Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định bộ luật hình sự năm 2015 – lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.22 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

NGUYÊN TẮC XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI
18 TUỔI PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 2015 – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Mai Thị Thủy
Người thực hiện: Hồng Thái Bảo
MSSV: 1553801013008
Lớp: Hình sự 40

TP. HỒ CHÍ MINH
NIÊN KHĨA: 2015 – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18
tuổi phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 – Lý luận và thực tiễn”
là cơng trình nghiên cứu do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Th.S
Mai Thị Thủy. Các nội dung, thông tin được trình bày trong khóa luận là trung thực,
các thơng tin được trích dẫn nguồn đầy đủ. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời
cam đoan của mình.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc nghiên cứu cơng trình khoa học cũng
như vốn kiến thức cịn hạn hẹp và chưa được tiếp xúc nhiều với thực tiễn nên đề tài
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Tác giả rất mong nhận
được sự trao đổi và góp ý chân thành từ q thầy cơ và các bạn đọc.
Tác giả xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cơ Mai Thị Thủy đã


định hướng cho tác giả trong việc nghiên cứu đề tài, tiếp cận nguồn tài liệu, cách thức
thực hiện và góp ý để giúp cho tác giả hồn thiện hơn khóa luận này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019
Sinh viên

Hoàng Thái Bảo


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

BR:

Bejing Rule 1985 (Quy tắc Bắc Kinh năm 1985)

CHXHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

CTKGG:

Cải tạo không giam giữ

CRC:


The children, Young Persons and their Families (Oranga Tamariki) Act/
Công ước quốc tế về các quyền trẻ em 1989

CYPFA:

The Children, Young Persons and Their Families Act

FGC:

The Family Group Conference

HTTP:

Hỗ trợ tư pháp

HPBS:

Hình phạt bổ sung

ICCPR:

Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966

NCTN:

Người chưa thành niên

NCTNPT:


Người chưa thành niên phạm tội

PLHS:

Pháp luật hình sự

TANDTC:

Tịa án Nhân dân Tối cao

THAHS:

Thi hành án hình sự

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XLCH:

Xử lý chuyển hướng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ

ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI......................................................... 8
1.1. Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý đối
với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội................................................................................ 8
1.1.1. Khái niệm các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ........... 8
1.1.2. Cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam ................................................................... 10
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội .................................................................................................................. 14
1.2. Khái quát lịch sử quy định của PLHS Việt Nam về các nguyên tắc xử lý đối
với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội.............................................................................. 14
1.2.1. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của
PLHS Việt Nam giai đoạn trước năm 1985 ............................................................ 14
1.2.2. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của
BLHS năm 1985 ...................................................................................................... 17
1.2.3. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của
BLHS năm 1999 ...................................................................................................... 18
1.3. Nguyên tắc xử lý đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật quốc
tế và PLHS của một số nƣớc trên thế giới ............................................................. 20
1.3.1. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật quốc
tế.............................................................................................................................. 20
1.3.2. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong PLHSmột số
nước trên thế giới .................................................................................................... 27
1.3.2.1. Quy định về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong
BLHS Liên Bang Nga .......................................................................................... 27
1.3.2.2. Quy định về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong
BLHS Thụy Điển .................................................................................................. 29
1.3.2.3. Quy định về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong
PLHS NewZealand .............................................................................................. 31



