Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm trong pháp luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.26 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

LÊ THỊ HIỀN

NGUN TẮC KHƠNG AI BỊ KẾT ÁN HAI LẦN
VÌ MỘT TỘI PHẠM TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHOÁ: 2015 – 2019

GVHD: TH.S LÊ THỊ THÙY DƢƠNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ HIỀN

NGUN TẮC KHƠNG AI BỊ KẾT ÁN HAI LẦN
VÌ MỘT TỘI PHẠM TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

Chun ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số 60380104

Người hướng dẫn khoa học: Th.s Lê Thị Thùy Dƣơng



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Thạc sĩ Lê Thị Thùy Dương, người
đã tận tình quan tâm, hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Tác giả cũng xin gửi lịng biết ơn đến gia đình, thầy cơ và bạn bè, những người đã
luôn ở bên cạnh tạo điều kiện, giúp đỡ để tác giả có thể hồn thành việc nghiên cứu
một cách tốt nhất.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 05 năm 2019
Tác giả

Lê Thị Hiền


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CSCĐ


: Cảnh sát cơ động

HSPT

: Hình sự phúc thẩm

HSST

: Hình sự sơ thẩm

KSND

: Kiểm sát nhân dân

TAND

: Tòa án nhân dân

THTT

: Tiến hành tố tụng

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS

: Viện kiểm sát


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1.
1.

L

o họn ề t i…………………………………………………………

2.

T nh h nh nghiên ứu……………………………………………………… 2

3.

Mụ

1

í h, ối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu……………………3

3.1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ................................................................... 3
3.2. Đối tượng nghiên cứu. ....................................................................................... 4
3.3. Phạm vi nghiên cứu. .......................................................................................... 4
Phƣơng ph p nghiên ứu…………………………………………………..4


4.
5.

ngh

6.

Bố ụ

ho họ v gi trị ứng ụng ủ


h

ề t i………………………... 5

u n…………………………………………………….....5

CHƢƠNG I: NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC KHÔNG AI BỊ KẾT
ÁN HAI LẦN VÌ MỘT TỘI PHẠM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM…………………………………………………………………………...6
1.1.
………………………………………………………………………………………….. 6
1.1.1. Khái niệ n

nt cc

tố tụn h nh


…………………………………6

1.1.2. Khái niệ n
nt c h n i
t nh i nv
t t i hạ t n tố
tụn h nh ...........................................................................….….….….…8
1.1.3. Tính chất n h c n
nt c h n i
t nh i nv
tt i
hạ t n tố tụn h nh ……………………………………………………...11
1.2.
g

sự ……………………………………………………………………………..13

1.2.1.Cơ ở q đ nh nguyên t c không ai b k t án hai l n vì m t t i phạm theo
pháp luật quốc t ………………………………………………………………...14
1.2.2.Cơ ở q đ nh nguyên t c không ai b k t án hai l n vì m t t i phạm theo
pháp luật Việt Nam………………………………………………………………15


1.2.3. Nguyên t c không ai b k t án hai l n vì m t t i the q đ nh c a m t số
nước trên th giới………………………………………………………………..16
1.3.


………………….....19


1.3.1.Mối quan hệ giữa nguyên t c không ai b k t án hai l n vì m t t i phạm với
nguyên t c pháp ch XHCN. ............................................................................ 19
1.3.2.Mối quan hệ giữa nguyên t c không ai b k t án hai l n vì m t t i phạm với
nguyên t c tôn trọng và bảo vệ quyền c n n ười, quyền và lợi ích hợp pháp c a
cá nhân…………………. .................................................................................. 20
1.3.3.Mối quan hệ giữa nguyên t c khơng ai b k t án hai l n vì m t t i phạm với
nguyên t c trách nhiệm c cơ q n n ười có thẩm quyền THTT. ...................... 21
1.4. L ch sử


………………………………………………………….23

1.4.1.Gi i đ ạn từ nă 1945 đ n t ước khi ban hành BLTTHS 1988. .................. 23
1.4.2.Gi i đ ạn từ nă 1988 đ n t ước khi ban hành BLTTHS 2003. .................. 25
1.4.3.Gi i đ ạn từ nă 2003 đ n t ước khi ban hành BLTTHS 2015. .................. 26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ..................................................................................... 27
CHƢƠNG II: NGUYÊN TẮC KHÔNG AI BỊ KẾT ÁN HAI LẦN VÌ MỘT
TỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS 2015 ..................................................... 28
2.1. N i d ng nguyên t c không ai b k t án hai l n vì m t t i ph m trong theo
Đ ều 14 BLTTHS 2015…………………………………………………………...28
2.2. N i dung nguyên t c không ai b k t án hai l n vì m t t i ph m thể hi n
n t t ng……………………….....................................................32
2.2.1. Gi i đ ạn khởi tố vụ án hình s theo BLTTHS 2015………………………...32
2.2.2. Gi i đ ạn điều tra vụ án hình s theo BLTTHS 2015………………………..34
2.2.3. Gi i đ ạn truy tố vụ án hình s theo BLTTHS 2015………………………...36
2.2.4. Gi i đ ạn xét xử ơ thẩm vụ án hình s theo BLTTHS……………………...38
2.2.5. Gi i đ ạn xét xử phúc thẩm vụ án hình s theo BLTTHS 2015…………..…41
2.2.6. Gi i đ ạn i

đốc thẩm và tái thẩm theo BLTTHS……………………..…43



KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ..................................................................................... 50
CHƢƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NGUN TẮC KHƠNG AI BỊ KẾT ÁN HAI
LẦN VÌ MỘT TỘI PHẠM TRONG PHÁP LUẬT TTHS. ................................. 51
3.1.



