận, khoa học, lại còn phải tiêu biểu cho đạo đức cách mạng trong sáng,
chí cơng vơ tư, tồn tâm tồn ý vì nhân dân và dân tộc.
2.2.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN

ĐẢNG
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Xây dựng Đảng là quy luật tồn tại
và phát triển của Đảng.
2.2.1. Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng ln gắn liền với q trình phát triển liên
tục của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trước diễn biến của điều
kiện khách quan, bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên
làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trương trước hết phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Người chỉ rõ, Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận hợp thành cơ cấu
của xã hội. Tổ chức Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên ở các cấp, giữ các chức
vụ đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường, các quan hệ xã hội, cả cái
tốt và cái xấu, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu. Do đó, tổ chức
Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện. Đảng phải
thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng.
Trên bình diện phát triển cá nhân, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, trở thành nhu cầu tự hoàn thiện, nhu cầu tự làm trong
sạch nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên.
Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng,
chỉnh đốn Đảng càng phải tiến hành thường xuyên hơn. Người chỉ rõ: Quyền

lực có tính chất hai mặt. Một mặt, quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng. Mặt khác, quyền lực có
sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị thoái hóa, biến chất, biến
quyền lực của nhân dân thành quyền lực của cá nhân…
2.2.2. Nội dung công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
a) Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng


Phải dựa vào lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác –
Lênin để xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, lý luận. Hồ Chí Minh lưu ý:
Việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin phải luôn phù
hợp với từng đối tượng. Việc vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin phải ln ln phù hợp với từng hồn cảnh cụ thể của nước ta
trong từng thời kỳ. Trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế
thừa những kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác, đồng thời phải tổng
kết kinh nghiệm của mình để bổ sung chủ nghĩa mác – Lênin. Đảng ta phải
tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Đồng thời, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận
giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình Đảng lãnh đạo. Các
nghị quyết của Đảng được xây dựng và tổ chức thắng lợi, sẽ ngày càng làm
sáng tỏ những vấn đề mới trong thực tiễn, bổ sung và làm cho đường lối của
Đảng ngày càng thêm hoàn thiện.
Nội dung xây dựng Đảng về chính trị bao gồm: xây dựng đường lối
chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và
phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản
lĩnh chính trị… Trong các nội dung trên, theo Hồ Chí Minh, đường lối chính
trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Người cảnh
báo nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị gây hậu quả nghiêm trọng đối với
vận mệnh của Tổ quốc, sinh mệnh chính trị của hàng triệu đảng viên và nhân
dân lao động.

Đảng cần phải giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thơng tin
thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường, giữ vững
bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh.
b) Xây dựng Đảng về tổ chức
Về hệ thống tổ chức của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của
Đảng bắt nguồn từ tổ chức. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ


sở phải thật chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Sức mạnh của tổ chức liên quan chặt
chẽ với nhau; mỗi cấp độ tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng.
Trong hệ thống tổ chức Đảng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của
chi bộ. Chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng;
là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên. Chi bộ
có vai trị quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng với quần chúng nhân dân.
Về công tác cán bộ, Người luôn quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ
cán bộ, đảng viên có đức, có tài. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vị trí, vai trị
của Người cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Theo người: “Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu
rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ hiểu rõ để đặt ra chính sách đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi
cơng việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”.
“Cất nhắc cán bộ, không nên làm như “Giã gạo”. Nghĩa là trước khi
cất nhắc không xem xét kỹ. Không cất nhắc rồi khơng giúp đỡ họ. Khi họ sái
lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên”.
Theo Người, “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun
trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một
người có ích cho công việc chung của chúng ta”. Tuy nhiên, Người cũng yêu
cầu: “Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gũi quần chúng,
có được quần chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy xứng
với việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được

việc. Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô lơ ba la, chỉ nói
mà khơng biết làm, vào những địa vị lãnh đạo. Như thế rất có hại”.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh phê bình mạnh mẽ việc cất nhắc, bổ nhiệm
cán bộ theo hướng cục bộ, địa phương, “Một người làm quan cả họ được
nhờ”. Người viết: “Có những đồng chí cịn giữ thói “Một người làm quan cả
họ được nhờ”, đem bà con, bạn hữu đặt vào chức này việc kia, làm được hay
không, mặc kệ. Hỏng việc, đồn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là