CHƢƠNG II. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ CÁC
NGUYÊN TẮC XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG ............................................................................................. 34
2.1. Quy định của BLHS năm 2015 về các nguyên tắc xử lý đối với ngƣời dƣới
18 tuổi phạm tội ........................................................................................................ 34
2.1.1. Nhóm nguyên tắc xử lý chủ đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ......... 35
2.1.2. Nhóm nguyên tắc áp dụng hình phạt và án tích đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội .................................................................................................................. 37
2.1.3. Nhóm nguyên tắc XLCH ............................................................................... 40
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về các nguyên tắc xử lý đối với ngƣời dƣới 18
tuổi phạm tội tại Việt Nam ...................................................................................... 47
CHƢƠNG III. NHỮNG ƢU ĐIỂM, HẠN CHẾ TRONG QUY ĐỊNH CỦA
BLHS NĂM 2015 VỀ CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ............................................... 59
3.1. Những ƣu điểm, hạn chế trong quy định của BLHS năm 2015 về các
nguyên tắc xử lý đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội .......................................... 59
3.1.1. Ưu điểm của BLHS năm 2015 trong việc quy định các nguyên tắc xử lý đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................................................. 59
3.1.2. Hạn chế của BLHS năm 2015 trong việc quy định các nguyên tắc xử lý đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................................................. 60
3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam về các nguyên tắc xử lý
đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội ....................................................................... 66
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em luôn được xác định là nguồn lực quan trọng, là nhân tố chủ chốt cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế, nhiệm vụ

trọng tâm của mỗi quốc gia và của toàn xã hội là phải đầu tư, đảm bảo cho thế hệ trẻ có
được những điều kiện tốt nhất để phát triển tồn diện.Tuy nhiên, cùng với cơng cuộc
đổi mới và hội nhập là những thách thức không nhỏ và những hệ lụy, mặt trái gây tác
động mạnh mẽ đến nhận thức, suy nghĩ và hành động của con người. Đặc biệt là những
người dưới 18 tuổi, chưa hoàn thiện cả về mặt thể chất lẫn nhận thức.Vì vậy, trong thời
gian gần đây, tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội đang gia tăng một cách đáng báo
động với nhiều hành vi mang tính chất táo bạo, liều lĩnh do thiếu sự hiểu biết, bị ảnh
hưởng từ những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Do đó, vấn đề phịng ngừa tội
phạm chưa thành niên ln là mối quan tâm hàng đầu và đặt ra rất nhiều yêu cầu cấp
bách cho các cơ quan ban ngành phối hợp thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả.
Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta luôn xây dựng những chính sách cụ
thể, rõ ràng để bảo vệ, chăm lo những đối tượng này. Đồng thời luôn đưa ra những biện
pháp xử lý phù hợp để hướng đến mục đích chính là cải tạo, giáo dục người dưới 18
tuổi phạm tội thành những công dân tốt cho xã hội. Thế nhưng, các biện pháp xử lý khi
áp dụng vào thực tiễn hầu như chưa đem lại hiệu quả cao khi nhìn vào thực trạng người
dưới 18 tuổi phạm tội vẫn chưa thuyên giảm, thậm chí, tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi ngày càng tăng lên, các đối tượng thường xuyên tái
phạm…Trong suốt quá trình thi hành, các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội đã bộc lộ khá nhiều điểm hạn chế của mình như việc chưa bảo đảm lợi ích
cho người dưới 18 tuổi phạm tội, hình phạt tù vẫn được áp dụng rộng rãi và chủ yếu, tỷ
lệ người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS là rất thấp… Chính vì thế, mục đích

1


của các biện pháp xử lý khoan hồng, nhân đạo dành cho đối tượng người dưới 18 tuổi
phạm tội mà nhà nước đề ra vẫn chưa thể đạt được. Nguyên nhân có thể kể đến chính
là xuất phát từ việc quy định các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
cịn mang tính chung chung, chưa bảo vệ tốt quyền lợi cho họ; một số quy định thiếu
các văn bản hướng dẫn, gây khó khăn cho các cơ quan chức năng phân tích, đánh giá,

