Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật việt nam và thụy điển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.05 MB, 52 trang )

Chương trình thạc sỹ liên kết giữa
Việt Nam và Thụy Điển
Luận văn Thạc sỹ

Phan Hoài Nam

HIỆU LỰC CỦA THỎA THUẬN TRỌNG
TÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ
THUY DIEN

Giáo viên hướng dẫn: Gs Michael Bogdan
PGs Ts. Mai Hồng Quỳ

TRUONG 94I

LIẬT TPHCM

THTHONG TIN-THU VIEN

iii
A10210001

Lĩnh vực: Luật Quốc tế và So sánh
Tp.HCM, năm 2008


LOI CAM DOAN
Để hoàn thành được luận văn này, ngoài nỗ lực của bản thân,
tơi cịn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ các giáo viên hướng
dẫn là PGs Ts Mai Hồng Quỳ và Gs Michael Bogdan. Từ việc
lựa chọn đề tài, xây dựng đề cương, đến việc hoàn thành luận



văn, nếu khơng có những
Hồng Quỳ và Gs Michael
sản phẩm này. Tuy nhiên,
trò định hướng, chỉ dẫn,

sự hướng dẫn tận tình của PGs Ts Mai
Bogdan thì có lẽ đã khơng thể có được
các giáo viên hướng dẫn chỉ đóng vai
chính vì thế nếu có những sai sót nào

trong luận văn này tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm. Hơn nữa,
tơi xin cam đoan đây là cơng trình do chính tơi thực hiện và hồn

tồn chịu trách nhiệm về nội dung của Khóa luận này.
Ngồi ra, tơi cũng xin chân thành cảm ơn các Giáo sư của
Khoa Luật Trường Đại học Lund đã tận tình giúp đỡ tơi trong
q trình hồn thành khóa luận, các giáo viên của Khoa Luật
Quốc tế đã chia sẻ cơng việc để tơi có thời gian thực hiện đề tài
này. Và đặc biệt là lời cảm ơn sâu sắc nhất dành cho gia đình tơi,

những người đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi để có thể hồn
thành khóa học này.


MUC LUC
BANG TU VIET TAT

1


TÓM TÁT

2

LỜI NÓI ĐÀU

4

CHƯƠNG 1: KHAI QUAT CHUNG VE THOA THUAN TRỌNG TÀI
THEO PHAP LUẬT VIỆT NAM VA THUY DIEN
1.1

Khái niệm thỏa thuận trọng tài

1.2
1.3

Cấu trúc của thỏa thuận trọng tài
Mối quan hệ giữa điều khoản trong tài và hợp đồng

1.4

Mối quan hệ giữa trọng tài và tòa án trên cơ sở thỏa thuận trọng tài

được thiết lập hợp pháp

CHƯƠNG 2: ĐIỀU KIỆN HIỆU LỰC CỦA THỎA THUẬN TRỌNG

TAI THEO PHAP LUAT VIET NAM VA THUY DIEN


2.1

7

10
15
17

24

Điều kiện liên quan đến chủ thể ký thỏa thuận trọng tài
24
2.1.1.
Điều kiện về loại chủ thể ký thỏa thuận trọng tài
24
2.1.2 _ Điều kiện về năng lực và thẳm quyền của chủ thể ký thỏa thuận
trọng tài

26

2.2 _ Điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài

30

2.3.

33

Điều kiện về nội dung của thỏa thuận trọng tài


KÉT LUẬN

43

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

45


BANG TU VIET TAT
Bộ luật Dân sy

Bộ Luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam

năm 2005
Đạo luật

Đạo Luật trọng tài của Thụy Điển năm 1999

Luật Mẫu

Luật mẫu của ƯNCITRAL về trọng tài thương
mại quốc tế năm 1985, bo sung nam 2006

Pháp lệnh

Pháp lệnh trọng tài thương mại của nước
CHXHCN Việt Nam năm 2003

VIAC:


Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh

phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam


TOM TAT
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được sử dụng
ngày càng phỏ biến trong thực tiễn bởi những ưu điểm của nó so với
những phương thức giải quyết tranh chấp khác khơng mang tính tài
phán như trung gian, hịa giải hay phương thức mang tính tài phán
như tịa án'. Về ngun tắc, khơng có thỏa thuận trọng tài hợp pháp
thì khơng có trọng tài cho việc giải quyết tranh chấp. Một thỏa thuận
trọng tài như thế sẽ có hiệu lực loại trừ thẩm quyền tài phán của tịa án
và nó cịn là một trong những cơ sở để tịa án của một quốc gia cho
cơng nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại quốc
gia mình.