…………………………………………………………………………………..51
3.1.1. Nhữn
t q ả đạt được t n việc
ụn n
n t c khơng ai b k t án
hai l n vì m t t i phạm ................................................................................... 51
3.1.2. ạn ch trong quá trình áp dụng ngun t c khơng ai b k t án hai l n vì
m t t i phạm trong th c tiễn. ........................................................................... 56
3.1.3. N
n nh n n đ n nhữn hạn ch t n việc
ụn n
nt c h n
i
t nh i nv
t t i hạ t n h
ật tố tụn h nh . ................... 62
3.2.
ự………………………….64
3.2.1. Giải h


h àn thiện về

t h

ật…………………………………...... 65

3.2.2. Giải h h àn thiện hiệ q ả
ụn n
nt c h n i
t ih i
nv
t t i hạ đối với hệ thốn c c cơ q n ti n hành tố tụn . .................... 71
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ..................................................................................... 75


PHẦN MỞ ĐẦU
1. L

o họn ề t i

Để đảm bảo thực hiện một cách toàn diện nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp
quyền, dân chủ trong giai đoạn mới, Nhà nước ta đang không ngừng mở rộng việc
ghi nhận các quyền con người trong quá trình quản lý nhà nước nói chung và hoạt
động lập pháp nói riêng. Về bản chất, pháp luật là hệ thống các quy định do nhà
nước đặt ra và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước và là cơng cụ điều
chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội. Trong đó, các
quyền và nghĩa vụ của con người được đặt ra nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của họ
trước sự tác động của pháp luật. Có thể nói quyền con người dễ bị tổn thương và
xâm phạm nhất khi đặt trong sự điều chỉnh của pháp luật TTHS. Một người có thể
bị tước bỏ vật chất, tự do hay cả mạng sống khi có bản án kết tội của Tịa án về một

hành vi mà họ đã thực hiện. Do vậy, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Nhà
nước hiện nay nhằm nâng cao quyền con người là tăng cường các biện pháp bảo vệ
quyền lợi của người bị buộc tội trong pháp luật TTHS
Nghị quyết số 48 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam năm 2010, định hướng đến năm 2020 nêu rõ nhiệm vụ đối với việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về đảm bảo quyền con người, quyền tự do, dân chủ
của công dân “C ng cố cơ ở pháp lý về trách nhiệm c

c c cơ q

n nhà nước

trong việc xây d ng, ban hành k p thời đồng b và tổ chức th c thi pháp luật, các
điề ước quốc t mà Việt Nam là thành viên về quyền c n n ười, quyền công dân
t n c c nh v c về dân s , chính tr , kinh t , xã h i”. Nguyên tắc không ai bị kết
án hai lần vì một tội được ghi nhận đầu tiên tại Hiến pháp 2013 sau đó nhanh chóng
được cụ thể hóa trong BLTTHS Việt Nam 2015. Đây được đánh giá là một trong
những nguyên tắc quan trọng đối với nhiệm vụ bảo vệ quyền con người đồng thời
cũng đề cao tinh thần nhân đạo khi thể hiện ý chí bảo vệ quyền lợi của người bị
buộc tội trong pháp luật TTHS. Việc ghi nhận và thực hiện nguyên tắc khơng ai bị
kết án hai lần vì một tội phạm không chỉ đem lại những ý nghĩa to lớn trong việc
1


bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể tham gia vào quan hệ tố tụng mà còn
hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan sai, xâm phạm quyền lợi chính đáng của
con người và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan THTT.
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật, việc thực hiện nguyên tắc
“Không ai b k t án hai l n vì m t t i phạm” vẫn cịn nhiều sai phạm. Tình trạng
này xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có thể kể đến việc nhận thức chưa tồn

diện nội dung và ý nghĩa của ngun tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
Thêm nữa, tại thời điểm tác giả tiến hành nghiên cứu có rất ít các cơng trình
thực hiện việc nghiên cứu chuyên khảo nguyên tắc “ Không ai bị kết án hai lần vì
một tội phạm” theo quy định của pháp luật TTHS. Chính vì vậy, trên tinh thần góp
phần làm rõ thêm về các vấn đề lý luận cũng như mong muốn cung cấp những tri
thức về quy định này, tác giả lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc khơng ai bị
kết án hai lần vì một tội phạm trong pháp luật TTHS Việt Nam”.
2. T nh h nh nghiên ứu
Có rất ít cơng trình nghiên cứu hồn chỉnh nào về đề tài “Nguyên tắc không ai
bị kết án hai lần vì một tội phạm trong pháp luật TTHS”. Việc này xuất phát từ
nguyên nhân nguyên tắc này là nguyên tắc mới được ghi nhận trong BLHS 2015, do
vậy việc nghiên cứu và tiếp cận cả về mặt lý luận và thực tiễn cần nhiều thời gian.
Đề tài nghiên cứu cấp độ Luận văn thạc sĩ về Nguyên t c không ai b k t án hai l n
vì m t t i phạm của tác giả Vũ Thị Duyên nội dung còn dàn trải và vẫn chưa đưa ra
được những đề xuất hoàn thiện chuyên sâu trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Đề tài “Triển h i q

đ nh “Kh n

i

k t án hai l n vì m t t i phạ ” c a

Hi n pháp 2013 trong BLHS và BLTTHS” của Tiến sĩ Nguyễn Thị Phương Hoa và
Tiến sĩ Nguyễn Phương Thúy được thực hiện vào năm 2014. Trong bối cảnh
BLTTHS 2003 vẫn còn hiệu lực, nội dung cơng trình nghiên cứu hướng tới đề cập
nội dung nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm trên cơ sở quy định
của Hiến pháp 2013 và ảnh hưởng của quy định này đến pháp luật hình sự và pháp
luật TTHS ở thời điểm hiện tại. Với những nghiên cứu chuyên sâu và những vấn đề
pháp lý mà cơng trình nghiên cứu đặt ra đã tạo nền tảng hết sức cơ bản và quan

2


trọng cho quá trình nghiên cứu đề tài: “Nguyên tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một
tội phạm trong pháp luật TTHS Việt Nam” của tác giả trong bối cảnh BLTTHS
2015 hiện hành.
Một số đề tài đề cập gián tiếp đến nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một
tội phạm như là một căn cứ pháp lý để khơng khởi tố vụ án hình sự, đình chỉ vụ án
hình sự hay hủy bản án HSST như Khóa luận tốt nghiệp “Tạ

đ nh chỉ đ nh chỉ

điều tra vụ án hình s ” của tác giả Nguyễn Xuân Thọ. Một số bài viết trên các tạp
chí khoa học như: bài viết “Căn cứ không khởi tố vụ án hình s q