chưa thống nhất trong cách hiểu về đường lối, nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội; các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng chưa chủ động, mạnh dạn phát
huy vai trị của mình…
Mặt khác, hiện nay Việt Nam đã là thành viên của những công ước quốc tế về
quyền con người, quyền trẻ em thì nghĩa vụ của chúng ta là phải nội luật hóa các quy
định về nguyên tắc xử lý một cách phải chặt chẽ, phù hợp với luật pháp quốc tế hơn
nữa. Không những thế, PLHS Việt Nam cũng phải làm sao tăng cường hiệu quả áp
dụng của các biện pháp xử lý này trên thực tế. Đồng thời, nó cũng phải tuân thủ đường
lối, chính sách và tiềm lực của nhà nước ta trong từng thời kỳ. Việc hoàn thiện những
nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội chính là nền tảng then chốt, là kim chỉ
nam để tạo ra những hướng đi đúng đắn, góp phần vào cơng cuộc đấu tranh đẩy lùi
những tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.
Chính vì xuất phát từ các u cầu cấp thiết như đã phân tích ở trên, tác giả đã lựa
chọn đề tài “Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định
BLHS năm 2015 – Lý luận và thực tiễn” nhằm nghiên cứu, phân tích những vướng
mắc, bất cập trong q trình áp dụng và đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định
của PLHS Việt Nam về các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát, tìm hiểu cho thấy có rất nhiều tài liệu, cơng trình nghiên cứu khoa
học có liên quan đến đề tài của tác giả như:
Về Giáo trình, sách chuyên khảo: Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2014),
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần chung; Đặng Thanh Nga - TS. Trương

2


Quang Vinh (2011), NCTNPT – Đặc điểm tâm lý và chính sách xử lý (Sách chuyên
khảo); Bộ Lao động – Thương binh và xã hội - Vụ Pháp chế, UNICEF Việt Nam, Tài
liệu tập huấn tư pháp NCTN; Trung tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công
dân, khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về

quyền con người,...
Những giáo trình, sách chuyên khảo này đã chỉ ra được những khái niệm cơ bản
về “TNHS”, “NCTNPT”, phân tích, bình luận khái quát các nguyên tắc xử lý đối với
NCTNPT, giới thiệu các văn bản quốc tế quan trọng về xử lý NCTNPT, phân tích
những đặc điểm tâm lý nổi bật của NCTNPT…
Về các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật:
- Luận án tiến sỹ: Hồng Minh Đức (2016), Chính sách hình sự đối với NCTNPT
ở Việt Nam hiện nay, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam…
- Luận văn thạc sỹ: Đỗ An Bình (2002), Bảo vệ trẻ em và NCTN bằng PLHS Việt
Nam – Lý luận và thực tiễn, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh; Nguyễn Tiến Hồn (2013),
Các ngun tắc xử lý NCTNPT trong PLHS Việt Nam, Khoa luật – ĐH Quốc gia Hà
Nội; Nguyễn Văn Hoàn (2017), Các biện pháp thay thế cho hình phạt áp dụng đối với
NCTN phạm tội – Nghiên cứu so sánh pháp luật New Zealand và Việt Nam, ĐH Luật
TP. Hồ Chí Minh…
- Khóa luận tốt nghiệp: Đỗ Công Ngọc (2018), Nguyên tắc xử lý đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự 2015, ĐH Luật TP. Hồ Chí
Minh; Nguyễn Thị Nghĩa (2012), TNHS của người chưa thành niên phạm tội trong
Luật hình sự Việt Nam – Lý luận và thực tiễn, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh; Trần Thanh
Tài (2018), Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn
TNHS trong Luật Hình sự Việt Nam, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh…
Những cơng trình này đã đưa ra khái niệm “NCTNPT”, phân tích những quy định
trong pháp luật quốc tế về tư pháp NCTN, phân tích các nguyên tắc xử lý đối với
NCTNPT, các hình phạt và biện pháp được áp dụng đối với NCTNPT; phân tích thực

