Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Quy định của pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.45 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
---------------

TỐNG HOÀNG TUẤN

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH
TRONG THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN

CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
-----------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH
TRONG THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN

SINH VIÊN THỰC HIỆN:

TỐNG HỒNG TUẤN

Khóa 44

MSSV: 1953801013256


GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:

ThS. Nguyễn Trung Dương

TP HỒ CHÍ MINH - 2023


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sỹ Nguyễn Trung Dương,
đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu
tham khảo. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả khóa luận

Tống Hồng Tuấn


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NNT

: Người nộp thuế

NPT

: Người phụ thuộc

TNCN

: Thu nhập cá nhân


GTGC

: Giảm trừ gia cảnh

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

CPI

: Chỉ số giá tiêu dùng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu đề tài ............................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài ........................................................... 4
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu ................................................................... 5
6. Bố cục tổng quát của khóa luận .........................................................................5
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH TRONG THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN ....................................................................................................... 6
1.1. Khái quát về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân ........................ 6
1.1.1. Khái niệm về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân .............6
1.1.2. Đặc điểm của giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân ............7
1.1.3. Ý nghĩa của giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân ...............9
1.2. Cơ sở ban hành giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân ..................11
1.2.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................11
1.2.2. Cơ sở thực tiễn .....................................................................................13

1.3. Yêu cầu đối với pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân
.............................................................................................................................. 16
1.3.1. Xác định đối tượng được giảm trừ gia cảnh phù hợp ........................ 16
1.3.2. Đảm bảo công bằng trong việc điều tiết thu nhập giữa những người
nộp thuế ..........................................................................................................17
1.3.3. Dung hoà lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và người nộp thuế .............. 18
1.3.4. Mức giảm trừ gia cảnh phù hợp với gia cảnh của người nộp thuế và
tình hình kinh tế, xã hội ................................................................................. 19
1.3.5. Quản lý Nhà nước đối với giảm trừ gia cảnh hợp lý, hiệu quả... .......21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .........................................................................................23
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH TRONG THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN - THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ............ 24
2.1. Thu nhập được tính giảm trừ gia cảnh ......................................................... 24
2.1.1. Quy định của pháp luật về thu nhập được tính giảm trừ gia cảnh .....24
2.1.2. Thực tiễn áp dụng quy định về thu nhập được tính giảm trừ gia cảnh ..


........................................................................................................................25
2.1.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thu nhập được tính giảm trừ gia
cảnh ................................................................................................................27
2.2. Đối tượng được giảm trừ gia cảnh ................................................................28
2.2.1. Quy định của pháp luật về đối tượng được giảm trừ gia cảnh .......... 28
2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về đối tượng được giảm trừ gia cảnh .... 31
2.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đối tượng được giảm trừ gia cảnh
........................................................................................................................35
2.3. Mức giảm trừ gia cảnh ..................................................................................38
2.3.1. Quy định của pháp luật về mức giảm trừ gia cảnh ............................ 38
2.3.2. Thực tiễn áp dụng quy định về mức giảm trừ gia cảnh ...................... 39
2.3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về mức giảm trừ gia cảnh ................ 41
2.4. Quản lý thuế đối với giảm trừ gia cảnh ........................................................43

2.4.1. Quy định của pháp luật về quản lý thuế đối với giảm trừ gia cảnh ... 43
2.4.2. Thực tiễn áp dụng quy định về quản lý thuế đối với giảm trừ gia cảnh
........................................................................................................................46
2.4.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế đối với giảm trừ gia
cảnh ................................................................................................................49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .........................................................................................51
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................... 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đơ thị hóa là xu thế phát triển tất yếu của các quốc gia trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Đơ thị hóa đã góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ
cấu nền kinh tế và cơ cấu lao động. Tuy nhiên đi cùng với sự phát triển đó, một vấn
đề được đặt ra chính là sự bất bình đẳng về thu nhập. Biểu hiện của hiện tượng này
là sự phân hóa giàu nghèo. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng được thể
hiện rõ giữa các khu vực thành thị và nơng thơn, giữa các nhóm thu nhập trong xã
hội, giữa các vùng kinh tế, giữa các địa phương,… Số người giàu đang tăng nhanh
và là nhóm người thiểu số sở hữu nhiều của cải, vật chất trong xã hội. Để hạn chế
và giải quyết hiện trạng này, pháp luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) được ban
hành có sứ mệnh quan trọng trong việc điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư,
góp phần thực hiện công bằng xã hội và tăng nguồn thu Ngân sách Nhà nước.
Thuế TNCN là loại thuế trực thu có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
mỗi quốc gia. Thuế TNCN lần đầu tiên xuất hiện ở Hà Lan (1797), rồi đến Vương
quốc Anh (1799)1 và ngày nay đã phát triển rộng rãi ở các quốc gia trên thế giới.
Sự phát triển của thuế TNCN khẳng định tầm quan trọng trong việc huy động nguồn
thu cho Ngân sách Nhà nước và là công cụ thực hiện công bằng xã hội mà còn thể
hiện sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn
thiện quy định pháp luật về thuế TNCN là rất cần thiết và mang tính cấp bách.

Nền kinh tế phát triển, thu nhập của người dân cũng được nâng cao, chính vì
vậy, thuế TNCN là loại thuế được Nhà nước và người dân quan tâm hàng đầu, là
vấn đề liên quan trực tiếp đến trách nhiệm, quyền lợi của người dân. Một trong
những nội dung thể hiện rõ nét đảm bảo cơng bằng xã hội, đó chính là quy định về
giảm trừ gia cảnh (GTGC) trong thuế TNCN. Những quy định về GTGC trong thuế
TNCN cần được quy định cụ thể và rõ ràng ở mọi khía cạnh. Tuy vậy, quy định
GTGC chỉ được quy định tại Điều 19 Luật Thuế TNCN năm 2007 (có hiệu lực
01/01/2009). Trong thực tiễn hơn 15 năm áp dụng, pháp luật về GTGC vẫn chưa
phát huy được hết “sức mạnh” và còn tồn tại rất nhiều bất cập, hạn chế mà pháp luật
chưa quy định cũng như chưa có văn bản hướng dẫn thi hành.
Với ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu chung của pháp
luật TNCN, quy định về GTGC cần được quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau để đề xuất những giải pháp và kiến nghị phù hợp. Nhận thấy, các tài liệu
Tường Nguyên (2009), “Lợi ích của việc đăng ký mã số thuế TNCN tập trung thông qua cơ quan chi trả”,
/>4E144EA34B09B66CBCE45AAE3E910008186AB8A88538479D4031E5F56403, truy cập ngày 16/6/2023
1

-1-


nghiên cứu trước đây, hầu hết đã khơng cịn phù hợp với pháp luật thuế TNCN hiện
hành. Hơn nữa, việc tạo ra nhiều cơ sở dữ liệu trong nghiên cứu về pháp luật thuế
TNCN, đặc biệt là quy định GTGC là điều rất cần thiết trong tiến trình hồn thiện
hệ thống chính sách về thuế nói chung và thuế TNCN nói riêng. Xuất phát từ những
lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quy định của pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong
thuế thu nhập cá nhân” để nghiên cứu thực hiện khóa luận tốt nghiệp với hy vọng
từ kết quả của mình sẽ chỉ ra những hạn chế, tìm ra ngun nhân và hướng khắc
phục, để có kiến nghị hoàn thiện pháp luật về GTGC trong thuế TNCN ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của GTGC trong thuế TNCN tác động rộng