Thỏa thuận trọng tài hợp pháp ở đây được hiểu là thỏa thuận trọng
tài tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện hiệu lực. Hiệu lực
của nó được xác định dựa trên nhiều yếu tố như chủ thể ký thỏa thuận

trọng tài, hình thức của thỏa thuận trọng tài hay nội dung của thỏa
thuận trọng tài ...
Theo pháp luật Việt Nam, chỉ có các cá nhân và tổ chức kinh doanh

mới được quyền ký hoặc ủy quyền để xác lập thỏa thuận trọng tài.
Trong khi pháp luật Thụy Điển thi không đưa ra bất kỳ một hạn chế
nào về vấn đề này.
Tương tự, vấn đề hình thức của thỏa thuận và nội dung của thỏa


thuận cũng có cách quy định khác nhau giữa pháp luật Việt Nam và
Thụy Điền.
Pháp luật Việt Nam đưa ra yêu cầu cụ thể trong Pháp lệnh Trọng tài
Thương mại 2003 (sau đây được gọi là Pháp lệnh) về hình thức bằng
văn bản của thỏa thuận theo cách liệt kê tại khoản 1 điều 9 của Pháp
lệnh. Rõ ràng, cách thức quy định của Việt Nam cịn nhiều hạn chế do

khơng thể nào liệt kê hết các hình thức bằng văn bản của thỏa thuận
trọng tài ví dụ như trường hợp trong giao dịch các bên dẫn chiếu đến
Ì Xem những ưu và nhược điểm của việc sử dụng trọng tài ở: Finn Madsen,
Arbitration in Sweden, 3" edition, Oxford University Press, Oxford, 2007, tr.23 - 28

Commercial


một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như vận đơn đường biển,

hợp đồng thuê tàu hoặc điều lệ công ty... Về vấn đề này, đối với Thụy
Điền, khơng đưa ra u cầu cụ thể về hình thức bằng văn bản. Nhưng
khi tranh chấp phát sinh, các bên phải có nghĩa vụ chứng minh rằng
đã có một thỏa thuận trọng tài trên thực tết.

Nội dung tranh chấp hướng đến việc giải quyết bằng phương thức
trọng tài cũng là một trong những yêu cầu để xác định hiệu lực của
thỏa thuận trọng tài. Pháp luật Thụy Điển mở rộng phạm vi điều chỉnh
theo hướng chỉ loại trừ một số quan hệ cụ thể như quan hệ liên quan
đến hợp đồng tiêu dùng để giải quyết tranh chấp trong tương lai hoặc
trong lĩnh vực vận chuyển hàng hóa hành khách bằng đường hàng
khơng hoặc đường biển...Trong khi đó, pháp luật Việt Nam chỉ chấp

nhận trọng tài cho việc giải quyết các tranh chấp trong hoạt động
thương mại nếu các bên có thỏa thuận. Rõ ràng điều này đã hạn chế

rất nhiều sự lựa chọn của các bên trong những tranh chấp không phải
là tranh chấp trong hoạt động thương mại.

? The Swedish Arbitration Act of 1999, Five Years On: A Critical Review of Strengths and
‘Weaknesses, Editors: Jernej Sekolec and Nils Eliasson, The UNCITRAL Model Law on

Arbitration and the Swedish arbitration Act: a Comparison, tr.10

* Theo website VN/Home/thongke/2008/10/156.aspx,

quyết 22 vụ vào năm 2005, 23 vụ vào năm 2006.

VIAC đã giải


LOI NOI DAU
e Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các tranh chấp
trong hoạt động thương mại cũng ngày một nhiều hơn. Với cơ chế
mềm dẻo, linh hoạt trong xét xử, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng
phương thức trọng tài ngày càng được giới doanh nghiệp tin cậy hơn.
Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy số lượng các vụ việc được giải quyết

bằng phương thức trọng tài ngày càng gia tăng. Điều đó chứng tỏ sự
khẳng định vị thế của phương thức trọng tài so với các phương thức
giải quyết tranh chấp khác. Tuy nhiên, so với các quốc gia, thì số
lượng các vụ việc được giải quyết bằng trọng tài còn quá khiêm tốn”.

Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên
nhân cực kỳ quan trọng đó là do chưa có một khung pháp lý hồn
thiện về lĩnh vực trọng tài tại Việt Nam hiện nay.

Về nguyên tắc, thẩm quyền của trọng tài phụ thuộc hoàn toàn vào
thỏa thuận trọng tài của các bên trong tranh chấp. Sẽ khơng có trọng
tài nếu khơng có thỏa thuận trọng tài. Khác với tịa án, nơi có thâm
quyền đương nhiên để xét xử bất kỳ tranh chấp trong nước nào dựa
theo pháp luật tố tụng của quốc gia mình, trong khi đó trọng tài chỉ có
thẩm quyền xét xử các tranh chấp khi các bên (chủ thể trong nước
hoặc có yếu tố nước ngồi) có thỏa thuận chọn trọng tài để giải quyết
tranh chấp. Và một lẽ đương nhiên, thỏa thuận trọng tài đó phải là
thỏa thuận trọng tài hợp pháp - tuân theo những quy định về điều kiện
hiệu lực của nó. Do có sự khác biệt về các điều kiện kinh tế, chính trị,

văn hóa, xã hội ... nên pháp luật của các quốc gia khác nhau thường
có quy định mang tính chất khác biệt về các vấn đề liên quan đến
pháp luật trọng tài nói chung, trong đó có pháp luật điều chỉnh về thỏa
thuận trọng tài.