3


trạng xét xử NCTNPT. Một số cơng trình nghiên cứu BLHS Trung Quốc, Liên bang
Nga, Thụy Điển…và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật,
chính sách xử lý NCTNPT, tăng cường các biện pháp hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng

cho NCTNPT.
Về các bài báo, bài tạp chí: Lê Cảm - Đỗ Thị Phượng (2004), “Tư pháp hình sự
đối với NCTN: những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so
sánh luật học”, Tạp chí TAND, số 20; Nguyễn Thị Phương Hoa (2016), “Chính sách
hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong những quy định mới của Bộ luật
hình sự 2015 và một số kiến nghị”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11; Phạm Thị
Thanh Nga (2014), “Thực thi Công ước quyền trẻ em ở Việt Nam: Tuổi chịu TNHS và
chế tài đối với NCTN phạm tội”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 18…và một số bài
viết khác đăng trên các tạp chí.
Các cơng trình nghiên cứu này đã nêu ra được những điểm hạn chế của các
nguyên tắc xử lý NCTNPT, hệ thống hình phạt áp dụng đối với NCTNPT, tham khảo
kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới như Canada, Vương quốc Anh…
để đưa ra một số đề xuất hoàn thiện PLHS Việt Nam về tăng cường các biện pháp
XLCH, ưu tiên áp dụng các hình phạt không tước tự do và các biện pháp giám sát, giáo
dục…
Bên cạnh đó, cịn có rất nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả khác viết về
chủ đề liên quan đến đề tài của tác giả. Tuy nhiên, hầu hết các cơng trình nghiên cứu
mà tác giả tìm hiểu đều đưa ra những quan điểm, nhận định và góc nhìn khác nhau,
một số cơng trình nghiên cứu có kế thừa và phát triển các quan điểm khoa học đúng
đắn về các nguyên tắc xử lý NCTNPT. Đối với các cơng trình nghiên cứu trực tiếp về
các ngun tắc xử lý NCTNPT thì phân tích chun sâu, cụ thể về từng ngun tắc cịn
các cơng trình nghiên cứu về TNHS, quyết định hình phạt thì phân tích khái qt, cơ
đọng làm nền tảng để mổ xẻ các nguyên tắc đặc thù khác. Do đó, điểm mới trong cơng
trình nghiên cứu này của tác giả là sẽ khai thác cả về mặt lý luận và thực tiễn, đưa ra

4


những điểm hạn chế, bất cập mới trong việc quy định và áp dụng pháp luật về các
nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, lý giải từ cả góc độ pháp luật

quốc tế, PLVN và tham khảo PLHS của các quốc gia khác.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là thông qua quy định của BLHS năm 2015 để
đánh giá, phân tích những vướng mắc, bất cập còn tồn tại trong quy định của PLHS
Việt Nam về các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Trên cơ sở đó,
đưa ra các kiến nghị hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam về vấn đề này.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, Khóa luận xác định các nghiệm vụ:
- Phân tích những vấn đề lý luận về các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18
tuổi phạm tội như khái niệm, cơ sở, ý nghĩa của các nguyên tắc; khái quát lịch sử quy
định của PLHS Việt Nam về các nguyên tắc; phân tích quy định của pháp luật quốc tế
và PLHS của một số nước trên thế giới về các quy định liên quan.
- Phân tích quy định của BLHS năm 2015 về các nguyên tắc xử lý đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội và thực trạng áp dụng, trên cơ sở đó đưa ra những vướng mắc,
bất cập cịn tồn tại.
- Đưa ra kiến nghị hồn thiện quy định của PLHS Việt Nam về các nguyên tắc xử
lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định của BLHS năm 2015 về các nguyên
tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và thực trạng áp dụng PLHS về vấn đề
này.
Về phạm vi nghiên cứu, Khóa luận xác định phạm vi nghiên cứu như sau:
- Phạm vi về nội dung: Khóa luận nghiên cứu quy định của BLHS năm 2015 về
các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; đồng thời, so sánh, đối chiếu
với quy định của BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999 về vấn đề này.