đ nh trong

BLTTHS 2015 và m t số đề xuất” của tác giả Ths. Lê Nam, tạp chí TAND tối cao số
20 kỳ II tháng 10/2016,… Giáo trình Luật TTHS Việt Nam tái bản năm 2019 trong
Ph n các nguyên t c cơ ản cửa luật TTHS Việt Nam cũng khơng có bất kì đề cập
nào đến nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm tại Điều 14 BLTTHS
mặc dù nguyên tắc này đã được ghi nhận trong BLTTHS từ năm 2015.
Đề tài nghiên cứu “Nguyên t c không ai b k t án hai l n vì m t t i phạm trong
hệ thống pháp luật TTHS Việt Nam” là một cơng trình nghiên cứu khá mới, việc này
tạo điểm thuận lợi khi đưa ra các quan điểm học thuật mang tính chủ quan từ phía
tác giả nhưng đồng thời cũng gây nhiều khó khăn trong q trình kiếm tài liệu tham
khảo để phục vụ cho quá trình nghiên cứu chuyên sâu đề tài.
3. Mụ
3.1.


í h, ối tƣợng nghiên ứu, phạm vi nghiên ứu
í

ứ .

Mục đích n hi n cứu
Tác giả mong muốn làm rõ những vấn đề lý luận của ngun tắc khơng ai bị kết
án hai lần vì một tội phạm trong pháp luật TTHS từ đó xác định những bất cập,
vướng mắc trong thực tiễn để đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật cũng như đề xuất những giải pháp cho việc áp dụng có hiệu quả nguyên
tắc trong thực tiễn tố tụng.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, khóa luận thực hiện những nhiệm vụ sau:
3


 Làm rõ những vấn đề nhận thức chung về ngun tắc khơng ai bị kết án hai
lần vì một tội phạm trong pháp luật TTHS
 Phân tích nội dung ngun tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm
trong BLTTHS 2015
 Nghiên cứu các điều kiện để đảm bảo thực hiện nguyên tắc không ai bị kết
án hai lần vì một tội phạm.
 Nghiên cứu và đánh giá thực tiễn áp dụng nguyên tắc không ai bị kết án hai
lần vì một tội phạm trong pháp luật TTHS
 Xây dựng một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc
không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm trong TTHS
3.2. Đ

ượ


ứ .

Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích nguyên tắc khơng ai bị kết án hai lần vì
một tội phạm trong pháp luật TTHS Việt Nam, thực tiễn áp dụng nguyên tắc trong
đời sống pháp lý, những thành tựu đạt được và những hạn chế tồn đọng từ đó đưa ra
những kiến nghị giải pháp.
3.3. P

ứ .

Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là các cơ sở lý luận và thực tiễn trong q
trình thực hiện ngun tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm từ đó tìm hiểu
những hạn chế trong q trình áp dụng nguyên tắc trên thực tế nhằm đưa ra một số
kiến nghị và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong việc thực nguyên tắc
không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
4. Phƣơng ph p nghiên ứu
Khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật, về việc đảm bảo quyền con
người dựa trên các quy định của pháp luật và của khoa học TTHS.

4


Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh để làm sáng
tỏ nội dung đề tài nghiên cứu.
ngh

5.


ho họ v gi trị ứng ụng ủ

ềt i

Việc nghiên cứu về nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm có ý
nghĩa nhất định cả về mặt lý luận và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu không những
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận xung quanh những quy định về ngun tắc khơng
ai bị kết án hai lần vì một tội phạm mà còn chỉ ra được những hạn chế trong việc áp
dụng nguyên tắc trong thực tiễn tố tụng từ đó đem đến sự đảm bảo tốt nhất quyền
con người trước pháp luật TTHS.
Khóa luận nghiên cứu về ngun tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm
khi hoàn thành sẽ trở thành một tài liệu có giá trị tham khảo trong nghiên cứu và
học tập pháp luật TTHS của sinh viên và người hành nghề luật.
6. Bố ụ



h

u n.

Chương 1: Nhận thức chung về ngun tắc khơng ại bị kết án hai lần vì một
tội phạm trong TTHS Việt Nam.
Chương 2: Nội dung của ngun tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm
trong BLTTHS năm 2015.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm trong hệ thống pháp luật
hình sự.


5


CHƢƠNG I: NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC KHÔNG AI BỊ
KẾT ÁN HAI LẦN VÌ MỘT TỘI PHẠM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM.


1.1.

ự.

1.1.1.

Nguyên tắc là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực đời
sống xã hội. Nội hàm thuật ngữ nguyên tắc thông thường được hiểu như là một đối
trọng đối với nội hàm của thuật ngữ tự do. Tuy nhiên, thực tế đời sống nói chung và
đời sống pháp lý nói riêng đã chỉ ra rằng nguyên tắc là một trong những điều kiện
quan trọng để con người đạt đến sự tự do cao nhất. Nguyên tắc là kim chỉ nam trong
hoạt động tư duy nhằm đảm bảo cho hoạt động con người đi đúng hướng và hiệu
quả. [32-tr.14].
Có nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa của nguyên tắc. Theo từ điển
Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, nhà xuất bản Đà Nẵng năm 1966 thì nguyên tắc
được hiểu là “Điề cơ ản đ nh ra, nhất thi t phải tuân theo trong m t loạt việc
làm”. Theo quan điểm của PGS.TS Đào Trí Úc thì: “Ngun t c là nhữn tư tưởng
xuất h t điểm, có tính ch đạ

đ nh hướng, là quy t c cơ ản c

hành đ ng”.