rãi đến mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Trong những năm qua, quy định về GTGC
luôn là đề tài quan tâm đối với các nhà nghiên cứu, đặc biệt là những nhà nghiên
cứu về kinh tế và pháp luật. Đến thời điểm hiện nay, đã có một số cơng trình nghiên
cứu khoa học có liên quan đến vấn đề này như:
Ở cấp Thạc sĩ, về vấn đề này có các đề tài sau:
Đề tài “Quy định về giảm trừ gia cảnh trong Luật Thuế thu nhập cá nhân” của
tác giả Đặng Thị Phụng2. Theo đó, đề tài đã tập trung nghiên cứu vào việc phân tích
các yếu tố thể hiện mục tiêu và làm rõ bản chất của quy định về GTGC trong thuế
TNCN là biện pháp đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo công bằng giữa những
NNT. Tuy nhiên, đề tài chưa làm rõ thực tiễn khi áp dụng quy định GTGC.
Đề tài “Áp dụng pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân tại
tỉnh An Giang” của tác giả Lê Thị Kiều Diễm3. Theo đó, đề tài đã tập trung phân
tích quy định GTGC trên cơ sở lý luận và trình bày những hạn chế khi áp dụng quy
định GTGC vào thực tiễn để đưa ra những đề xuất hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên,
đề tài chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trên địa bàn tỉnh An Giang.
Đề tài “Xây dựng mức khấu trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân tại Việt
Nam” của tác giả Phan Thị Tố Như4. Theo đó, đề tài đã làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận cơ bản trong việc miễn thuế và khấu trừ thuế trong việc xác định thu nhập tính
thuế từ tiền lương, tiền cơng. Trên cơ sở tham khảo, tác giả đã trình bày những nội
dung liên quan dựa trên khóa luận này.
Đặng Thị Phụng (2009), Quy định về giảm trừ gia cảnh trong Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
2

Lê Thị Kiều Diễm (2022), Áp dụng pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân tại tỉnh An
Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Tôn Đức Thắng
3

Phan Thị Tố Như (2011), Xây dựng mức khấu trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam, Luận
văn Thạc sĩ Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh

4

-2-


Ở cấp Cử nhân, có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề liên quan đến GTGC,
trong đó có thể kể đến những khóa luận nổi bật sau:
Đề tài “Quy định về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân” của tác giả
Nguyễn Thị Mỹ Mỹ5. Trên cơ sở phân tích nội dung GTGC, đề tài đã nghiên cứu và
đưa ra những yêu cầu đối với pháp luật GTGC nhằm hướng đến mục tiêu chung là
đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập. Tuy vậy, đề tài chưa làm rõ việc áp
dụng quy định vào thực tiễn.
Đề tài “Vấn đề kê khai giảm trừ gia cảnh đối với cá nhân cư trú trong pháp luật
thuế thu nhập cá nhân” của tác giả Nguyễn Thu Thủy6. Đề tài đã chú trọng nghiên
cứu vấn đề kê khai GTGC đối với cá nhân cư trú trong thực tiễn trên cơ sở các quy
định của pháp luật quản lý thuế và Luật Thuế TNCN. Tuy nhiên, đề tài chỉ giới hạn
đối tượng nghiên cứu là việc kê khai GTGC.
Đề tài “Pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân” của tác giả
Lê Thị Thu Hằng7. Đề tài tập trung phân tích, đánh giá quy định của pháp luật về
GTGC trong thực tiễn và đưa ra giải pháp khắc phục hạn chế nhằm hoàn thiện quy
định về GTGC. Tuy vậy, những kiến nghị của đề tài vẫn chưa xử lý triệt để những
hạn chế hiện nay.
Đề tài “Vấn đề giảm trừ gia cảnh trong Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 Thực trạng và kiến nghị từ kinh nghiệm Nhật Bản” của tác giả Trần Thúy Mai Lan8.
Theo đó, trên cơ sở so sánh pháp luật về GTGC giữa Việt Nam và Nhật Bản, đề tài
đã đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định GTGC phù hợp với tình hình thực tế
tại Việt Nam. Tuy vậy, những giải pháp được đề xuất vẫn chưa đạt hiệu quả.
Ngồi ra, cịn có nhiều ý kiến xung quanh đến quy định GTGC được trình bày
trên các bài báo, tạp chí. Điển hình như các bài viết “Một số vấn đề về giảm trừ gia
cảnh và kê khai giảm trừ gia cảnh trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt
Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Mai Dung đăng trên Tạp chí Tịa án nhân

dân số 04/2017, “Về giảm trừ gia cảnh trong luật thuế thu nhập cá nhân nhìn từ góc
Nguyễn Thị Mỹ Mỹ (2021), Quy định về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân, Khóa luật tốt
nghiệp Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
5

Nguyễn Thu Thủy (2015), Vấn đề kê khai giảm trừ gia cảnh đối với cá nhân cư trú trong pháp luật thuế
thu nhập cá nhân, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Hà Nội
6

Lê Thị Thu Sang (2009), Pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân, Khóa luận tốt
nghiệp Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
7

Trần Thúy Mai Lan (2012), Vấn đề giảm trừ gia cảnh trong Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 - Thực
trạng và kiến nghị từ kinh nghiệm Nhật Bản, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Hà
Nội
8

-3-


độ bình đẳng giới” của tác giả Nguyễn Thị Lan đăng trên Tạp chí Luật học Trường Đại học Luật Hà Nội số 03/2008, “Bàn về vấn đề giảm trừ thu nhập khi tính
thuế thu nhập cá nhân” của tác giả Trần Minh Hiệp đăng trên Tạp chí Cơng thương
số 07 - tháng 06/2017, “Thực trạng chính sách giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu
nhập cá nhân ở Việt Nam” của tác giả Bùi Thị Mến đăng trên Tạp chí Khoa học &
Đào tạo Ngân hàng số 233 - Tháng 10.2021...
Có thể thấy, các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài khá phong phú, giúp
tác giả có cái nhìn tổng quan, bao quát từ vấn đề lý luận cơ bản cho đến việc áp
dụng quy định GTGC trong thực tiễn thời gian ở Việt Nam. Trên cơ sở những kết
quả đạt được của những nghiên cứu trước đó, tác giả kế thừa những giá trị về lý

luận và quan điểm hồn thiện pháp luật thuế TNCN nói chung, quy định GTGC nói
riêng. Đồng thời, tác giả cũng phát triển thêm một số nội dung lý luận cơ bản trong
việc xây dựng quy định GTGC và có những đánh giá thực trạng quy định pháp luật
trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay. Bên cạnh những thực trạng, tác giả lựa
chọn và thực hiện đề tài này trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang dần phục hồi
sau đại dịch Covid-19 để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện phù hợp trong việc áp
dụng GTGC trong thuế TNCN ở Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Với đề tài “Quy định của pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập
cá nhân”, tác giả tiến hành nghiên cứu làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình với
mục đích sau:
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu quy định về GTGC trong thuế TNCN tại Việt
Nam, tác giả đề xuất những kiến nghị hoàn thiện có căn cứ khoa học nhằm phát huy
vai trị của quy định GTGC trong thực tế một cách chính xác và phù hợp, góp phần
đảm bảo cơng bằng xã hội và đóng góp nguồn thu vào Ngân sách Nhà nước.
Thứ hai, khóa luận này sẽ trở thành tài liệu tham khảo có giá trị đối với sinh
viên, nhà nghiên cứu luật nói chung và những người quan tâm, mong muốn tìm hiểu
về thuế TNCN, đặc biệt là quy định về GTGC.
Thứ ba, với những đề xuất hoàn thiện pháp luật về quy định GTGC, tác giả hy
vọng rằng những đề xuất này sẽ có giá trị tham khảo nhất định đối với các nhà lập
pháp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc hồn thiện và áp dụng Luật Thuế
TNCN vào thực tiễn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu

-4-


Đề tài khóa luận nghiên cứu quy định GTGC trong thuế TNCN và thực tiễn áp
dụng, trong đó tập trung vào các đối tượng sau:

Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận cơ bản để xây dựng pháp luật thuế TNCN nói
chung và quy định về GTGC nói riêng.
Hai là, tiến hành phân tích, đánh giá quy định về GTGC trên cơ sở lý luận đã
được nghiên cứu.
Ba là, nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định về GTGC trong thuế TNCN
và đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm khắc phục những vướng mắc,
hạn chế còn tồn tại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung:
Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận, tác giả tập trung phân tích nội dung
quy định GTGC trong thuế TNCN, bao gồm: thu nhập được tính GTGC, đối tượng
được GTGC, mức GTGC và công tác quản lý thuế liên quan.
- Phạm vi về khơng gian:
Đề tài khóa luận nghiên cứu thực trạng áp dụng quy định về GTGC trong thuế
TNCN ở Việt Nam.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Để khóa luận đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả lựa chọn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng nội dung khóa luận.
Chương 1: Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, lịch sử, tổng hợp
và so sánh để trình bày những lý luận cơ bản về GTGC trong thuế TNCN bao gồm
việc khái quát về GTGC, cơ sở ban hành quy định và yêu cầu đối với pháp luật về
GTGC trong thuế TNCN.
Chương 2: Tác giả sử dụng các phương pháp phân tích, thống kê, đánh giá đồng
thời kết hợp với phương pháp so sánh, đối chiếu nhằm nêu lên thực trạng, hạn chế
của việc áp dụng pháp luật về GTGC trong thuế TNCN, đồng thời qua đó tác giả có
những kiến nghị hồn thiện pháp luật về quy định GTGC.
6. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, các phần tiểu kết, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo thì khóa luận này gồm 02 Chương:
Chương 1. Lý luận về giảm trừ gia cảnh trong thuế thuế thu nhập cá nhân.

Chương 2. Quy định về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân - Thực
trạng và kiến nghị hoàn thiện.
-5-


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH TRONG THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN
1.1. Khái quát về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân
1.1.1. Khái niệm về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân
Hiện nay, thuật ngữ “giảm trừ gia cảnh” rất ít được sử dụng trong các văn bản
của các quốc gia trên thế giới. Tuy vậy, pháp luật của các quốc gia tồn tại nhiều
cách hiểu khác nhau về việc khấu trừ khoản thuế phải nộp dựa trên cơ sở có xem xét
đến hoàn cảnh, mức chi tiêu của người nộp thuế (NNT) như Hoa Kỳ9 và Nhật
Bản10 quy định việc khấu trừ tiêu chuẩn vào thu nhập của cá nhân hoặc Singapore
dù không đưa ra quy định cụ thể nhưng gián tiếp quy định các khoản giảm trừ cho
cá nhân thông qua việc quy định về thu nhập chịu thuế11. Như vậy, tựu chung lại
hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về GTGC trên thế giới.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “giảm trừ gia cảnh” lần đầu tiên được quy định tại Luật
Thuế TNCN năm 2007. Theo đó, để có khái niệm đầy đủ về GTGC, cần xem xét
quy định này dưới các góc độ sau:
Xét về mặt kinh tế - xã hội, GTGC là các khoản giảm trừ mang tính chất chi
trợ cho NNT như chi phí sinh hoạt, y tế,... cũng như tạo điều kiện cho NNT thực
hiện các nghĩa vụ vật chất mang tính đạo đức đối với người thân thuộc. Qua đó, góp
phần tái tạo sức lao động, tạo động lực làm việc cho người lao động và củng cố tình
đồn kết, tương trợ giữa các thành viên trong gia đình, giảm bớt gánh nặng xã hội
cho Nhà nước.
Xét về mặt pháp lý, hầu hết trong các cơng trình nghiên cứu về quy định
GTGC và Luật Thuế TNCN đều phân tích dưới góc độ khái quát lại khái niệm đã
được quy định trong luật. Do vậy, các nhà nghiên cứu đều chấp nhận khái niệm mà
các nhà làm luật đưa ra. Theo đó, căn cứ tại khoản 4 Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của các Luật về thuế năm 201412 thì có thể hiểu GTGC là “số tiền
được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ tiền
lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú”.
"United States, Individual - Deductions”, />s, truy cập ngày 18/6/2023
9

“Japan, Individual - Deductions”, truy cập
ngày 18/6/2023
10

“Singapore, Individual - Deductions”, />truy cập ngày 18/6/2023
11

Khoản 4 Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế (Luật số 71/2014/QH13) ngày
26/11/2014
12

-6-


Xét về mặt ngữ nghĩa, thì “gia cảnh” là hồn cảnh gia đình, cảnh nhà13, cịn
“giảm trừ” là làm cho trở nên ít đi về số lượng, mức độ, bớt đi một phần khỏi tổng
số14. Như vậy, GTGC được sử dụng trong Luật Thuế TNCN được hiểu là một hành
động của Nhà nước trước hoàn cảnh của NNT. Mặc dù vậy, Luật Thuế TNCN hiện
hành lại quy định “Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ...”, khái niệm này không
dựa trên cơ sở ngữ nghĩa, mà chỉ nêu ra cách thức giảm trừ và đối tượng được giảm
trừ. Đây là những quy định “chủ quan”, được xây dựng trên cơ sở ý chí của Nhà
nước và có thể thay đổi bất cứ thời điểm nào phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của Nhà
nước. Nếu đánh giá một cách trực quan, khái niệm trên chỉ hướng tới mục tiêu cuối
cùng là việc quản lý thuế. Do vậy, khái niệm GTGC được quy định hiện nay chỉ là

khái niệm mang tính chất quản lý xã hội và khơng mang tính chất học thuật. Theo
quan điểm của tác giả, khái niệm như luật định hiện nay là chưa chuẩn xác nếu bình
luận dưới góc độ khoa học pháp lý.
Dựa trên những phân tích về ngữ nghĩa và bản chất của chế định GTGC, tác giả
đưa ra khái niệm về GTGC như sau: “Giảm trừ gia cảnh là sự hỗ trợ của Nhà
nước đối với người nộp thuế dựa trên hoàn cảnh của họ khi tính thuế”.
1.1.2. Đặc điểm của giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân
Theo Luật Thuế TNCN hiện hành, GTGC có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, việc tính GTGC chỉ áp dụng đối với NNT là cá nhân cư trú.
Một trong những căn cứ để xác định NNT chính xác, đó chính là dựa trên tình
trạng cư trú hoặc không cư trú của NNT. Việc xác định tình trạng cư trú của NNT
khơng ảnh hưởng đến quốc tịch hoặc tình hình cư trú hợp pháp của NNT nhưng có
tác động đến số thuế mà họ phải nộp. Cụ thể, tùy vào tình hình, điều kiện ở mỗi
quốc gia mà quốc gia đó chỉ cho phép cá nhân cư trú mới được hưởng GTGC hoặc
cho phép cả cá nhân cư trú và không cư trú đều được hưởng GTGC. Ở Việt Nam,
việc tính GTGC chỉ áp dụng đối với NNT là cá nhân cư trú. Quy định này xuất phát
từ những nguyên nhân sau:
Một là, do có sự khác biệt về kỳ tính thuế đối với cá nhân cư trú và cá nhân
không cư trú. Theo quy định, kỳ tính thuế đối với cá nhân cư trú là kỳ tính thuế theo
năm, cịn kỳ tính thuế đối với cá nhân khơng cư trú là kỳ tính thuế theo từng lần
phát sinh thu nhập15. Hơn nữa, mức thuế suất áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương,
TS. Chu Bích Thu, PGS.TS. Nguyyễn Ngọc Trâm, TS. Nguyễn Thị Thanh Nga, TS. Nguyễn Thúy Khanh,
TS. Nguyễn Việt Hùng (2002), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, Viện ngôn ngữ học, TP.Hồ Chí Minh, tr.338
13