5


- Phạm vi về khơng gian, thời gian: Khóa luận nghiên cứu số liệu trong phạm vi
cả nước và một số thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian

từ năm 2007 đến 2017. Bên cạnh đó, khóa luận cịn nghiên cứu một số vụ án điển hình
trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2018 để làm rõ nội dung nghiên cứu của đề tài.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử làm phương pháp luận. Các phương pháp cụ thể được sử dụng để thu
thập, phân tích và xử lý thơng tin gồm:
- Phương pháp phân tích: được sử dụng để phân tích các nội dung cần nghiên cứu
và nhận thức một cách khái quát các nội dung, các vấn đề được nghiên cứu, khái quát
kết quả nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng xuyên suốt để so sánh các nguyên tắc xử lý
người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS năm 2015 với BLHS năm 1985 và BLHS
năm 1999, làm nổi bật lên những điểm hạn chế, điểm mới trong các quy định tại Điều
91 BLHS năm 2015.
- Phương pháp liệt kê: được sử dụng để trình bày lịch sử quy định về xử lý
NCTNPT trong PLHS Việt Nam qua các thời kỳ.
- Phương pháp thống kê số liệu, đối chiếu: được sử dụng chủ yếu ở phần thực tiễn
áp dụng các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội tại Việt Nam.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Trong hoạt động lập pháp, tác giả hy vọng đề tài sẽ góp phần nhỏ vào việc hoàn
thiện quy định của PLHS Việt Nam về các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
Trong hoạt động thực tiễn, khố luận có thể đóng góp các giải pháp thiết thực có
thể nâng cao tính khả thi và hiệu quả áp dụng các biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội.

6


Trong hoạt động nghiên cứu, khóa luận này có thể trở thành tài liệu tham khảo
cho những người có quan tâm đến vấn đề này.

7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung khóa luận gồm ba chương:
Chương I. Những vấn đề lý luận về các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.
Chương II. Quy định của BLHS năm 2015 về các nguyên tắc xử lý đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng.
Chương III. Những ưu điểm, hạn chế trong quy định của BLHS năm 2015 về các
nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và kiến nghị hoàn thiện.

7


CHƢƠNG I.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ ĐỐI VỚI
NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý đối
với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999 đều sử dụng thuật ngữ “NCTNPT” trong
vấn đề xác định TNHS và quyết định hình phạt đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi phạm tội. BLHS năm 2015 lần đầu tiên có sự thay đổi khi sử dụng thuật ngữ
“người dưới 18 tuổi phạm tội” thay thế cho thuật ngữ “NCTNPT”.
Theo quy định của pháp luật quốc tế, khái niệm “trẻ em” và “NCTN” được sử
dụng đồng nhất. Quy định tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 nêu
rõ:“Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ
em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [17-Đ.1] hay Quy tắc Bắc Kinh xác định:
“NCTN là trẻ em hay người ít tuổi tùy theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì
phạm pháp theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn” [19-mục 2.2.a] và
trong các văn bản quốc tế khác như Quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về bảo vệ

NCTN bị tước tự do, Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở
NCTN cũng xác định: “NCTN là người dưới 18 tuổi” [12, 15]. Thơng qua đó có thể
thấy khái niệm “trẻ em” và “NCTN” là đồng nhất theo cách thức quy định của pháp
luật quốc tế.
Còn ở Việt Nam, “trẻ em” và “NCTN” là hai khái niệm riêng biệt được quy định
trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Ví dụ, Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy
định: “Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên” [5-Đ20], có thể suy ra
“NCTN là người dưới 18 tuổi”. Điều 90 BLHS năm 2015 tuy không đưa ra khái niệm
nhưng dựa trên quy định về giới hạn độ tuổi chịu TNHS là từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi thì BLHS năm 2015 cũng xác định “NCTN là người dưới 18 tuổi”. Tuy nhiên,