Nhìn chung hầu hết các định nghĩa đều xác định nguyên tắc bao gồm hai mặt khách
quan và chủ quan. Có nghĩa là các nguyên tắc được xác lập trong tất cả các lĩnh vực
bao gồm cả lĩnh vực lập pháp đều phải tơn trọng những quy luật mang tính tự nhiên
và sự chi phối của con người. Một nguyên tắc không thể đi ngược lại xu hướng vận
động của xã hội hay phủ nhận ý chí của con người. Trong trường hợp nguyên tắc
được xây dựng trên sự sai phạm, độc tài thì ngun tắc này sẽ khơng nhận được sự
thực hiện một cách tự nguyện đồng thời cũng không hướng đến bảo vệ những giá trị
tốt đẹp trong lĩnh vực mà nó muốn hướng tới.
Như đã nói ở trên, bản chất của hoạt động lập pháp là tạo ra công cụ để quản lý
xã hội, hướng hành vi con người đến những chuẩn mực mà xã hội đó cho là cần
thiết và đúng đắn. Trong một số trường hợp, pháp luật sẽ có những tác động gây bất
lợi đối với một chủ thể nếu cho rằng cá nhân đó có những hành vi đi ngược lại với
6


những lợi ích mà tồn xã hội hướng tới. Nhằm đảm bảo sự điều chỉnh của pháp luật
sẽ không xâm phạm đến quyền lợi chính đáng của các cá nhân và tổ chức, trong đa
số các lĩnh vực pháp luật điều ưu tiên hàng đầu trước khi xây dựng các chế định
pháp luật là đặt ra các nguyên tắc pháp lý cơ bản định hướng cho toàn bộ lĩnh vực
pháp luật đó. Các nguyên tắc trong pháp luật TTHS cũng được xây dựng trên ý chí
này nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội và các chủ thể tham gia
tố tụng khác khi bị đặt dưới sự điều chỉnh của nó.
Nguyên tắc trong pháp luật TTHS được xem như là xương sống của toàn bộ
lĩnh vực pháp luật TTHS. Về định nghĩa thế nào là nguyên tắc của TTHS, hiện nay
có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Theo quan điểm của PGS.TS Phạm Hồng Hải thì “Nguyên t c TTHS là những
q

n điể


tư tưởn đường lối c

Đảng c ng sản Việt N

Nhà nước C ng hòa

XHCN Việt Nam về quá trình giải quy t vụ án hình s được thể ch hóa trong B
luật tố tụng hình s

à c c cơ q

n T TT n ười T TT n ười tham gia tố tụng,

c c cơ q n nhà nước, tổ chức xã h i và mọi công dân phải tuân theo”.
PGS.TS Lê Cảm cho rằng: “Nguyên t c c a Luật TT S à tư tưởng ch đạo và
đ nh hướn cơ ản thể hiện trong pháp luật TT S cũn như việc giải thích và
trong việc áp dụng th c tiễn áp dụng pháp luật TTHS thông qua m t hay nhiều quy
phạm (ch đ nh) c a nó – c a nguyên t c à tươn ứng mà ta nghiên cứu”.
Nguyên tắc của TTHS trong một số nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo
khác được đưa với tên gọi là các nguyên tắc cơ bản của TTHS.
Các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS là những phương châm, định hướng chi
phối toàn bộ hay một số giai đoạn quan trọng của TTHS trong quá trình xây dựng
và áp dụng pháp luật TTHS. Những nguyên tắc này thể hiện chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta là đảm bảo mọi tội phạm đều được phát hiện kịp thời, xử lý
nhanh chóng và cơng minh theo đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan
người vơ tội [20-tr.239-253].
Nhìn chung, hầu hết các quan điểm về định nghĩa nguyên tắc của TTHS đều
hướng đến việc nhấn mạnh tính chỉ đạo, định hướng của các nguyên tắc này trong
7



hoạt động khởi tố, điều tra, xét xử hình sự. Mặc dù sự khác nhau nhưng các quan
điểm này hoàn tồn khơng loại trừ nhau, chúng bổ sung cho nhau và làm phong phú
thêm việc nghiên cứu pháp luật TTHS.
Sau quá trình nghiên cứu kết hợp với những nhận định của bản thân, tác giả
ủng hộ quan điểm “Nguyên t c cơ ản trong TTHS là nhữn q
bản nhất, chung nhất, mang tính chỉ đạ

đ nh pháp luật cơ

được ghi nhận trong Hi n pháp và các

văn ản pháp luật TTHS, chi phối toàn b ho c m t số hoạt đ ng TTHS nhất đ nh”.
[23-tr.05]. Theo đó, nguyên tắc của TTHS là những quy định đòi hỏi sự tuân thủ
nghiêm ngặt trong quá trình THTT, các nguyên tắc của TTHS là những quy định
thực định không chỉ được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình mà cịn được ghi nhận
trong các văn bản pháp lý cao hơn như Hiến pháp. Thực tế cho thấy rằng, hầu hết
các nguyên tắc của TTHS được thể chế hóa trong BLTTHS hiện nay đều là những
nguyên tắc có nguồn gốc hiến định.
1.1.2.
ự.
Trước khi đưa ra một khái niệm khái quát về ngun tắc khơng ai bị kết án hai
lần vì một tội phạm, tác giả sẽ đi vào tìm hiểu nội hàm các thuật ngữ được sử dụng
trong tên nguyên tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
Về ch thể, nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm khơng đề
cập một cách cụ thể đến một chủ thể nào trong quan hệ pháp luật TTHS. Nếu chỉ
đơn thuần tiếp cận nguyên tắc thông qua tên gọi của nguyên tắc không ai bị kết án
hai lần vì một tội phạm, thuật ngữ chỉ chủ thể “ai” sẽ dẫn đến nhiều cách tiếp cận
khác nhau trong quá trình nghiên cứu cũng như áp dụng pháp luật. Trong nhiều

trường hợp sẽ gây nhầm lẫn đến khái niệm có nội hàm rộng hơn là khái niệm người
tham gia tố tụng trong pháp luật TTHS. Theo đó, “N ười tham gia tố tụn
quan, tổ chức và c nh n có năn
luật TTHS, có quyền và n h

à c c cơ

c pháp luật để tham gia vào các quan hệ pháp

vụ tố tụng theo q

đ nh c a pháp luật TTHS” [ 3-

Đ.161]. Chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng bao gồm nhiều chủ thể khác

nhau: người bị buộc tội, bị hại và các chủ thể khác có quyền và nghĩa vụ phát sinh
8


từ hành vi pháp lý của người bị buộc tội. Tuy nhiên, chung quy lại, ta cần phải
thống nhất quan điểm rằng nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm đặt
trong hồn cảnh pháp lý mà nó đang hướng đến đang đề cập đến chủ thể là người bị
buộc tội theo pháp luật TTHS. Theo đó, nội hàm của khái niệm người bị buộc tội
bao gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. [ 3- Đ.10]. Thêm nữa, khác
với pháp luật TTHS giai đoạn trước, pháp luật TTHS hiện hành thừa nhận chủ thể
pháp luật tố tụng bao gồm cá nhân và pháp nhân. Do vậy, khi nhắc đến nguyên tắc
không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm nên được hiểu là nguyên tắc pháp luật áp
dụng cho cả chủ thể cá nhân và pháp nhân phạm tội.
Về khái niệ