TS. Chu Bích Thu, PGS.TS. Nguyyễn Ngọc Trâm, TS. Nguyễn Thị Thanh Nga, TS. Nguyễn Thúy Khanh,
TS. Nguyễn Việt Hùng, tlđd (2), tr.440
14

15


Điều 7 Luật Thuế TNCN (Luật số 04/2007/QH12) ngày 21/11/2007
-7-


tiền công của hai đối tượng trên là khác nhau, cá nhân cư trú sẽ được tính thuế theo
biểu thuế lũy tiến từng phần16, cịn cá nhân khơng cư trú sẽ được tính bằng mức
thuế suất tương đối cố định. Chính vì vậy, cá nhân cư trú sẽ có lợi hơn trong việc
thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước.
Hai là, do cá nhân cư trú là những người sinh sống, có mặt, có nơi ở và làm
việc tương đối dài tại Việt Nam. Trong khoảng thời gian này, họ lao động, làm việc,
có những đóng góp vào giá trị nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Do đó, áp dụng
GTGC cho cá nhân cư trú là hợp lý, đáp ứng yêu cầu về đảm bảo công bằng trong
điều tiết thu nhập giữa những NNT cũng như dung hịa lợi ích giữa NNT và Nhà
nước. Trong khi đó, các cá nhân khơng cư trú khơng có mặt tại Việt Nam trong một
khoảng thời gian theo luật định hoặc khơng có nơi ở thường xun ở Việt Nam nên
rất khó có thể kiểm sốt những nguồn thu nhập này cũng như kiểm tra tính xác thực
hồn cảnh cụ thể đối với những đối tượng này.
Thứ hai, GTGC chỉ áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền cơng.
Thu nhập của cá nhân có thể có được từ nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên,
không phải loại thu nhập nào cũng được GTGC mà tùy theo quốc gia, tùy giai đoạn
và điều kiện cụ thể mà Luật Thuế TNCN của các quốc gia quy định rõ ràng những
khoản thu nhập nào của cá nhân sẽ được tính GTGC. Đơn cử như ở Hoa Kỳ, hệ
thống thuế liên bang cho phép tính GTGC cho thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau,
bao gồm lợi nhuận từ đầu tư, thu nhập từ cho thuê bất động sản, và một số khoản
chi phí nhất định17. Hoặc ở Bồ Đào Nha, GTGC được áp dụng cho các khoản từ các
nguồn như lương, công việc tự do, các khoản lợi nhuận đầu tư, và các khoản thu
nhập khác18. Tại Việt Nam, GTGC được tính đối với thu nhập từ tiền lương, tiền
công của NNT và được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế19.
Pháp luật hiện nay chỉ quy định duy nhất thu nhập từ tiền lương, tiền công được

GTGC xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Một là, xuất phát từ bản chất của GTGC. Đây là sự chia sẻ gánh nặng về thuế
mà Nhà nước dành cho NNT, là khoản tiền giảm trừ cần cho việc tái tạo sức lao
động. Vì vậy, khoản tiền giảm trừ cần được trừ vào nguồn thu nhập thường xuyên,
liên tục, ổn định để duy trì cuộc sống và mang tính quyết định đối với NNT.
16

Điều 14 Nghị định 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/06/2013

17

Điều 151 Đạo Luật Thuế Liên bang năm 1986 (Hoa Kỳ)

18

Khoản 4 Điều 78 Nghị định Luật số 14/2013 quy định về GTGC (Bồ Đào Nha)

Khoản 4 Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế (Luật số 71/2014/QH13) ngày
26/11/2014
19

-8-


Hai là, căn cứ vào tính chất nguồn phát sinh thu nhập. Tiền lương, tiền cơng là
nguồn thu nhập có tính phổ biến trong xã hội và đồng thời cũng là khoản thu nhập
có thể tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Nguồn thu nhập này giúp NNT đáp ứng
các nhu cầu cơ bản của bản thân trong cuộc sống và chăm lo cho gia đình. Giảm trừ
vào tiền lương, tiền cơng vừa đáp ứng mục đích của pháp luật GTGC, vừa đảm bảo
lợi ích của NNT.

Trước đây, thu nhập được tính GTGC ngồi thu nhập từ tiền lương, tiền cơng
cịn có thu nhập từ kinh doanh. Tuy nhiên, khoản 4 Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của các luật về thuế 2014 đã bãi bỏ các quy định liên quan đến việc xác
định thuế đối với cá nhân kinh doanh quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Thuế
TNCN. Bởi lẽ, thực tiễn khi áp dụng quy định này cho thấy, đại đa số các cá nhân
kinh doanh không thực hiện chế độ kế tốn, hóa đơn, chứng từ dẫn đến cơng tác
tính thuế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, quy định loại trừ thu nhập từ kinh doanh
khơng được GTGC đảm bảo chính sách đơn giản, nâng cao hiệu quả trong công tác
quản lý thuế, tính tuân thủ pháp luật của cán bộ, cơng chức, cá nhân kinh doanh, tiết
kiệm chi phí xã hội.
Bên cạnh đó, các nguồn thu nhập khơng thường xun cũng khơng được tính
GTGC. Thu nhập khơng thường xun là những khoản thu nhập khơng mang tính
đều đặn và ổn định20. Theo đó, thu nhập khơng thường xun là thu nhập từ đầu tư
vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản, trúng thưởng, bản quyền,
nhượng quyền thương mại, thừa kế, quà tặng21. Nguyên nhân thu nhập không
thường xuyên không được tính GTGC xuất phát từ tính chất của nguồn thu nhập
này đối với NNT. Theo đó, những thu nhập này xuất phát bất ngờ, ngẫu nhiên mà
NNT không biết được (từ trúng thưởng, q tặng,...). Chính vì vậy, nhiều quan điểm
cho rằng, những khoản thu nhập này không phải là nguồn thu nhập chủ yếu nhằm
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của NNT. Hay nói cách khác, NNT khơng thể duy trì
cuộc sống bằng những khoản thu nhập này. Mặc dù, thông thường thu nhập từ
những khoản này cao hơn rất nhiều so với tiền lương, tiền công nhưng nó khơng
mang tính ổn định, lâu dài. Hơn nữa, cách tính thuế đối với những khoản thu nhập
này khác với cách tính thuế đối với tiền lương, tiền cơng. Nếu những thu nhập này
cũng được trừ khi tính thuế GTGC sẽ làm hoạt động tính thuế trở nên phức tạp, rối
rắm hơn.
1.1.3. Ý nghĩa của giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Thuế (tái bản có bổ sung), NXB Hồng
Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.332
20


21

Quy định tại các khoản 3 đến khoản 10 Điều 3 Luật Thuế TNCN hiện hành
-9-


Việc pháp luật thuế TNCN ghi nhận quy định GTGC đã thể hiện sự phát triển
của pháp luật Việt Nam, nhất là trong bối cảnh tồn cầu hóa, địi hỏi phải có sự
tương thích pháp luật với các quốc gia khác. Khơng dừng lại ở đó, quy định GTGC
cịn mang lại ý nghĩa không chỉ đối với NNT và mà còn đối với Nhà nước.
Đối với người nộp thuế: GTGC là biện pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm tái tạo
sức lao động của người chịu thuế. Đây là điều cần thiết để loại bỏ nguy cơ đánh
thuế vào sinh lực của con người, biến thuế TNCN trở thành một thứ thuế thân,
mang tính chất bóc lột22. Qua đó, tạo điều kiện cho người lao động có năng suất cao
hơn hoặc chí ít khơng thấp hơn mức trước đó, khuyến khích người lao động tiếp tục
lao động, sản xuất, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế trong nước.
Ngồi ra, GTGC cịn là một quy định mang tính nhân đạo cao. Bởi vì, người lao
động tạo ra thu nhập không chỉ phục vụ cho sự tồn tại của chính bản thân mà cịn
thực hiện các nghĩa vụ vật chất mang tính đạo đức đối với người thân thuộc. Điều
này mang ý nghĩa đặc biệt, khi Việt Nam là một quốc gia phương Đơng với nền văn
hóa lâu đời và mang tư tưởng “trọng tình”, đề cao những mối quan hệ trong gia
đình. Việc cá nhân khơng hồn thành nghĩa vụ vật chất đối với thành viên trong gia
đình, trong đó trách nhiệm ni dưỡng (cha mẹ đối với con cái, anh chị đối với
em...) và báo hiếu (con cái đối với cha mẹ) là nghĩa vụ cơ bản sẽ bị cả xã hội lên án,
coi đây là hành vi đáng trách. Chính vì vậy, việc quy định GTGC thêm một khoản
chi phí mà NNT phải chu cấp cho NPT chính là biện pháp hỗ trợ quan trọng để họ
thực hiện nghĩa vụ ni dưỡng gia đình.
Đối với Nhà nước: GTGC đối với cá nhân chịu thuế và NPT có ý nghĩa mạnh
mẽ trong việc giảm áp lực tâm lý của người chịu thuế, tạo sự an tâm cho người lao