8


theo quy định tại Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 thì: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [6Đ.1].
Như vậy, có thể thấy khái niệm “NCTN” theo PLHS Việt Nam có sự đồng nhất
với pháp luật quốc tế nhưng khái niệm “trẻ em” lại khơng đồng nhất. Chính vì thế, sự
thay đổi về mặt thuật ngữ “NCTN” thành “người dưới 18 tuổi”, “trẻ em” thành “người
dưới 16 tuổi” sẽ giúp các nhà làm luật quy định chính xác đối với từng tội danh và
quyết định hình phạt phù hợp đối với từng tội phạm cụ thể.
Điều 12 BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu TNHS thì người từ đủ 14 tuổi
nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về một số tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng được liệt kê tại khoản 2 Điều 12; còn người từ đủ 16 tuổi trở lên
phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác. Kết
hợp với quy định tại Điều 90 BLHS năm 2015: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
phạm tội phải chịu TNHS theo những quy định của Chương này; theo quy định khác
của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này” –
Chương XII (Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội) thì các thuật ngữ
“NCTNPT” trước đây hay “người dưới 18 tuổi phạm tội” hiện nay đều dùng để chỉ về
cùng một đối tượng là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội.

Từ các quy định tại Điều 12 và Điều 90 BLHS năm 2015, tác giả rút ra khái niệm:
“Người dưới 18 tuổi phạm tội là những người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi tại
thời điểm thực hiện hành vi bị coi là tội phạm được quy định trong BLHS”.
Bên cạnh đó, có thể nói rằng, chính sách xử lý riêng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội xuất hiện và tồn tại gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của PLHS
Việt Nam. Với sự cân nhắc nhiều yếu tố khác nhau, việc xử lý người dưới 18 tuổi
phạm tội có những khác biệt đáng kể so với người từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội. Sự
khác biệt này trước hết thể hiện trong các quy định về TNHS đối với người dưới 18
tuổi phạm tội, trong đó quan trọng nhất là quy định về nguyên tắc xử lý đối với người

9


dưới 18 tuổi phạm tội. Đây là những quy định giữ vai trò định hướng đối với việc xử lý
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả nhận thấy một số tác giả đã trực tiếp hoặc gián
tiếp đưa ra quan điểm của mình về khái niệm “nguyên tắc xử lý” như sau:
Theo tác giả Lê Cảm và Đỗ Thị Phượng thì dưới góc độ khoa học: Nguyên tắc xử
lý về hình sự đối với NCTNPT là tổng hợp các quy phạm của PLHS thực định thể hiện
tính nhân đạo của chính sách hình sự của nhà nước để giải quyết vấn đề TNHS của
NCTNPT theo hướng giảm nhẹ hơn so với mức độ TNHS của người thành niên” [25tr.10].
Tác giả Trịnh Tiến Việt cho rằng: “Nguyên tắc xử lý NCTNPT là những nguyên
tắc cơ bản có tính chất chỉ đạo, xun suốt q trình khi xử lý NCTNPT, cũng như
phân loại mức độ phải chịu TNHS của từng lứa tuổi trong Điều 12 BLHS” [59-tr.13].
Còn theo tác giả Nguyễn Thị Phương Hoa đề cập trong bài báo khoa học rằng:
“Điều 91 BLHS năm 2015 quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội.
Đây là những nguyên tắc định hướng, chi phối việc xây dựng các quy định về TNHS
của người dưới 18 tuổi, đồng thời cũng là những nguyên tắc quan trọng trong việc áp
dụng PLHS xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội” [28-tr.25].
Từ các quan điểm trên, tác giả có thể đưa ra kết luận về các “Nguyên tắc xử lý đối

với người dưới 18 tuổi phạm tội” như sau: “Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18
tuổi phạm tội là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo mang tính định hướng, xuyên suốt
các quy định về xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, dựa trên các chuẩn mực quốc tế và
chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”.
1.1.2. Cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Việc quy định các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong
Luật hình sự Việt Nam xuất phát từ những cơ sở lý luận sau đây:

10


Thứ nhất, dựa trên các quy định tiến bộ của các văn bản pháp luật quốc tế trong
quy định về nguyên tắc xử lý đối với NCTNPT như Công ước quốc tế về quyền dân sự,
chính trị năm 1966, Cơng ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Các quy tắc tối thiểu
của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh năm 1985);
Hướng dẫn Ri-át năm 1990 về phòng ngừa phạm pháp ở NCTN; Hướng dẫn Viên năm
1997 về làm việc với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự; Quy tắc tối thiểu của Liên
hợp quốc về các biện pháp không giam giữ (Quy tắc Tokyo năm 1990); Quy tắc của
Liên hợp quốc bảo vệ NCTN bị tước tự do (Quy tắc Havana năm 1990). Đây là các văn
bản pháp lý quốc tế ràng buộc nghĩa vụ đối với tất cả các quốc gia thành viên và các
hướng dẫn quốc tế mang tính khuyến nghị để giải thích pháp luật, giúp các quốc gia dễ
dàng hơn trong công tác nội luật hóa. Những quy định liên quan trong nội dung các văn
bản này sẽ được tác giả phân tích cụ thể ở mục 1.3.1.
Thứ hai, việc quy định các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
cịn dựa trên chính sách của Đảng và nhà nước CHXHCN Việt Nam, luôn quan tâm
đến người dưới 18 tuổi phạm tội. Văn bản đứng đầu trong hệ thống pháp luật Việt Nam
– Hiến pháp năm 2013 của nước CHXHCN Việt Nam quy định tại Điều 37: “Trẻ em
được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào
các vấn đề về trẻ em” [1-Đ.37]. Quy định này trong Hiến pháp có vai trị rất quan

trọng, có tác dụng định hướng cho các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật
phải xây dựng và hoàn thiện các quy định nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho người
dưới 18 tuổi phạm tội.
Điều 5 Luật trẻ em năm 2016 quy định: “Bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em
trong các quyết định liên quan đến trẻ em. Tôn trọng, lắng nghe, xem xét, phản hồi ý
kiến, nguyện vọng của trẻ em...” [6-Đ5]. Có thể thấy “lợi ích tốt nhất” của trẻ em tiếp
tục được đặt lên hàng đầu, phù hợp với quy định của Hiến pháp và mang tính tham
khảo cho các văn bản pháp luật khác cần được xây dựng đồng bộ với tinh thần này.

11


Bên cạnh đó, cịn cần kể đến một số văn bản thể hiện đường lối xử lý về hình sự
rõ ràng hơn như Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về chiến
lược xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 xác định rõ mục tiêu: “Hoàn thiện chính sách hình sự, bảo đảm u cầu
đề cao hiệu quả phịng ngừa; hạn chế hình phạt tử hình, giảm hình phạt tù, mở rộng áp
dụng hình phạt tiền; CTKGG đối với các loại tội ít nghiêm trọng... Đẩy mạnh việc rà
soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp
với thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên...” [15-Mục
2.5]
Trên bình diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, thì Hiến pháp và
pháp luật luôn coi trẻ em, người dưới 18 tuổi là đối tượng cần bảo vệ, chăm sóc và
quan tâm đặc biệt khi họ là chủ thể của tội phạm cũng như khi họ là nạn nhân của tội
phạm. Nhận thức này đã được thể chế hóa trong các quy định của PLHS, pháp luật tố
tụng hình sự, pháp luật THAHS cũng như pháp luật về phòng ngừa tội phạm. Đây
chính là cơ sở pháp lý cho việc tiến hành các hoạt động truy cứu TNHS đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng và định hướng xây dựng các nguyên tắc xử lý người
dưới 18 tuổi phạm tội nói chung.
Thứ ba, việc quy định nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội còn

xuất phát từ yêu cầu của nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam. Sự thể hiện
nguyên tắc nhân đạo thông qua các quy định xuyên suốt trong BLHS về đường lối xử
lý hình sự, cơ sở chịu TNHS, hình phạt, quyết định hình phạt, miễn TNHS…
Thứ tư, việc quy định nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội còn
xuất phát từ đặc thù tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi phạm tội:
Một là, về sinh lý và thể chất: Người dưới 18 tuổi là những người chưa đạt được
sự phát triển toàn diện. Thời kỳ này chủ yếu là sự phát triển không cân bằng của hệ tim
mạch, tuyến nội tiết cũng như các bộ phận khác dễ đưa họ tới những cơn xúc động