“ t n”có thể được hiểu theo nhiều hướng khác nhau. Thông

thường thuật ngữ “kết án” được tiếp cận theo hướng là một khái niệm dùng để chỉ
hành vi tuyên bố một người là có tội theo những quy định của pháp luật hình sự
của Tịa án. Tuy nhiên, nếu chỉ hiểu thuật ngữ “kết án” theo quan điểm trên thì vơ
hình chung sẽ thu hẹp nội hàm thuật ngữ kết án bằng với thuật ngữ “ kết tội”. Theo
tác giả thuật ngữ “kết án” không chỉ bao gồm việc tun một người là có tội mà
cịn bao gồm việc xác định một chủ thể là khơng có tội. Nội hàm thuật ngữ thuật
ngữ “kết án” trong trường hợp này gần như tương đồng với thuật ngữ tuyên án.
Như vậy, kết án là việc Tòa án tuyên bố một người là có tội hay khơng có tội trên
cơ sở những chứng cứ trong suốt quá trình tiến hành quá trình TTHS. Việc kết án
này có thể được thể hiện dưới hình thức một bản án hay một quyết định đình chỉ
vụ án có hiệu lực pháp luật được đưa ra bởi cơ quan xét xử là Tòa án.
Về khái niệm t i phạm, BLHS đưa ra khái niệm: “T i phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã h i được q
hình s ho c h

đ nh t n BL S

nh n thươn

n ười có năn

c trách nhiệm

ại th c hiện m t cách cố ý ho c vô ý, xâm phạm

đ c lập, ch quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm ch đ
chính tr , ch đ kinh t , nền văn hó


q ốc phịng, an ninh, trật t , an toàn xã h i,

quyền, lợi ích hợp pháp c a cơng dân, xâm phạm nhữn
pháp luật X CN

à the q

nh v c khác c a trật t

đ nh c a B luật này phải b xử lý hình s ”. Theo

đó, khoa học pháp lý hình sự quy định một tội phạm phải đồng thời đáp ứng các
9


đặc điểm: hành vi phạm tội phải là hành vi của con người có năng lực trách nhiệm
hình sự, có lỗi, gây nguy hiểm hoặc đe dọa gây nguy hiểm đối với những giá trị
được pháp luật hình sự bảo vệ [ 27- tr.51]. Câu hỏi được đặt ra là, khái niệm tội
phạm có đồng nhất với khái niệm hành vi phạm tội hay khơng. Theo đó, hành vi
phạm tội hay hành vi khách quan của tội phạm “là những xử s có ý thức và ý chí
c

c n n ười được thể hiện ra th giới h ch q

n ưới những hình thức nhất

đ nh, gây thiệt hại ho c đe ọa gây thiệt hại cho xã h i”. [13-tr.116]. Tội phạm
được cấu thành bởi các yếu tố như chủ thể, khách thể, mặt khách quan và mặt chủ
quan. Theo đó, một hành vi bị buộc tội bởi một bản án của Tòa án phải đáp ứng
được những yêu cầu về cấu thành tội phạm. Cụm từ “hành vi của họ đã có bản án

của Tịa án” được quy định tại Điều 14 BLTTHS cần được hiểu như ý nghĩa của
thuật ngữ tội phạm. Trong trường hợp một người thực hiện hành vi khách quan
của tội phạm nhưng không đáp ứng được các điều kiện khác về khách thể, chủ thể
hay các điều kiện về mặt chủ quan như yếu tố lỗi thì cũng khơng bị xem là tội
phạm theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu
của khóa luận, dựa trên những phân tích này tác giả sẽ đi tìm câu trả lời cho câu
hỏi, liệu kết án hai lần cùng một tội phạm có đồng nhất với cùng một hành vi
nhưng bị tuyên phạm hai tội theo quy định của BLHS hay không? Theo quan điểm
của tác giả, trường hợp một người bị Tòa án kết án hai tội danh khác nhau cho
cùng một hành vi phạm tội thì hành vi này của cơ quan có thẩm quyền khơng vi
phạm ngun tắc kết án hai lần vì một tội phạm theo quy định tại Điều 14
BLTTHS. Kết án hai lần vì cùng một tội phạm và cùng một hành vi nhưng bị
tuyên phạm hai tội khác nhau là hai phạm trù hồn tồn riêng biệt.
Từ những phân tích trên đây, tác giả sẽ đưa ra khái niệm về nguyên tắc không ai
bị kết án hai lần vì một tội phạm. Theo đó:
Khơng ai b k t án hai l n vì m t t i phạ

được hiểu là m t n ười trong

t ường hợ đã có ản án k t t i ho c quy t đ nh đ nh chỉ vụ án có hiệu l c pháp
luật c a Tịa án có thẩm quyền về m t hành vi phạm t i mà họ đã th c hiện theo
qu đ nh c a BLHS thì sẽ khơng b k t án m t l n nữa về cùng hành vi đó.
10