động tạo ra của cải, vật chất. Vì vậy, việc áp dụng GTGC trong thuế TNCN sẽ nhận
được đồng tình, ủng hộ của đại bộ phận dân cư. Từ đó, NNT nhận thức được sự
cơng bằng của pháp luật, ý thức được trách nhiệm của cá nhân đối với xã hội, ln
vững tin vào pháp luật, chính sách của Nhà nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, cơng bằng, văn minh23. Đó cũng là phương pháp hữu hiệu để “nuôi dưỡng
nguồn thu” lâu dài cho Ngân sách Nhà nước.
Ở phương diện khác, việc áp dụng mức chịu thuế TNCN với mục tiêu loại trừ
những NNT có thu nhập thấp ra khỏi diện nộp thuế, nhằm giảm bớt gánh nặng cho
cơ quan thuế trong việc bố trí nhân lực thực hiện công tác quản lý thuế, nhất là
22

Lê Thị Kiều Diễm, tlđd (5), tr.18

Ban Biên tập (2022), “Một số khẩu hiệu tuyên truyền trong nhiệm kỳ về Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng”, />uyet-dai-hoi-xiii-cua-dang-744.html, truy cập ngày 15/6/2023
23

- 10 -


trong bối cảnh hiện nay khi các ban, ngành đang thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức. Việc quy định chế định GTGC cũng đem lại lợi ích
kinh tế đối với Nhà nước trong việc tiết kiệm Ngân sách trả lương cho bộ máy cán
bộ, cơng chức, góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho người dân.
Như vậy, việc quy định và thực hiện GTGC không chỉ mang lại ý nghĩa đối với
đời sống - xã hội mà còn góp phần tăng cường vai trị của Nhà nước trong công tác
quản lý thuế và phát triển kinh tế, xây dựng vị thế của quốc gia. Tuy nhiên, cần phải
có những quy định chặt chẽ và hợp lý hơn trong luật và cơ chế quản lý thuế hiệu
quả để thể hiện được vai trò và ý nghĩa của GTGC trong cuộc sống.

1.2. Cơ sở ban hành giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân
1.2.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, GTGC được xây dựng trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc công bằng
trong việc ban hành và thực thi pháp luật thuế
Sự phân hóa giàu nghèo ln tồn tại trong bất kỳ xã hội nào, sự phân hóa càng
thể hiện rõ nét hơn trong nền kinh tế thị trường với những quy luật vốn có: quy luật
cung - cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá cả,... Nền kinh tế thị trường càng phát
triển, khoảng cách giàu nghèo càng có xu hướng tăng, kéo theo sự khác biệt nhu cầu
về mức sống, mức thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Khi đó, thuế TNCN trở thành
một biện pháp tái lập sự cân bằng về phân phối của cải trong xã hội bị mất bởi
nhiều yếu tố tác động vào quá trình tạo ra thu nhập của con người: học vấn, tài năng,
môi trường sống, quan hệ xã hội thuận lợi,... Vì vậy, thuế TNCN ra đời bắt nguồn
từ yêu cầu đảm bảo sự công bằng trong điều tiết thu nhập.
Nguyên tắc công bằng trong Luật Thuế TNCN được hiểu là những định hướng
về việc xác định nội dung, yêu cầu trong các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo
việc thu thuế hợp lý dựa trên khả năng chi trả của NNT. Theo đó, có xem xét, cân
nhắc đến việc NNT không cùng mức thu nhập, điều kiện và hồn cảnh sống khác
nhau sẽ có nghĩa vụ nộp các khoản tiền thuế khác nhau, người có điều kiện tốt hơn
sẽ phải nộp mức thuế nhiều hơn và những người có điều kiện, hồn cảnh sống, mức
thu nhập ngang nhau sẽ nộp thuế bằng nhau24.
Như vậy, để đảm bảo nguyên tắc công bằng, yêu cầu đặt ra là phải tạo ra được
tính cơng bằng thật sự trong quy định về mức thu nhập bị điều tiết thuế TNCN và sự
Phan Phương Nam (2018), “Vận dụng nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế tài sản”, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, số 15 (367), tháng 8/2018, tiet.aspx?tintucid=207292,
truy cập ngày 12/4/2023
24

- 11 -



cơng bằng trong q trình áp dụng và thực hiện thuế25. Những quy định về GTGC
cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Việc xây dựng và ban hành quy định về
GTGC, những chủ thể nào được giảm trừ, giảm trừ bao nhiêu, điều kiện được giảm
trừ như thế nào,... phải được dựa trên cơ sở đảm bảo tính cơng bằng. Thơng qua
việc biết được hồn cảnh, nhân thân, điều kiện kinh tế của NNT, Nhà nước đặt ra
các khoản GTGC của cá nhân trước khi xác định thu nhập khởi điểm chịu thuế, để
đảm bảo cho sự tồn tại, tái sản xuất lao động và thực hiện các nghĩa vụ khác mà
NNT có trách nhiệm.
Nhìn chung, GTGC khơng phải là chế định mới mà đã được hình thành và thể
hiện trong quy định pháp luật của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, phụ thuộc vào đặc
điểm kinh tế, xã hội, trình độ quản lý ở mỗi quốc gia mà có những cách quy định
khác nhau. Ở nhiều quốc gia, trong biểu thuế quy định miễn trừ cho một ngưỡng thu
nhập coi như mức khởi điểm tính thuế (ví dụ như Đài Loan quy định mức khởi
điểm tính thuế cho cá nhân cư trú là 92.000 TWD26 hay tại Na Uy quy định mức
khởi điểm tính thuế 73.100 NOK cho cá nhân27). Có thể thấy, cách tính thuế xem
xét đến yếu tố gánh nặng gia đình thường đảm bảo cơng bằng hơn giữa những NNT
độc thân hay phải nuôi dưỡng NPT, dễ tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ các tầng
lớp dân cư. Ở nước ta, Luật Thuế TNCN áp dụng cách tính thuế có xem xét đến yếu
tố gánh nặng gia cảnh. Chính nhờ điều này, Luật Thuế TNCN có điều kiện để điều
tiết một cách phù hợp và công bằng hơn, quản lý thuế TNCN cũng đạt hiệu quả và
tính khả thi cao hơn.
Thứ hai, việc xây dựng và ban hành quy định GTGC xuất phát từ quyền sống,
quyền hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống
Quyền sống là quyền cơ bản của con người. Quyền sống được quy định tại Điều
3 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) năm 1948 và được cụ thể
hóa tại Điều 6 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) năm
1966. Theo đó, “mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải
được pháp luật bảo vệ. Khơng ai có thể bị tước mạng sống một cách tuỳ tiện”. Ủy
ban Quyền con người (UNHRC) - cơ quan giám sát thực hiện ICCPR giải thích rõ
hơn: Quyền sống là “một quyền cơ bản của con người mà trong bất cứ hoàn cảnh