Phap luat về trọng tài của Việt Nam xuất hiện khá muộn hơn so với

các quốc gia”. Văn bản pháp luật đầu tiên quy định một cách độc lập

về phương thức giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài là
Pháp lệnh Trọng tài năm 1990, sau này được thay thế bằng Pháp lệnh
Trọng tài Thương mại năm 2003 (sau đây gọi là Pháp lệnh). Cùng với
các văn bản hướng dẫn thi hành của mình, Pháp lệnh đã tỏ ra hiệu quả


trong việc điều chỉnh về các vấn đề liên quan đến trọng tài nói chung
và thỏa thuận trọng tài nói riêng. Tuy nhiên, liên quan đến vấn đề thỏa
thuận trọng tài, pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn thi hành của nó

vẫn cịn có nhiều vướng mắc khiến cho thực tiễn giải quyết tranh chấp
tại Việt Nam khi sử dụng phương thức trọng tài gặp nhiều khó khăn.

Bên cạnh đó, khi nghiên cứu đến thực tiễn trọng tài trên thế giới, ta

có thể nhận thấy rằng Viện Trọng tài của Phòng Thương mại
Stockholm, Thụy Điển được các bên tranh chấp, không chỉ là các
tranh chấp nội địa mà ngay cả các tranh chấp có yếu tố quốc tế, lựa
chọn rất nhiều để giải quyết tranh chấp giữa họ. Ngồi uy tín trong
q trình giải quyết tranh chấp của Viện trọng tài, nó cịn xuất phát từ

việc Thụy Điển có một hệ thống pháp luật điều chỉnh về trọng tài
hồn chỉnh. Vì lẽ đó, tác giả đã chọn Thụy Điển để so sánh với pháp
luật Việt Nam về vấn đề này nhằm xác định những điểm tương đồng
và khác biệt, để từ đó có thể đưa ra những kiến nghị dé tháo gỡ cho

những hạn chế trong pháp luật Việt Nam.
Do xuất phát từ tầm

quan trọng của vấn đề hiệu lực thỏa thuận

trọng tài, cũng như xuất phát từ sự khác biệt trong cách quy định của

các quốc gia khác nhau về vấn đề này nên tác giả đã chọn đề tài
“Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo quy định của Pháp luật
Việt Nam và Thụy Điễn” cho Luận văn thạc sỹ của mình.


e Phạm vi nghiên cứu của đề tài

* http://www. viac, org. vn/en-US/Home/default.aspx,
/>

Luận văn sẽ tập trung vào nghiên cứu, phân tích các vấn đề pháp lý
liên quan đến điều kiện hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp

luật Việt Nam. Từ đó, tác giả so sánh trong mối tương quan với pháp
luật Thụy Điển và một số nước, trong đó chủ yếu là pháp luật Thụy
Điển về vấn đề này để từ đó đưa ra hướng hồn thiện khung pháp lý
của Việt Nam.

e Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận được nghiên cứu dựa trên phương pháp mơ tả, phân tích và
so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam và Thụy Điển về vấn đề
hiệu lực của thỏa thuận thuận trọng tài. Ngoài ra, để củng cố cho

những lập luận và đánh giá của mình về tính hiệu quả cũng như hạn
chế của khung pháp lý điều chỉnh về vấn đề hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài ở Việt Nam và Thụy Điền, tác giả còn sử dụng phương pháp
phân tích các phán quyết liên quan đến van dé nay.
e Bố cục
Luận văn được chia ra làm 4phần:

Lời nói đầu
Chương

1: Khái quát chung về thỏa thuận trọng tài theo


pháp luật Việt Nam và Thụy Điên
Chương 2: Điều kiện hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo

pháp luật Việt Nam và Thụy Điễn

Kết luận

° Điều 2 (3) Pháp lệnh Trọng tài Thương mại của ước CHXHCN Việt Nam năm 2003


CHUONG 1: KHAI QUAT CHUNG VE THOA THUAN
TRONG TAI THEO PHAP LUAT VIET NAM VA THUY BIEN
1.1

Khái niệm thỏa thuận trọng tài

Theo Điều 2 (khoản 2) của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2003 (sau đây gọi là Pháp
lệnh) quy định:
“Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên cam kết

giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh
hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại ”.
Nói một cách khác, thỏa thuận trọng tài là cơ sở làm phát sinh thâm
quyền của trọng tài đối với một vụ tranh chấp cụ thể liên quan đến
hoạt động thương mại. Đó là những hoạt động được thực hiện bởi các

cá nhân, tổ chức kinh doanh liên quan đến vấn đề:
“mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện,

đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng;
tự vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo

hiểm; thăm dị, khai thác; vận chuyển hàng hố, hành khách
bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và
các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật ”. 5

Như vậy, không phải bất kỳ tổ chức, cá nhân nào cũng có thé đưa
tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài. Ngay cả khi một số tổ chức, cá
nhân được pháp luật cho phép làm điều này thì không phải bất kỳ
tranh chấp nào giữa họ cũng đều có thẻ giải quyết bằng trọng tài. Đây
là điều mà các doanh nghiệp (bao gồm các doanh nghiệp được thành
lập theo các Luật như Luật Doanh nghiệp, Luật đâu tư nước ngoài,
Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể,

các cá nhân góp vốn thành lập doanh nghiệp) cần phải biết khi ký kết
thỏa thuận trọng tài.


Đạo luật Trọng tài của Thụy Điển, không đưa ra bất kỳ một khái
niệm cụ thể về thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, khái niệm về thỏa
thuận trọng tài có thể được ngầm hiểu trong section 1 của Đạo Luật:

“Thông qua thỏa thuận, những tranh chấp liên quan đến
những vấn đề mà các bên hướng đến giải quyết có thể được
chuyển cho một hoặc một vài trọng tài để ra quyết định. Sự

thỏa thuận như thế có thể liên quan đến những tranh chấp
trong tương lai mà nó có mối quan hệ pháp lý gắn liền với hợp
đồng „i0


Không giống như Việt Nam, Đạo luật Trọng tài của Thụy Điền
không đưa ra quy định mang tính ràng buộc theo kiểu thỏa thuận
trọng tài chỉ có giá trị trong các tranh chấp liên quan đến hoạt động
thương mại mà nó cịn áp dụng kể cả đối với các tranh chấp liên quan
đến những loại khác như hợp đồng tiêu dùng (chỉ chấp nhận sự thỏa
thuận sau khi tranh chấp xảy ra)'! (xem thêm điều kiện hiệu lực của
thỏa thuận trọng tài liên quan đến nội dung tranh chấp ở mục 2.3).
So sánh hai văn bản pháp luật điều chỉnh về hoạt động trọng tài của

Việt Nam và Thụy điển, nhận thấy cả hai đều quy định rằng thỏa
thuận trọng tài có thể được lập ra trước (đối với những tranh chấp
trong tuong lai — future disputes) hoặc sau khi tranh chấp xảy ra (đối

với những tranh chấp đang phát sinh) và đều có ý nghĩa pháp lý như
nhau.
Trước khi tranh chấp xảy ra, trong quá trình đàm phán ký kết hợp

đồng các bên có thể thỏa thuận sẽ đưa tranh chấp ra trọng tài nếu
chúng phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng hoặc liên quan

đến hợp đồng. Trong trường hợp này, thỏa thuận trọng tài có thể được
ghi nhận trong hợp đồng như một điều khoản trọng tài (Arbitration

!° “Disputes concerning matters in respect of which the parties may reach a settlement may, by

agreement, be referred to one or several arbitrators for resolution. Such an agreement may relate to

future disputes pertaining to a legal relationship specified in the agreement”.


"' Section 6 ciia Đạo luật Trọng tài của Thụy Điển


Clause) hoặc có thể được lập ra dưới hình thức một văn bản riêng
(Pre-disputes Agreement).

Sau khi tranh chấp xảy
việc xác định trọng tài cho
thời gian nào sau khi tranh
đưa tranh chấp ra trọng tài

ra, nêu các bên chưa thỏa thuận trước về
việc giải quyết tranh chấp thì trong bắt cứ
chấp xảy ra, các bên vẫn có thể thỏa thuận
để giải quyết.

Việc lập thỏa thuận trọng tài vào thời điểm nào là phụ thuộc hồn

tồn vào ý chí của các bên, nhưng thực tế cho thấy khi tranh chấp đã
phát sinh, đặc biệt là trong quan hệ thuộc lĩnh vực điều chỉnh của tư

pháp quốc tế (do yếu tỐ nước ngoài của nó), bên nào cũng muốn chọn
cho mình một phương thức giải quyết tranh chấp có lợi nhất cho mình
(thường thích chọn tịa án của quốc gia mà mình mang quốc tịch).

Nên nếu các bên thiếu thiện chí trong việc giải quyết tranh chấp thì
việc ngồi lại cùng nhau để thỏa thuận trọng tài là điều khơng phải dễ.