1.1.3. í
ự.
Tính ch t c a ngun t c khơng ai b k t án hai l n vì m t t i ph m:
Giống với các nguyên tắc cơ bản khác của TTHS, nguyên tắc không ai bị kết
án hai lần vì một tội phạm cũng bao gồm những đặc điểm như: tính pháp quy, tính

khách quan, tính thời đại và tính đặc thù.
Tính pháp quy: Là một trong những nguyên tắc pháp luật mới được ghi nhận
trong Hiến pháp Việt Nam 2013, nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội
phạm nhanh chóng trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản trong pháp luật
TTHS vì ý nghĩa nhân đạo và tích cực mà ngun tắc này mang lại cho hệ thống
pháp luật. Tính pháp quy của nguyên tắc thể hiện ý nghĩa bắt buộc, mang tính xác
định và phải được đảm bảo thực hiện bởi các cơ quan THTT.
Tính khách quan: Ngun tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm bên
cạnh những biểu hiện mang tính chủ quan như là một trong những tư tưởng, những
quan điểm để định hướng pháp luật TTHS thì ngun tắc này tự thân nó ngay từ đầu
đã mang tính khách quan. Theo Các mác và Engels trong những nghiên cứu về ý
thức và con người đã cho rằng: “Ngay từ đ u, ý thức đã à

t sản phẩm c a xã h i

và v n như vậ ch đ n hi nà c n n ười cịn tồn tại”. Do vậy, ngun tắc khơng
ai bị kết án hai lần vì một tội phạm tự thân sự tồn tại của nó đã mang tính khách
quan. Vai trị của nhà làm luật khơng có gì khác hơn đó là quan sát, tập trung, phân
tích, đánh giá và đi đến khâu cuối cùng là đưa thành luật [26 – tr.14]. Một người
không thể bị kết án hai lần về cùng một hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện khi đã
có bản án hay quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật của Tịa án. Đây là
quyền con người cơ bản, nó là sự tất yếu khách quan mà mỗi người phải được nhận
khi đặt dưới sự tác động của pháp luật để đảm sự cơng bằng về lợi ích cho mỗi cá
nhân trong xã hội. Đây không phải là sự ban phát hay phụ thuộc vào quyết định bởi
bất kì chủ thể nào, bản thân nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm đã
là một nhu cầu tất yếu của con người trong một xã hội dân chủ, pháp quyền.

11



Tính giai cấp, thời đại: Pháp luật trong tương quan với các yếu tố cấu thành
nhà nước theo những nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lê nin là
một yếu tố của kiến thức thượng tầng được hình thành trên cơ sở các yếu tố hạ tầng.
Khi các yếu tố hạ tầng thay đổi sẽ dẫn đến những biến đổi của kiến trúc thượng tầng
nhằm thích nghi. Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm là nguyên
tắc cơ bản định hướng cho một phần hay toàn bộ hoạt động TTHS. Một nguyên tắc
pháp luật không thể tồn tại nếu đi ngược lại ý thức của giai cấp thống trị và xu
hướng phát triển chung của thời đại đó. Do vậy, nguyên tắc khơng ai bị kết án hai
lần vì một tội phạm cũng mang tính thời đại, giai cấp.
Tính đ c thù: Khái niệm đặc thù dùng để chỉ tính chất duy nhất về đặc tính, sự
hiện diện hay hiệu lực áp dụng trong một không gian của một sự vật, hiện tượng. Hệ
thống các nguyên tắc của pháp luật TTHS bao gồm rất nhiều nguyên tắc, trong số
đó có nhiều nguyên tắc đồng thời là nguyên tắc của một số hệ thống pháp luật khác
như hệ thống pháp luật dân sự, hệ thống pháp luật hành chính. Sở dĩ nói ngun tắc
khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm mang tính đặc thù là vì ngun tắc này là
nguyên tắc chỉ được quy định và áp dụng trong hệ thống pháp luật TTHS.
Ý

a nguyên t c không ai b k t án hai l n vì m t t i ph m:

Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm trong suốt quá trình kể
từ khi ra đời cho đến khi được cụ thể hóa và ghi nhận trong BLTTHS 2015 đã trở
thành một trong những nguyên tắc cơ bản, có ý nghĩa to lớn trong nhiệm vụ tạo
hành lang pháp lý bảo vệ tốt nhất quyền con người.
Thứ nhất

n h

về chính tr - xã h i:


Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm có ý nghĩa quan trọng đối
với việc tăng cường hiệu lực và uy tín của các cơ quan tố tụng trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc đảm
bảo thực hiện tốt nguyên tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm sẽ ngăn
chặn, giảm thiểu những sai phạm dẫn đến oan, sai trong quá trình tố tụng. Hạn chế
những ảnh hưởng pháp lý bất lợi xâm phạm đến quyền con người nói chung và
quyền của người bị buộc tội nói riêng.
12


Thứ h i

n h

về kinh t :

Thực hiện tốt nguyên tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm sẽ góp
phần tránh được những sai sót đáng tiếc trong lĩnh vực tư pháp, hạn chế những
trường hợp kéo dài thời gian xét xử, xét xử một vụ án nhiều lần gây tổn thất về kinh
phí cho các cá nhân tham gia tố tụng và cơ quan nhà nước THTT. Một cá nhân
không bị kết án hai lần vì một tội phạm sẽ sớm có cơ hội hồn lương, không trở
thành gánh nặng của xã hội, đồng thời được đóng góp cơng sức lao động vào nền
kinh tế nước nhà.
Thứ

n h

về tính nh n đạ đối với c nh n n ười phạm t i:

Một nhà nước tiến bộ là một nhà nước tồn tại trên cơ sở hướng tới việc đảm

bảo các lợi ích con người, hạnh phúc con người là thước đo của mọi giá trị cuộc
sống [30 –tr.02]. Tư tưởng nhân đạo trong lĩnh vực pháp luật được coi là nền tảng
cho nội dung hệ thống pháp luật XHCN. Xét xử công bằng, đúng pháp luật, thực
hiện toàn diện các nguyên tắc pháp luật cũng là nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi
của con người.
Nguyên tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm không chỉ mang ý nghĩa
công bằng, đúng sự thật khách quan trong quá trình xét xử vụ án hình sự mà cịn có
ý nghĩa to lớn về mặt nhân đạo đối với người bị buộc tội.
1.2.
ự.
Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm sớm được ghi nhận là
một nguyên tắc đặc thù trong pháp luật về nhân quyền và pháp luật hình sự quốc
tế. Nguyên tắc này được xem là cốt lõi bên cạnh các nguyên tắc cơ bản khác trong
nhiệm vụ bảo vệ quyền con người. Trong quá trình phát triển đất nước hướng đến
mục tiêu xây dựng quốc gia dân chủ, pháp quyền, Việt Nam ta đã thừa nhận
nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm là một nguyên tắc quan
trọng, cơ bản trong hệ thống pháp luật quốc gia.

13


e

1.2.1.
.