Phan Phương Nam (2006), Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế TNCN, Luận văn Thạc sỹ, Trường
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 90
25

“Taiwan, Individual - Deductions”, truy cập
ngày 15/6/2023
26

“Norway, Individual - Deductions”, truy
cập ngày 15/6/2023
27

- 12 -


nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia, cũng không thể bị vi phạm...”. Ở
Việt Nam, quy định này đã được kế thừa và chỉ rõ “mọi người có quyền sống”28.
Tuy vậy, quyền sống khơng nên hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là sự tồn vẹn về tính mạng
mà phải hiểu quyền này bao gồm cả những khía cạnh nhằm bảo đảm sự tồn tại của
con người. Theo cách tiếp cận đó, việc bảo đảm quyền sống là đảm bảo mức sống
đủ và cải thiện thu nhập người dân. Việc đảm bảo mức sống đủ bao gồm các khía
cạnh về ăn, mặc, ở và các điều kiện cần thiết để bảo vệ sức khỏe nhằm đảm bảo
quyền tồn tại của con người. Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, quyền sống và có
mức sống đủ ở Việt Nam đã được thể chế hóa cụ thể trong hệ thống pháp luật, chính
sách về kinh tế và xã hội như Bộ Luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, chính sách
giảm nghèo,... Trong đó, quy định về GTGC là phương pháp chiết giảm trực tiếp
đối với thu nhập của NNT, tạo một khoản thu nhập để họ có đủ kinh phí để thực
hiện quyền sống trong xã hội.
Quyền hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống lần đầu tiên được đề cập trong khoản 1
Điều 25 UDHR, trong đó nêu rằng “mọi người đều có quyền được hưởng một mức

sống thích đáng, đủ để bảo đảm sức khỏe và phúc lợi của bản thân và gia đình”.
Quy định trên đã được tái khẳng định và cụ thể hóa trong Điều 11 Cơng ước quốc tế
về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR): “Các quốc gia thành viên Công
ước thừa nhận quyền của mọi người được có một mức sống thích đáng cho bản
thân và gia đình mình, bao gồm các khía cạnh về ăn, mặc, nhà ở, và được không
ngừng cải thiện điều kiện sống. Các quốc gia thành viên phải thi hành những biện
pháp thích hợp để bảo đảm việc thực hiện quyền này và vì mục đích đó, thừa nhận
tầm quan trọng thiết yếu của hợp tác quốc tế dựa trên sự tự do chấp thuận”. Như
vậy, quyền hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống là tập hợp của các quyền liên quan đến
việc bảo đảm những điều kiện cơ bản của cuộc sống như ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế...,
trong đó, quan trọng nhất là quyền có đủ lương thực, thực phẩm và quyền có tài sản.
Nhìn chung, Việt Nam luôn nỗ lực để đảm bảo quyền con người, trong đó, giá
trị cốt lõi nhất là quyền sống, quyền hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống phù hợp với
điều kiện thực tế của Việt Nam. Việc xây dựng và ban hành quy định GTGC phải
hướng trọng tâm vào quyền con người, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật
chất, bảo đảm những nhu cầu tối thiểu của con người là ăn, ở, mặc, học tập, y tế,...
Có như vậy, quy định GTGC mới thể hiện được vai trò đảm bảo quyền con người
trong đời sống - xã hội.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
28

Điều 19 Hiến pháp nước CHXNCNVN ngày 20/11/2013
- 13 -


Một là, quy định GTGC được xây dựng trên cơ sở đảm bảo trách nhiệm của
công dân với những người mà họ có nghĩa vụ ni dưỡng
Theo khoản 2 Điều 3 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 nêu rõ “gia đình là
tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan
hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau”. Xuất phát

từ khái niệm này, các thành viên gia đình ln gắn bó, chăm sóc, ni dưỡng và phụ
thuộc vào nhau cả về tinh thần lẫn vật chất. Về mặt đạo lý và pháp lý, công dân
trước khi làm nhiệm vụ với xã hội phải hoàn thành nghĩa vụ và trách nhiệm đối với
gia đình. Vì vậy, khơng có bất kỳ ngun nhân gì trước khi nộp thuế cho Nhà nước,
NNT lại khơng có quyền dùng thu nhập chính đáng của mình để chu cấp cho người
thân thích và những nhu cầu thiết yếu khác của chính bản thân họ. Do vậy, việc tách
rời gia đình với cá nhân ra khỏi mối quan hệ xác định thuế TNCN là không thỏa
đáng.
Trước đây, trong nền kinh tế tập thể XHCN, mọi sản phẩm được tạo ra đều là
của chung và những cá nhân không phân biệt gia đình, tầng lớp đều được sự quan
tâm của tập thể như nhau theo quan điểm phân phối bình đẳng. Ngày nay, khi nền
kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN, thì tính chất tư hữu về tài sản
trong xã hội ngày càng gia tăng theo thành quả lao động khác nhau của từng cá
nhân, từng công dân. Và việc chia sẻ những thành quả đó là việc làm đầu tiên và
cần thiết giữa các thành viên trong một gia đình. Chính vì vậy, các nhà lập pháp
xem đây là cơ sở để đưa quy định GTGC vào hệ thống pháp luật thuế nhằm động
viên một khoản thu nhập của dân cư vào Ngân sách Nhà nước có xét đến yếu tố gia
cảnh cụ thể của từng người, phù hợp với phong tục, văn hóa và truyền thống của
nhân dân ta, có như vậy mới hợp lịng dân, pháp luật đảm bảo tính thực thi và mang
hơi thở của cuộc sống nhiều hơn, dễ đi vào thực tiễn hơn29.
Hai là, GTGC được xây dựng dựa vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội,
mức thu nhập bình quân đầu người và mức chi tiêu bình quân đầu người
Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở quan trọng để hình thành nên quy
định GTGC. Bởi vì, cuộc sống của NNT và gia đình của họ luôn gắn liền với một
nền kinh tế - xã hội nhất định, chịu tác động, chi phối trực tiếp từ điều kiện - kinh tế
xã hội đó, mức thu nhập và mức chi tiêu cho đời sống cũng phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể. Chính vì vậy, điều kiện kinh tế - xã hội là cơ sở xây dựng
quy định GTGC có thể được xem xét ở phạm vi rộng là phạm vi quốc gia hoặc
phạm vi hẹp hơn là phạm vi vùng, miền nhất định.
29