Do đó, vấn đề lập thỏa thuận trọng tài trước khi tranh chấp xảy ra là
điều cần thiết và nên làm nếu như các bên có ý định dùng trọng tài

cho việc giải quyết tranh chấp.
Tóm

lại, mặc dù giữa Việt Nam và Thụy Điển có hai cách thức

khác nhau để phác thảo về khái niệm thỏa thuận trọng tài: một bên

đưa ra khái niệm cụ thể (Việt Nam), một bên chỉ được hiểu ngầm
(Thụy Điển), song nội hàm của khái niệm là gần như đồng nhất, chỉ
có sự khác biệt về loại hình tranh chấp mà trọng tài có thẳm quyền
giải quyết. Bên cạnh đó, trong câu chữ của khái niệm thỏa thuận trong
tài trong pháp luật Việt Nam còn chưa mang tính chuẩn xác, cụ thể là

cụm từ “thỏa thuận của các bên czm kế:...”. Theo ngữ nghĩa tiếng
Việt, “cam kết” được hiểu là “thế nào cũng làm như lời đã hứa”. Điều

này là không chuẩn xác. Bởi lẽ, khi xảy ra tranh chấp, các bên hồn
tồn có thể đưa ra một thỏa thuận khác để loại trừ thẩm quyền của

trọng tài. Cho nên cụm từ “cam kết" đặt trong khái niệm của thuật ngữ
“thỏa thuận trọng tài” tại khoản 2 điều 2 của Pháp lệnh là không hợp

lý.


Dự thảo Luật trọng tài của Việt Nam đang trong quá trình xây
dựng. Về cơ bản, cũng xác định bản chất của thỏa thuận trọng tài là
một sự đồng thuận giữa các chủ thể. Tuy nhiên, khái niệm này có một

số khác biệt liên quan đến nội dung của những tranh chấp được quyền

sử dụng trọng tài. Những vấn đề này sẽ được nghiên cứu sâu hơn ở
chương 2 của Luận văn này.
1.2

Cấu trúc của thỏa thuận trọng tài

Ý định sử dụng phương thức trọng tài cho việc giải quyết các tranh
chấp giữa các bên được hiện thực hóa bằng một thỏa thuận (thỏa
thuận trọng tài), được các bên đàm phán và có hiệu lực hồn tồn độc

lập với hợp đồng. Để đạt được tính kha thi va hop pháp, một điều
khoản trọng tài không nhất thiết phải dài và chỉ tiết. Hai nguyên tắc cơ
bản mà bắt kỳ người soạn thảo điều khoản trọng tài nào cũng nên biết
là tính đơn giản trong soạn thảo và tính chính xác khi tập hợp nội
dung để đưa vào điều khoản trọng tài. Một điều khoản trọng tài soạn

thảo không rõ ràng hoặc khơng đầy đủ có thể sẽ đi ngược lại với
mong đợi của các bên, những người muốn sử dụng trọng tài để đạt
được những thuận lợi nhất định thay vì phải sử dụng tịa án cho việc

giải quyết tranh chấp.
Thơng thường, thỏa thuận trọng tài thường phải có đầy đủ hai thành

tố cơ bản là tên cơ quan trọng tài và quy tắc tố tụng trọng tài. Ngoài
ra, vấn đề phạm vi của điều khoản và các loại tranh chấp cần giải
quyết cũng là vấn đề cần thiết trong thỏa thuận trọng tài. Khi soạn
thảo, các bên trong hợp đồng nên mô tả khái quát tối đa các loại tranh
chấp có thể phát sinh từ hợp đồng giữa các bên. Tránh tình trạng liệt
kê các tranh chấp dẫn đến tình trạng hạn chế thẩm quyền của cơ quan


giải quyết tranh chấp được lựa chọn trong thỏa thuận.

Trong thỏa thuận trọng tài, các bên có thể thỏa thuận lựa chọn một
trong hai loại trọng tài:

4


Trong tai quy chế: là trọng tài của một tổ chức trọng tài
phát sinh thẩm quyền dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên,
được tiến hành theo quy tắc của tổ chức trọng tài đó.

Trọng tài vụ việc (cịn gọi là trọng tài ad hoc): là trọng tài
không được tiến hành theo quy tắc của tổ chức trọng tài quy

chế. Bởi các bên không bắt buộc phải tiến hành trọng tài theo
quy tắc của một tổ chức trọng tài quy chế, họ có thể tự do quy
định quy tắc tố tụng riêng. Nói một cách khác, trọng tài vụ việc

la trong tai ty tién hanh (do it yourself arbitration).
Viéc xác định cụ thể tên cơ quan trọng tài trong thỏa thuận trọng tài

có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Có những trường hợp, nội dung của
thỏa thuận trọng tài thể hiện ý chí của các bên rằng trọng tài sẽ là cơ
quan giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, tên cơ quan trọng tài không
được thỏa thuận một cách cụ thể đã dẫn đến hiện tượng trọng tài

khơng có thẩm quyền giải quyết”. Vì theo khoản 4 điều 10 Pháp lệnh
Trọng tài Thương mại Việt Nam năm 2003 quy định về những trường
hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu, trong đó có đưa ra trường hợp:


Với trường hợp này, Nghị quyết 05 đã có hướng dẫn cụ thé. Theo

đó, nếu theo thoả thuận trọng tài thì khơng thể xác định được Hội
đồng Trọng tài nào, Trung tâm Trọng tài nào của Việt Nam có thẩm
quyền giải quyết vụ tranh chấp này, nếu sau đó các bên khơng có thoả
thuận hoặc không thoả thuận bổ sung được về việc xác định Hội đồng

Trọng tài cụ thể nào của Việt Nam có thẩm quyền giải quyết thì tịa án
sẽ phát sinh thâm quyền của mình.
Ví dụ: Trong thoả thuận trọng tài các bên chỉ thoả thuận:

“Trong trường hợp có tranh chấp nếu khơng giải quyết được
bằng thương lượng thì u cầu Trọng tài giải quyết theo quy
định của pháp luật Việt Nam

'*

hup;//www.viac.org.vn/vi-VN,

aivietlienquan/2008/10/178.aspx


Trong trường hợp này thoả thuận trọng tài là vô hiệu bởi vì các bên

khơng thoả thuận rõ việc giải quyết vụ tranh chấp do Hội đồng trọng
tài các bên thành lập hay do Trọng tài viên duy nhất hay do Hội đồng

trọng tài của một Trung tâm trọng tài cụ thể của Việt Nam (/rừ trường


hợp sau đó các bên có thoả thuận bồ sung về việc xác định Hội đồng
trọng tài cụ thể của Việt Nam có thẩm quyền giải quyết):
Tuy nhiên, với cách thức quy định như trên là không phù hợp trong
thực tiễn. Rõ ràng, về mặt ý chí, các bên mong muốn tranh chấp giữa
họ sẽ được giải quyết bằng phương thức trọng tài mà khơng phải là tố
tụng tịa án hay bất kỳ một phương thức nào khác như trung gian hay
hòa giải. Pháp luật của Thụy Điển cũng như các nước và thông lệ
quốc tế cũng không đưa ra bất kỳ một yêu cầu nào về việc phải xác
định rõ tổ chức trọng tài.

Việc xác định đầy đủ tên của Quy tắc tố tụng trọng tài cũng khơng
kém phần quan trọng. Có trường hợp, VIAC đã phải đứng ra hòa giải
cho việc xác định quy tắc tố tụng vì trong hợp đồng hai bên chỉ đưa ra
thỏa thuận một cách chung chung là “chọn quy tắc trọng tài quốc tế”.
Thực tế chỉ có thể hòa giải được khi các bên vẫn còn thiện chí để giải
quyết tranh chấp. Nếu khơng “thỏa thuận trọng tài” này được coi là

không thể thực hiện được.
Trong thực tiễn pháp lý của Thụy Điển, tại vụ án số 038/2003'5 của

SCC, các bên đã xây dựng một thỏa thuận trọng tài tối nghĩa khiến

cho vụ kiện kéo dài hơn 10 tháng và cuối cùng xác định Trọng tài vẫn
có thẳm quyền xét xử.

Trong hợp đồng, các bên thỏa thuận:
“Tất cả các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng sẽ được giải
quyết thông qua đàm phán giữa các bên. Nếu các bên không
đạt được sự thỏa thuận, tranh chấp sẽ được giải quyết tại Tòa
án trọng tài của Phòng Thương mại Stockholm, Thụy Điển dựa

'S http://www, bakernet.com/NR/rdonlyres/1698E9C9-6ADA-4420-B142334512CA278B/0/IntlArbitrationSwedenSep06.pdf

a


theo Quy tắc hòa giải và trọng tài của Phòng Thương mại

Quốc tế bởi một hoặc nhiều trọng tài viên được chỉ định dựa

theo những quy tắc đó theo ngơn ngữ của hợp đồng".

Khi tranh chấp phát sinh, bị đơn đã phản đối thẩm quyền của Viện
trọng tài của Phòng Thương mại Stockholm. Sau đó Viện trọng tài
của Phịng thương mại Stockholm đưa ra lập luận rằng ý định của các
bên trong thỏa thuận này là mong muốn tạo ra một thỏa thuận trọng
tài hợp pháp, có thể thực hiện được trên thực tế. Dựa theo thỏa thuận
được tạo lập, ta có thể xác định được ý chí của các bên trong việc trao

quyền giải quyết tranh chấp cho trọng tài trong khn khổ của Phịng
Thương mại Stockholm.