Pháp luật quốc tế cho rằng “việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những
quyền

nh đẳng bất khả chuyển nhượng c


c c thành vi n t n đại i đ nh

nhân loại là nền tảng c a t do, công lý và hịa bình th giới”[19– Lời mở đầu].
Quyền con người trong pháp luật hình sự thế giới được ghi nhận từ rất sớm. Trải
qua nhiều thời kì phát triển và hồn thiện dưới nhiều hình thái xã hội, tư tưởng của
nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm được hình thành và nhanh
chóng trở thành nguyên tắc quan trọng trong hoạt động TTHS quốc tế.
Đi đầu trong sự phát triển vượt bậc không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, các quốc
gia trong khối thịnh vượng chung Châu Âu cịn là người đi trước đón đầu nhiều yếu
tố văn minh trong hoạt động lập pháp. Tháng 9 năm 1953, Công ước bảo vệ nhân
quyền và các quyền tự do chính thức có hiệu lực thi hành. Là một hiệp ước nhằm
đảm bảo quyền con người ở Châu Âu, Công ước châu Âu về nhân quyền ghi nhận:
“Không ai b k t án ho c b trừng phạt l n thứ hai trong TTHS thu c thẩm quyền
xét xử c a cùng m t nhà nước về t i phạm mà cuối cùng họ đã được tuyên vô t i
ho c đã

k t án theo pháp luật và TTHS c a quốc i đó. Q

cản trở việc mở lại vụ n the q

đ nh trên không

đ nh c a pháp luật và th tục hình s c a nhà

nước đó n u có bằng chứng về các s kiện mới ho c mới được phát hiện, ho c n u
có m t lỗi cơ ản trong tố tụn t ước, mà có thể ảnh hưởn đ n k t quả c a vụ án”
[6- k1, k2 Đ.4]
Trải qua hơn hai thập kỉ, trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966, ngun tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm được thừa nhận

như là một quyền cơ bản, bất khả xâm phạm của con người: “ Không ai b đư
xét xử ho c b trừng phạt l n thứ hai về cùng m t t i phạ

à n ười đó đã

k t

án ho c đã được tuyên tr ng án phù hợp với pháp luật và th tục TTHS c a mỗi
nước” [ 5- Đ.14.7] Việc xây dựng quy định về nguyên tắc không ai bị kết án hai lần
vì một tội phạm đã mở ra thế giới quan mới trong việc tìm hiểu, áp dụng pháp luật
bảo vệ con người trong pháp luật TTHS quốc tế. Tính đến cuối năm 2010, Cơng
14


ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 đã có 72 quốc gia tham gia
kí kết.
Tiếp nối sự tiến bộ trong lập pháp quốc tế, Quy chế Rome năm 1998 của Tịa
án hình sự quốc tế thường trực quy định quyền không ai bị kết án hai lần vì một tội
phạm:“Ngoại trừ the q

đ nh tại Quy ch này, không ai b k t n t ước Tòa án về

m t hành vi cấu thành t i phạ

à n ười đó đã

k t án ho c được tun bố tr ng

án bởi Tịa án. Khơng ai b k t án bởi Tòa án khác về m t t i phạ
Điề 5 à n ười đó đã


q

đ nh tại

k t án ho c được tuyên bố tr ng án bởi Tòa án” [16 – k1,

k2 Đ.20]. Ngun tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm như một sợi chỉ đỏ
xuyên suốt tạo hành lang tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm
tội. Đây được xem là một điểm sáng cho pháp luật hình sự quốc tế, tạo đà thay đổi
tích cực đối với hệ thống pháp luật hình sự của các quốc gia trên tồn thế giới, trong
đó có hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam.
e

1.2.2.
.

Ở Việt Nam, cho đến trước năm 2013, chưa có một văn bản pháp luật nào quy
định một cách minh thị về nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
Những dấu hiệu của ngun tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm chỉ thể
hiện một cách rời rạc trong một số quy định pháp luật tố tụng hoặc trong quá trình
xét xử thực tiễn của các cơ quan THTT. Nhận thấy sự quan trọng trong việc thể
hiện và thi hành một cách đồng bộ nguyên tắc này trong đời sống pháp lý, việc ghi
nhận nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm trở thành một địi hỏi
mang tính tiến bộ và thời đại nhằm thúc đẩy nhiệm vụ mở rộng và đảm bảo quyền
con người.
Là thành viên Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966,
trên cơ sở học hỏi và kế thừa kỹ năng lập pháp tiến bộ kết hợp với những yêu cầu
đặc thù về chính trị - xã hội trong nước, Việt Nam lần đầu tiên ghi nhận chính thức
ngun tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm trong đạo luật có hiệu lực

pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Nằm trong chương II của Hiến pháp 2013 về quyền
15


con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: “Khơng ai b k t hai l n vì m t
t i phạm” [11- Đ.31] khẳng định một sự thật khách quan không thể chối cãi về sự
tồn tại của nguyên tắc này như một quyền thiêng liêng của con người trong xã hội
dân chủ pháp quyền.
Đảng và Nhà nước chỉ rõ “Thể ch hóa k p thời đ
c

đ

đún đ n đường lối

Đảng, cụ thể hóa Hi n pháp về xây d n Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam c a nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bả đảm quyền c n n ười, quyền
t do, dân ch c a công dân; xây d ng nền kinh t th t ườn đ nh hướng XHCN,
phát triển văn hó – xã h i, giữ vững quốc phịng an ninh” [12- Mục 2.1]. Trải qua
hơn hai năm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, BLTTHS Việt Nam
2015 ra đời đã chính thức ghi nhận nguyên tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội
phạm trở thành một nguyên tắc pháp luật đặc thù trong hệ thống các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật TTHS. Với vai trị và vị trí đó của mình, ngun tắc khơng ai bị
kết án hai lần vì một tội phạm đã thể hiện sự chi phối toàn diện đến tất cả hoạt động
tố tụng vụ án hình sự từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử người phạm tội.
e

1.2.3.
ư


.