Lê Thị Thu Sang, tlđd (11), tr.13
- 14 -


Bên cạnh đó, mức chi tiêu cuộc sống hàng ngày của NNT và gia đình cịn chịu
sự ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau như quan hệ cung - cầu, tỷ lệ lạm phát,
tình hình giá cả,... nên dù cùng sinh sống tại một quốc gia nhưng mức chi phí ở các
địa phương khác nhau và trong điều kiện, hồn cảnh, thời điểm khác nhau là khác
nhau. Vì vậy, ngồi việc căn cứ vào những tiêu chí chung để xác định mức GTGC
áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước, Nhà nước cịn cần tính đến việc đảm bảo
quyền lợi chính đáng của NNT và gia đình của họ trong một số trường hợp nhất
định.
Phần lớn các quốc gia trên thế giới căn cứ vào mức thu nhập bình quân đầu
người để quy định mức GTGC áp dụng chung, theo nguyên tắc mức GTGC phải
bằng hoặc cao hơn mức thu nhập bình quân đầu người của quốc gia. Đơn cử ở một
số quốc gia như Thái Lan, mức GTGC bằng 1,66 lần thu nhập bình quân đầu người.
Ở Indonesia, mức GTGC tương đương 1,88 lần thu nhập bình quân đầu người. Ở
Malaysia, mức GTGC tương đương 0,66 lần thu nhập bình qn đầu người30. Có
thể thấy, về ngun tắc chung, mức thu nhập bình qn đầu người ln cao hơn
mức chi tiêu bình quân đầu người. Do vậy, việc quy định mức GTGC theo mức thu
nhập bình quân đầu người là theo hướng có lợi cho NNT và gia đình của họ.
Ngồi ra, một số quốc gia cịn căn cứ vào mức chi tiêu thực tế của NNT và gia
đình để tính GTGC. Chẳng hạn, tại Hà Lan quy định NNT có thể yêu cầu khấu trừ
một khoản chi phí thực tế liên quan đến hồn cảnh cá nhân và gia đình của họ như
tiền ni dưỡng, chi phí giáo dục, chi phí y tế...31 Hoặc tại Pháp, tiền nuôi dưỡng
NPT là cha mẹ, ông bà, con dưới 18 tuổi hoặc con đã lập gia đình được coi là khoản
khấu trừ vào thu nhập (có giới hạn NPT là con) với điều kiện NNT đang cần và
chứng minh được nhu cầu đó32. Việc GTGC là giảm trừ các khoản chi tiêu cho
những nhu cầu sinh hoạt trong cuộc sống của bản thân NNT và gia đình của họ, do

đó, việc dựa trên cơ sở mức chi tiêu thực tế của NNT, gia đình của họ để tính
GTGC là hợp lý và chính xác nhất. Tuy vậy, cơ quan thuế không thể tiến hành kiểm
tra, xác minh một cách chi tiết các nội dung liên quan đến các khoản chi tiêu chi tiết
của NNT và gia đình của họ. Chính vì vậy, việc căn cứ vào mức chi tiêu thực tế của
NNT và gia đình của họ để tính GTGC chỉ được áp dụng ở chừng mực nhất định và
Lê Xuân Trường (2020), “Điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh điều tiết thu nhập công bằng giữa các tầng
lớp dân cư”, />truy cập ngày 17/4/2023
30

“Netherlands, Individual - Deductions”, />truy cập ngày 17/6/2023
31

“France, Individual - Deductions”, truy cập
ngày 17/6/2023
32

- 15 -


địi hỏi phải có những tài liệu chứng minh. Những phương pháp tính GTGC trên
thường chỉ được áp dụng ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao,
hệ thống lưu trữ và kiểm soát thông tin tốt.
1.3. Yêu cầu đối với pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá
nhân
1.3.1. Xác định đối tượng được giảm trừ gia cảnh phù hợp
Vấn đề xác định đối tượng GTGC là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong nội
dung của quy định GTGC. Nếu đối tượng GTGC không được xác định đúng và đủ
thì sẽ dẫn đến các sai sót trong q trình tính tốn thuế và cũng sẽ gây ra rắc rối
trong công tác thi hành pháp luật. Hơn nữa, việc xác định chính xác đối tượng
GTGC là nền tảng để đảm bảo sự công bằng trong việc áp dụng Luật Thuế TNCN

vào đời sống.
Theo quy định hiện nay, đối tượng được hưởng GTGC gồm hai chủ thể là NNT
và NPT. Trong đó, việc xác định người giảm trừ là NNT là điều đơn giản và rõ ràng,
vì chính họ là người thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, trong khi đó việc xác
định NPT là rất khó khăn và phức tạp.
Các tiêu chí xác định NPT hiện nay có thể kể đến như: Hôn nhân, huyết thống,
trách nhiệm nuôi dưỡng. Khi xác định NPT dựa vào mối quan hệ hôn nhân, NPT có
thể bao gồm vợ hoặc chồng của NNT. Khi xác định NPT dựa trên vào quan hệ
huyết thống, NPT có thể bao gồm ít nhất ba thế hệ ông bà - cha mẹ - con cái, trong
đó thế hệ thứ hai cịn có thể bao hàm cơ, cậu, dì, chú, bác,... của NNT33. Có thể thấy,
việc xác định NPT chỉ dựa trên những tiêu chí này thì việc xác định NPT sẽ khó
thực hiện bởi phạm vi quá rộng.
Theo đó, để đảm bảo yêu cầu xác định NPT cho phù hợp, quy định của pháp
luật cần đảm bảo các vấn đề sau:
Thứ nhất, cần bảo nguyên tắc không áp dụng giảm trừ cho cùng một NPT.
Theo đó, nếu một NPT được nhiều NNT khác nhau cùng đề xuất giảm trừ thì chỉ có
một NNT được giảm trừ cho NPT đó. Việc đảm bảo nguyên tắc này sẽ tránh được
tình trạng lạm dụng GTGC của NPT, đồng thời đảm bảo tính chính xác và cơng
bằng trong việc xác định số tiền thuế phải nộp của từng NNT.
Thứ hai, chú trọng tiêu chí về mối quan hệ ni dưỡng trong ba mối quan hệ:
vợ chồng, cha mẹ và con cái. Việc xác định NPT cần dựa trên tiêu chí này để xem
xét trách nhiệm nuôi dưỡng, đánh giá mức độ phụ thuộc của NPT (người được nuôi
dưỡng) đối với NNT, nhằm tạo điều kiện duy trì và phát triển cuộc sống của NPT.
33

Nguyễn Thị Mỹ Mỹ, tlđd (10), tr. 24
- 16 -


Thứ ba, cần giới hạn phạm vi NPT không quá rộng và không quá hẹp. Bởi lẽ,

nếu phạm vi quá rộng, nguy cơ lạm dụng GTGC sẽ tăng lên, gây thiệt hại cho Ngân
sách Nhà nước và làm giảm tính công bằng của hệ thống thuế. Nếu phạm vi quá hẹp
có thể dẫn đến bỏ sót NPT, khơng đảm bảo nguyên tắc nhân đạo, phong tục tập
quán và truyền thống gia đình của Việt Nam.
Thứ tư, cần bổ sung những điều kiện nhất định nhằm xác định đúng - đủ NPT.
Việc xác định NPT cần dựa trên các tiêu chí về độ tuổi, khả năng lao động, thu nhập
thực tế và quan trọng nhất là trách nhiệm nuôi dưỡng. Bên cạnh đó, nếu căn cứ vào
mức độ quan trọng, các yếu tố trên cần được sắp xếp như sau: Thứ nhất là trách
nhiệm nuôi dưỡng của NPT, thứ hai là độ tuổi của NPT, thứ ba là khả năng lao
động của NPT, thứ tư là thu nhập thực tế của NPT.
Tuy nhiên, hệ quả của việc có nhiều căn cứ xác định NPT là kéo theo nhiệm vụ
xác định chính xác NPT trong giai đoạn xác minh hồ sơ đăng ký cần được chú trọng.
Đây là giai đoạn quan trọng để đảm bảo tính chính xác và cơng bằng trong việc xác
định NPT và tính tốn thuế phải nộp. Để làm được điều này, tác giả sẽ phân tích rõ
hơn nội dung NPT và đưa ra giải pháp, kiến nghị hoàn thiện, vấn đề này sẽ được đề
cập ở Chương 2.
1.3.2. Đảm bảo công bằng trong việc điều tiết thu nhập giữa những người
nộp thuế
Thuế TNCN có phạm vi điều tiết rất rộng, tác động trực tiếp đến thu nhập của
người dân. Do đó, việc đảm bảo cơng bằng trong điều tiết thu nhập giữa những
NNT trong thuế TNCN là điều vơ cùng cần thiết. Chính vì có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, nên pháp luật về GTGC phải được quy định chặt chẽ, phù hợp với thực tế để
đảm bảo công bằng. Công bằng trong điều tiết thu nhập phải dựa trên tình hình kinh
tế, xã hội và thu nhập của NNT. Xét về tình hình kinh tế - xã hội, trong cùng một
điều kiện, hồn cảnh, khơng phân biệt nguồn thu nhập, người có mức thu nhập như
nhau thì nộp mức thuế như nhau. Như vậy, để đảm bảo công bằng trong điều tiết
thu nhập phải dựa trên cơ sở tổng hòa các yếu tố trên.
Một là, đánh giá chính xác về điều kiện, hồn cảnh của NNT. Pháp luật GTGC
cần xây dựng quy định chặt chẽ, rõ ràng và hợp lý về NPT. Bởi vì, quy định về NPT
sẽ thể hiện được tình trạng của NNT, mối quan hệ của NNT và NPT được thể hiện

thông qua hồ sơ đăng ký NPT. Nếu NNT có quá nhiều NPT thì gánh nặng trong
việc chăm sóc gia đình, đảm bảo cuộc sống cho người thân của mình sẽ càng lớn.
Trong những trường hợp này, Nhà nước cần san sẻ gánh nặng với NNT thông qua
GTGC để giảm bớt gánh nặng về thuế, nhằm đảm bảo sau khi thực hiện trách nhiệm
với Nhà nước, NNT khơng bị rơi vào tình trạng bần cùng hóa.
- 17 -