Chúng ta có thể tham khảo các điều khoản trọng tài mẫu của VIAC
và Viện Trọng tài thuộc phòng thương mại Stockholm (SCC):
VIAC đưa ra khuyến nghị rằng nếu các bên mong muốn chuyển
tranh chấp của mình đến trọng tài VIAC, trong hợp đồng giữa các bên
nên sử dụng điều khoản mẫu Š như sau:

“Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng
này sẽ được giải quyết tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt
Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

theo Quy tắc tô tụng trọng tài của Trung tâm này”

Ngồi ra, các bên cũng có thể đưa vào những vấn đề sau vào điều
khoản trọng tài:
“SỐ lượng trọng tài là ............. (một hoặc ba)
Nơi tiễn hành trọng tài là ............”
Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngồi, các bên có thể bổ

sung:
“Luật áp dụng cho hợp đông này là luật của ...
Ngôn ngữ dùng trong tô tụng trọng tài Id...”
`5 hp;//www.viac.org.vn/vi-VN/Home/dieukhoanmau.aspx

13


Diéu khoan trong tai mẫu của Viện Trọng tài thuộc Phòng Thương
mại Stockholm'”:
“Bắt kỳ tranh chấp, tranh cãi hoặc khiếu nại nào phát sinh

từ hoặc liên quan tới hợp đồng này, hoặc sự vi phạm, chấm dứt
hoặc vô hiệu của hợp đồng này được giải quyết bằng trọng tài
theo Quy tắc của Viện Trọng tài thuộc Phòng Thương mại
Stockholm.

Các bên có thể bổ sung những nội dung dưới đây vào điều khoản:
Hội đồng Trọng tài bao gỗm ... trọng tài viên (trọng tài viên

duy nhất).


Nơi tiến hành trọng tài là ... (thành phố hoặc nước)
(Các) Ngôn ngữ dùng trong 16 tung trong tai la ...”

Với hai điều khoản mẫu này, nhìn chung nó đã chứa đựng đầy đủ
nội dung của một thỏa thuận trọng tài mà theo đó ta có thể xác định rõ

ràng ý định dùng phương thức trọng tài để giải quyết tranh chấp của
các bên. Đồng thời, qua đó, cũng có thể xác định được tổ chức trọng

tài cụ thể sẽ có thẩm quyền tài phán đối với những vấn đề gì. Tuy
nhiên, trên thực tế, có những trường hợp sau khi hợp đồng chính được
ký trong đó có điều khoản trọng tài, các bên lại có những bản bổ sung.

Vậy thì liệu rằng những tranh chấp liên quan đến bản bổ sung này có
thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài hay khơng? Chính vi thé,
nên chăng cần thêm vào cụm từ
“cũng như bắt kỳ thỏa thuận nào khác đã được ký hoặc sẽ
được ký liên quan đến hợp đồng này... "15.

1

the_Arbitration_Institute_of the Stockho

Im_Chamber_of Commerce_English/

'# Trung tâm Thương mại Quốc tế và Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, Trọng tài và các
phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, năm 2003, tr.87

14



Mối quan hệ giữa điều khoản trọng tài và hợp đồng

13

Theo Điều 11 Pháp lệnh:
“Điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với hợp đông. Việc
thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng
không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng tài .
Như vậy, những thay đổi về hợp đồng mà việc giải quyết tranh
chấp được các bên thỏa thuận bằng phương thức trọng tài không làm
ảnh hưởng đến thỏa thuận trọng tài. Cũng như việc tuyên bố hợp đồng
vô hiệu sẽ không dẫn đến kết luận rằng thỏa thuận trọng tài sẽ vơ hiệu

theo.
Hiện nay có một số học giả cho rằng khi hợp đồng vơ hiệu thì
Trọng tài khơng có thẩm quyền và thẩm quyền thuộc về Tòa án. Quan
điểm này là không thuyết phục. Với hướng giải quyết như quan điểm
trên, chúng ta làm vơ hiệu hóa ngun tắc về sự độc lập của thỏa
thuận trọng tài và hợp đồng. Điều 11 của Pháp lệnh khẳng định sự độc
lập trên nhằm mục đích nhấn mạnh việc hợp đồng vơ hiệu không làm

mắt đi thẩm quyền của Trọng tài. Trong thực tế, Tòa án đã từng khẳng
định rằng việc hợp đồng chính vơ hiệu khơng làm ảnh hưởng đến thỏa
thuận trọng tài.
Vi dụ, trong hợp đồng mua bán giữa Công ty Đại Hùng và
Cơng ty Zest các bên có thỏa thuận chọn Trung tâm trọng tài

quốc tế Việt Nam. Khi có tranh chấp, Công ty Đại Hùng do ông
Thọ đại diện cho rằng người ký hợp đồng đã vượt quá sự cho


phép của Điều lệ công ty nên bị coi là vơ hiệu. Tuy nhiên, theo
Tịa án nhân dân tối cao, “xét việc ơng Simonov (người lý hợp

đồng trong đó có thỏa thuận trọng tài) có giá trị vượt quá mức
quy định của Công ty thuộc phân nội dung của hợp đồng. Theo

14


quy định tại Điều 11 Pháp lệnh trọng tài thương mại thì việc vơ
hiệu này khơng ảnh hưởng đến việc các bên có thỏa thuận
trọng tài”!