Để đưa ra một kết quả nghiên cứu đa dạng và chuyên sâu hơn, trong phạm vi
nghiên cứu của khóa luận này, tác giả sẽ nghiên cứu một cách sơ bộ nguyên tắc
không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm theo quy định của pháp luật của một số
nước trên thế giới.
Tuy nhiên, cần phải xác định rõ rằng, việc tiến hành nghiên cứu nguyên tắc
khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm theo quy định của một số nước trên thế
giới được thực hiện trong phạm vi một quy định pháp luật về ngun tắc này mà
khơng hướng đến tồn bộ hệ thống pháp luật hay hệ tư tưởng mà quốc gia đó đang
có. Việc nghiên cứu này nhằm mục đích làm nổi bật hơn nữa nội dung nguyên tắc
không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm mà khơng nhằm mục đích nhấn mạnh sự
khác biệt hay sự xung đột trong các hệ thống pháp luật của các nước.

16


Ở một số nước, nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm được
xây dựng nhằm phân định quyền tài phán và vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
TTHS giữa các nước. Trong một số trường hợp, nguyên tắc không ai bị kết án hai
lần vì một tội phạm khơng được quy định trực tiếp tại BLTTHS của quốc gia đó, ví
dụ tinh thần ngun tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm trong hệ thống
pháp luật Trung Hoa được quy định tại Điều 10 BLHS Trung Hoa, theo đó: “N ười
phạm t i ở ngoài lãnh thổ nước C ng hòa nhân dân Trung Hoa và phải ch u TNHS
the q

đ nh c a B luật nà

cứ the q


th

ù đã b xét xử ở nước ngồi v n có thể b truy

đ nh c a B luật này. Tuy nhiên, n

n ười đó đã ch u hình phạt ở

nước ngồi thì có thể được miễn hình phạt ho c áp dụng hình phạt nhẹ hơn”.
Giống với tinh thần quy định về nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một
tội phạm trong hệ thống pháp luật Trung Hoa, Điều 153c BLTTHS Liên Bang Đức
ghi nhận tinh thần ngun tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm nhằm mục
đích phân định và bảo vệ quyền tài phán của Tịa án hình sự quốc gia. Theo đó:
“ Điều 153c. [Miễn truy tố t i phạm th c hiện ở nước ngoài]
(1) Cơ q n C n tố có thể miễn truy tố đối với hành vi phạm t i:
1. Đã được th c hiện bên ngồi phạm vi lãnh thổ mà luật này có hiệu l c,
ho c n ười xúi giục h

n ười đồng phạm với t i phạm th c hiện bên ngoài phạm

vi lãnh thổ mà luật này có hiệu l c đã th c hiện hành vi đó t n

hạm vi lãnh thổ

có hiệu l c c a luật này;
2. D n ười nước ngoài th c hiện tại nước Đức ho c trên tàu thuyền ho c
nước ngoài;
3. N u hình phạt đã được thi hành đối với b cáo ở nước ngồi và hình phạt
d ki n áp dụng ở Đức à h n đ n

c

ể so với hình phạt ở nước ngoài ho c n u b

đã được tuyên vô t i bằng m t bản n đã có hiệu l c ở nước ngồi.
(2) Cơ q n C n tố có thể miễn truy tố t i phạ được th c hiện t n

nhưn

thông qua m t hành vi được th c hiện bên ngoài phạm vi lãnh thổ mà luật này có
hiệu l c n u việc THTT sẽ

n

cơ tổn hại nghiêm trọng tới nước C ng hoà

17


Li n

n Đức ho c n u các lợi ích quan trọng khác c a xã h i cho thấy khơng c n

thi t phải truy tố.
(3) N
hợ q

đã có q

t đ nh truy tố Cơ q


n C n tố có thể trong nhữn t ường

đ nh tại khoản (1) điểm 1 và 2, và khoản (2) rút lời bu c t i tại bất cứ giai

đ ạn nào c a quá trình tố tụn và đ nh chỉ tố tụng n u việc THTT sẽ gây ra ng
tổn hại nghiêm trọng tới nước C n h à Li n



n Đức ho c n u các lợi ích quan

trọng khác c a xã h i cho thấy không c n thi t phải truy tố.
(4) N u t i phạ
khoản (1) điể

q

đ nh tại Điều 74a khoản (1) điể

2 đ n 6 và Điều 120

2 đ n 7, Luật Tổ chức T à n à đối tượng c a hoạt đ ng tố tụng,

Công tố t ưởng Liên bang sẽ có những thẩm quyền này.”
Dựa vào những quy định của pháp luật các quốc gia về nguyên tắc không ai bị
kết án hai lần vì một tội phạm, cụ thể là pháp luật Trung Hoa và pháp luật Liên
Bang Đức có thể thấy việc quy định tinh thần nguyên tắc khơng ai bị kết án hai lân
vì một tội phạm trong BLTTHS Liên Bang Đức có những điểm tiến bộ gần giống
với quy định về nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm trong hệ

thống pháp luật TTHS Việt Nam. Với quy định về nguyên tắc khơng ai bị kết án hai
lần vì một tội phạm trong pháp luật Trung Hoa, Tiến sĩ Nguyễn Thị Phương Hoa và
Vũ Thị Thúy đã có nhận xét: “ Chúng tôi cho rằng, việc giới hạn quyền không b k t
án hai l n vì m t hành vi phạm t i như t n chư

ả đảm triệt để quyền c n n ười

và không công vằng cho m t số n ười phạm t i. Bởi lẽ, n u m t n ười th c hiện
hành vi phạm t i thu c thẩm quyền xét xử c a m t quốc gia thì họ chỉ b k t án m t
l n với m t bản án có hiệu l c pháp luật. Nhưn n u hành vi phạm t i c a họ thu c
thẩm quyền xét xử c a nhiều quốc gia khác nhau thì họ có thể b k t án hiều l n với
nhiều bản án cùng có hiệu l c nên họ có x hướng b trừng phạt n n hơn. Điề đó
sẽ tạo s bất

nh đẳng giữa nhữn n ười phạm t i và xâm phạm nhân quyền c a

n ười có hành vi phạm t i thu c thẩm quyền xét xử c a nhiều quốc i ”. Tác giả
đồng tình với quan điểm trên, nguyên nhân cho kết luận trên là vì quy định về nội
dụng tinh thần nguyên tắc khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm trong pháp luật
Trung Quốc là một quy định theo hướng mở rộng quyền tài phán của Tòa án Trung
18


×