Hai là, xác định thu nhập chịu thuế của NNT. Theo đó, việc xây dựng quy định
về GTGC cần căn cứ vào thu nhập chịu thế của NNT, tức là những người có thu
nhập khác nhau, thì khoản thuế phải đóng khơng giống nhau. Tính cơng bằng thể
hiện qua nhiều góc độ để đảm bảo việc nộp thuế khơng bị “cào bằng”, tránh tình
trạng người có thu nhập thấp hoặc hồn cảnh khó khăn có thể phải nộp mức thuế
q cao so với khả năng tài chính, trong khi các người có thu nhập cao hoặc hồn
cảnh tốt hơn lại có thể tránh được nhiều khoản thuế.
Hơn nữa, việc quy định GTGC đảm bảo nguyên tắc công bằng trong điều tiết
thu nhập cá nhân góp phần thực hiện mục tiêu sắc thuế là “kéo gần lại” khoảng cách
giàu nghèo. NNT sẽ có trách nhiệm nộp thuế khác nhau phụ thuộc vào hoàn cảnh,
điều kiện và khoản thu nhập thực tế của mình. Cá nhân khơng có NPT chỉ được
giảm trừ cho bản thân. Trong khi đó, NNT có nhiều NPT sẽ nhận được sự hỗ trợ
nhiều hơn so với NNT khơng có NPT thơng qua khoản giảm trừ cho NPT.
Trong điều tiết thu nhập giữa những NNT trong thuế TNCN, u cầu quan
trọng là đảm bảo tính cơng bằng trong xã hội. Tuy nhiên, việc xây dựng một quy
định pháp luật để đáp ứng yêu cầu này là rất khó khăn vì mỗi cá nhân có một hồn
cảnh và năng lực tài chính khác nhau. Do đó, quy định pháp luật chỉ mang tính
tương đối và đáp ứng cơ bản yêu cầu của một quy phạm pháp luật được áp dụng
trong phạm vi tồn quốc và tiệm cận với thơng lệ quốc tế34.
1.3.3. Dung hồ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và người nộp thuế
Quy định GTGC trong thuế TNCN là một quy định có tính liên quan trực tiếp
đến lợi ích kinh tế của NNT và khoản thu thuế TNCN gắn liền với lợi ích kinh tế

của Nhà nước. Vì vậy, quy định về GTGC cần đáp ứng điều kiện dung hịa lợi ích
giữa hai bên. Để dung hịa mối quan hệ lợi ích này, cần có sự chia sẻ với nhau để
đạt đến mục tiêu chung. Trong đó, cả hai bên đều có lợi ích và cần được đảm bảo.
Khi áp dụng quy định GTGC, lợi ích của NNT và Nhà nước được thể hiện như sau:
Đối với lợi ích của người nộp thuế: Áp dụng quy định GTGC giúp cho NNT
giảm gánh nặng về thuế, tăng thu nhập mà NNT nhận được sau khi tính thuế. Từ đó,
NNT sẽ có thêm tiền để sử dụng cho các mục đích khác như chi tiêu cho cuộc sống,
gia đình, tiết kiệm, đầu tư, hoặc sử dụng cho các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Điều
này không chỉ vừa thể hiện cả lợi ích về kinh tế mà cịn tạo lợi ích về tinh thần cho
NNT khi được tính GTGC.
Đối với lợi ích của Nhà nước: Quy định GTGC góp phần động viên tinh thần
thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT và tác động tích cực đến q trình thu thuế của
34

Nguyễn Thị Mỹ Mỹ, tlđd (10), tr. 20
- 18 -


Nhà nước. Nếu mức thuế TNCN quá cao, người dân có thể gia tăng xu hướng e ngại,
thậm chí là chống đối, dẫn đến giảm nguồn thu thuế của Nhà nước. Quy định
GTGC là sự chia sẻ về lợi ích của Nhà nước đối với NNT. Với vai trò cân bằng lại
cán cân lợi ích giữa hai bên, vừa động viên, tạo động lực cho NNT để tiếp tục sản
xuất, vừa duy trì và ni dưỡng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.
Do đó, u cầu đảm bảo dung hịa lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và NNT cần
phải hướng các mục tiêu:
Thứ nhất, tiếp tục nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài cho Ngân sách Nhà nước.
Xuất phát từ nguồn thu nhập được tính GTGC là thu nhập từ tiền lương, tiền công,
đây là loại thu nhập gắn liền với quá trình lao động. Do vậy, khi người lao động cịn
tham gia lao động thì vẫn cịn tồn tại loại thu nhập này. Chính vì thế, thuế TNCN từ
nguồn thu nhập này mang tính lâu dài, có đóng góp nhất định vào Ngân sách Nhà

nước.
Thứ hai, GTGC cho NNT nhưng không được ảnh hưởng nhiều đến nguồn thu
Ngân sách Nhà nước. Bởi vì, GTGC là sự chia sẻ lợi ích của Nhà nước dành cho
NNT, khi chia sẻ quá nhiều sẽ gây ảnh hưởng xấu đến Ngân sách Nhà nước. Biểu
hiện cho sự ảnh hưởng này sự thất thoát của nguồn thu Ngân sách Nhà nước. Vì vậy,
GTGC một khoản chi phí hợp lý phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội để đảm bảo
lợi ích giữa hai bên.
Thứ ba, quy định GTGC phải động viên tinh thần NNT thực hiện nghĩa vụ thuế
đối với Nhà nước. Khi lợi ích của NNT được đảm bảo, NNT sẽ có tâm lý thoải mái
khi thực hiện nghĩa vụ thuế. Do đó, khi xây dựng quy định về GTGC, nhất là mức
GTGC cần được xác định phù hợp. Mức GTGC quá thấp sẽ tạo gánh nặng về kinh
tế và tạo tâm lý “bất mãn” cho NNT, đồng thời ảnh hưởng đến mục tiêu chung của
thuế TNCN.
Vì lẽ đó, quy định về GTGC cần đảm bảo yêu cầu dung hòa lợi ích kinh tế giữa
NNT và Nhà nước để vừa nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài cho Ngân sách Nhà nước,
vừa tạo điều kiện cho NNT và NPT của họ được sinh sống tốt hơn.
1.3.4. Mức giảm trừ gia cảnh phù hợp với gia cảnh của người nộp thuế và
tình hình kinh tế, xã hội
Mức GTGC trong thuế TNCN là một vấn đề quan trọng và là nội dung được
cân nhắc nhiều nhất khi tiến hành xây dựng quy định về GTGC trong thuế TNCN.
Như đã phân tích, mức GTGC là yếu tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của NNT,
đồng thời cũng tác động đến lợi ích kinh tế của Nhà nước. Do đó, cần xác định mức

- 19 -


×