Có lẽ quan điểm trên được đưa ra vì họ cho rằng Trọng tài khơng

có thẩm quyền giải quyết hợp đồng vô hiệu. Cơ sở pháp lý này là
không thuyết phục. Bởi lẽ, Bộ luật Dân sự cho rằng Tịa án có thẩm
quyền giải quyết hợp đồng vô hiệu nhưng không quy định rằng chỉ có
Tịa án mới có quyền giải quyết việc này”.

Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy có trường hợp hợp đồng khơng thể
thực hiện được thì hiệu lực của thỏa thuận trọng tài sẽ như thế nào

trong mối quan hệ với các điều khoản khác của hợp đồng. Về nguyên
tắc, thỏa thuận trọng tài độc lập với các điều khoản khác của hợp

đồng thì khi rơi vào trường hợp hợp đồng khơng thé thực hiện được

thì thỏa thuận trọng tài vẫn có thể phát sinh hiệu lực để làm phat sinh

thẩm quyền của trọng tài.

Về cùng vấn đề này, pháp luật Thụy Điển và Luật Mẫu đã ghi nhận
rất rõ. Section 3 của Đạo luật Trọng tài Thụy Điển ghi nhận rằng:
“giá trị pháp lý của một thỏa thuận trọng tài được cầu thành

như một điều khoản độc lập với hợp đồng phải được xác định
trong mỗi quan hệ mật thiết với việc xác định thẩm quyền của
trọng tài, thỏa thuận trọng tài đó sẽ được xem xét như là một
hợp đồng độc lập ” ae

Vấn đề này cũng có thé dé dàng tìm thấy tại điều 16(1) của Luật
mẫu:
“Ủy ban trọng tài có thể quyết định về thẩm quyền xét xử
của chính mình, kế cả những ý kiến phản đối về sự tôn tại hoặc
a Quyết định số 1 12/2006/TTPT ngày 02/06/2006 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội.
Xem nội dung các điều khoản 128 - 136 của Bộ luật Dân sự lien quan đến giao dịch dân sự vô
hiệu

*%_"Where the validity of an arbitration agreement which constitute part of another agreement
must be determined in conjuntion with a determination of the jurisdiction of the arbitrators, the
arbitration agreement shall be deemed to constitute a separate agreement”

1s


giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài. Vì mục đích này, Điều
khoản trọng tài trở thành bộ phận của hợp đồng sẽ được coi là

thoả thuận độc lập với các Điều khoản khác của hợp đồng.


Quyết định của ủy ban Trọng tài về hợp đông bị vô hiệu không

làm cho Điều khoản trọng tài bị vô hiệu theo tệ

Tóm lại, theo pháp luật Việt Nam và Thụy Điển, điều khoản trong

tài vẫn có thể phát sinh hiệu lực mặc dù hợp đồng bị cho là vô hiệu.

Việc khẳng định này nhằm đảm bảo cho quyền tuyên bố hợp đồng vô
hiệu của trọng tài.
1.4

Mối quan

hệ giữa trọng tài và tòa án trên cơ sở thỏa

thuận trọng tài được thiết lập hợp pháp

Liệu rằng một thỏa thuận trọng tài hợp pháp có thê khơng làm phát
sinh thẩm quyền của trọng tài trên thực tế hay không? Về nguyên tắc,

pháp luật của hầu hết các quốc gia đều ghi nhận vấn đề thỏa thuận lựa
chọn mới thay thế cho thỏa thuận cũ. Tuy nhiên, cách thể hiện có sự

khác biệt, đặc biệt là giữa Việt Nam và Thụy Điền.
Pháp luật Thụy Điển ghi nhận van dé nay tai Section 5 của Đạo luật
Trọng tài của Thụy Điển. Nếu một bên đã phản đối trọng tài hoặc
không chỉ định được trọng tài trong khoảng thời gian hạn định hoặc
không thể cung cấp phần bảo đảm bồi thường theo yêu cầu trọng tài

thì sẽ mất quyền viện dẫn trọng tài và khi đó nếu bên kia cũng khơng
viện dẫn trọng tài thì xem như thỏa thuận trọng tài khơng cịn phát

sinh hiệu lực đối với các bên. Khi đó, tịa án sẽ là cơ quan có thẩm
quyền để giải quyết tranh chấp.

?! “The arbitral tribunal may rule on its own jurisdiction, including any objections with respect to

the existence or validity of the arbitration agreement. For that purpose, an arbitration clause
which forms part of a contract shall be treated as an agreement independent of the other terms of
the contract, A decision by the arbitral tribunal that the contract is null and void shall not entail
ipso jure the invalidity of the arbitration clause”

`2 Xem điểm b mục 1.2 của Pháp lệnh

14



×