được”. “Tư túng”- Kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, khơng tài năng gì
cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng khơng vừa lịng
mình thì đẩy ra ngồi. Qn rằng việc là việc cơng, chứ khơng phải việc riêng
gì dịng họ của ai”. Vì vậy, Người căn dặn: “ Cất nhắc cán bộ, phải vì cơng
tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, cơng việc
nhất định chạy. Nếu vì lịng u ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định
không ai phục, mà gây nên mối lơi thơi trong Đảng. Như thế là có tội với
Đảng, có tội với đồng bào…”.
c) Xây dựng Đảng về đạo đức
Đảng là đạo đức, là văn minh, nhờ đó Đảng mới trong sạch, vững
mạnh. Trong 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng. Người nhấn
mạnh, Đảng là một tổ chức cách mạng chứ không phải tổ chức để “làm quan
phát tài”.
Khơng như vậy, Đảng sẽ rơi vào thối hóa, biến dạng, tha hóa, xa dân,
tự đánh mất sức mạnh tự bảo vệ. Sức mạnh ấy từ dân mà ra, do dân gây dựng
phát triển.
Người cho rằng: Xây dựng Đảng về đạo đức là cơ hội để mỗi cán bộ,
đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm
vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, đặc biệt là giữ gìn phẩm chất đạo đức cách
mạng. Cán bộ, đảng viên không phải là thần thánh. Họ là con người, ai cũng
có hai mặt tốt - xấu, thiện – ác thường xuyên đấu tranh với nhau. Trong điều

kiện môi trường tốt, nếu cán bộ, đảng viên nỗ lực tu dưỡng, phấn đấu, rèn
luyện thì mặt tốt, mặt thiện sẽ nổi lên, đẩy lùi mặt ác, mặt xấu và ngược lại.
Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt, đó là người
cán bộ đó phải vừa có đức, vừa có tài. Trong đó, đạo đức là gốc, Người viết
“Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây
phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
khơng có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”.
2.2.3. Về các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng


a) Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng Đảng.
Nguyên tắc này thể hiện sự thống nhất hữu cơ, biện chứng giữa “tập trung” và
“dân chủ”. Mặt này là điều kiện của mặt kia và ngược lại, về mối quan hệ
giữa “tập trung” và “dân chủ” được Hồ Chí Minh khẳng định: Tập trung trên
nền tảng dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, là cơ sở của tập trung.
Nếu khơng có sự gắn bó và thống nhất với nhau thì sẽ dẫn tới độc đốn
chun quyền và tự do vô tổ chức, vô kỷ luật. Tuy nhiên, “tập trung” và “dân
chủ” có nội dung cụ thể.
“Tập trung” là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên,
đảng viên chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho Đảng
ta “tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”.
Cịn dân chủ theo Hồ Chí Minh, là của q báu nhất của nhân dân là
thành quả của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân chủ được thể hiện
tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề mọi người
được quyền tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một
quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát
biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự
do phục tùng chân lý. Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát
huy dân chủ nội bộ, vì nếu khơng có dân chủ nội bộ thì sẽ làm cho “nội bộ

của Đảng âm u”. Hơn nữa dân chủ trong Đảng mới có thể nói dân chủ trong
xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ thực sự.
b) Nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo hay chế độ
lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc này cũng có hai mặt gắn bó mật thiết với
nhau, gần với nguyên tắc tập trung dân chủ vì tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá
nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập
trung. Người viết: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù
khôn ngoan tài giỏi mấy dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy,


chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy
và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người.
Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì
trơng thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của
nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp
mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”.
Cá nhân phụ trách là trên cơ sở bàn bạc kỹ lưỡng của tập thể, kế
hoạch định rõ ràng rồi thì giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách
theo kế hoạch đó mà thi hành, để xác định rõ trách nhiệm và phát huy vai trò
của mỗi cá nhân. Người viết “Việc gì đã được đơng người bàn bạc kỹ lưỡng
rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần giao cho một người hoặc một nhóm ít
người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chun trách,
cơng việc mới chạy. Nếu khơng có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra cái tệ
người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai
thi hành. Như thế thì việc gì cũng khơng xong”. Trong khi thực hiện nguyên
tắc phải chống lại căn bệnh độc đoán chuyên quyền, hay ngược lại, dựa dẫm
vào tập thể, không dám quyết đốn, khơng dám chịu trách nhiệm. Hồ Chí
Minh nêu rõ “Lãnh đạo khơng tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán,
chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách khơng do cá nhân, thì sẽ đi đến cái

tệ bừa bãi, lộn xộn, vơ chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo
và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”.
c) Nguyên tắc phê bình và tự phê bình
Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt Đảng, là quy luật
phát triển của Đảng. Ý nghĩa của nguyên tắc này ở chỗ Đảng cũng từ trong xã
hội mà ra nên có những căn bệnh trong xã hội lây ngấm vào Đảng. Cá nhân
đảng viên, cán bộ cũng là con người, cũng có cái tốt, xấu, thiện, ác, trong
lịng. Con người ta không phải là thánh thần, ai cũng có khuyết điểm cả. Vì
vậy, tự phê bình và phê bình giống như việc rửa mặt hàng ngày, làm cho phần
tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, phần xấu mất dần đi. Cán



×