12


mạnh, nóng nảy vơ cớ, sự kích động, dễ bị lôi kéo… dễ bị ảnh hưởng bởi những cái
thiếu lành mạnh, trái chuẩn mực xã hội thì sẽ dẫn tới hành vi phạm tội [24-tr.26, 27].
Hai là, về sự biểu lộ nhu cầu độc lập, khám phá cái mới: Người dưới 18 tuổi luôn
muốn tự hành động và tự quyết định theo ý kiến riêng của bản thân mà không muốn bị
ảnh hưởng bởi người khác, muốn tự quyết định cách thức và thời gian học tập, muốn
được mọi người tôn trọng, thể hiện trước hết trong các hoạt động học tập, giao tiếp bạn
bè…
Ba là, về nhận thức và quan niệm pháp luật của người dưới 18 tuổi phạm tội chưa
hình thành đầy đủ hoặc bị lệch lạc theo suy nghĩ chủ quan của họ. Khác với người
trưởng thành, người dưới 18 tuổi thường hành động mà không thể lường trước hết hậu
quả của hành vi. Mặt khác, không ít các em cho rằng, những yêu cầu và đòi hỏi của
chuẩn mực pháp luật chỉ được quy định trong các văn bản pháp luật và hồn tồn mang
tính hình thức cịn hành động thì phải căn cứ vào nhu cầu cụ thể của cá nhân thì mới
thể hiện được sự tự do trong cuộc sống [34-tr.38].
Bốn là, về bản tính tị mị, hiếu động, dễ bắt chước nên người dưới 18 tuổi có thể
bắt chước theo cả hình mẫu trong đời thực và trong phim ảnh sách báo. Hơn nữa, các
em dễ bị cuốn hút bởi những điều mới lạ, nhưng lại thiếu kinh nghiệm sống, không
phân biệt cái tốt với cái xấu, cái hay với cái dở, không được ai uốn nắn ngăn chặn kịp

thời sẽ dẫn đến hành vi phạm tội [61-tr.17]. NCTNPT thiếu điều kiện và bản lĩnh tự
lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao, dễ bị kích động, dễ bị lơi kéo vào các hoạt động
phạm pháp. Tuy nhiên, NCTN “có khả năng phục thiện nhanh hơn” vì động cơ của
phần lớn NCTNPT thường mang tính đặc thù về lứa tuổi, như nghịch ngợm, muốn tỏ
lịng dũng cảm, tự ái khơng muốn thua kém người khác, đánh giá sai tình huống và các
giá trị chuẩn mực trong các mối quan hệ xã hội, dễ dàng chịu ảnh hưởng của người
khác” [57-tr.444].

13


1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18
tuổi phạm tội
“Nguyên tắc xử lý” khơng chỉ đóng vai trị nền tảng mà cịn là khn mẫu để
thống nhất trong tư duy và áp dụng pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại
Việt Nam. Những nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội mang lại nhiều
ý nghĩa cực kỳ quan trọng từ việc thể hiện nguyên tắc khoan hồng, nhân đạo, sự quan
tâm đặc biệt của Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đến việc tạo ra
những cơ sở pháp lý thống nhất cho việc giải quyết các vụ án do người dưới 18 tuổi
thực hiện. Đồng thời, các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội sẽ góp phần
đáp ứng yêu cầu và nâng cao hiệu quả vào công tác đấu tranh, phòng chống người dưới
18 tuổi phạm tội, tập trung, chú trọng vào việc giáo dục, cải tạo, giúp đỡ người dưới 18
tuổi phạm tội có cơ hội hồn lương, tạo điều kiện để phát huy cơng tác tuyên truyền,
nâng cao ý thức pháp luật của người dưới 18 tuổi phạm tội.
1.2. Khái quát lịch sử quy định của PLHS Việt Nam về các nguyên tắc xử lý
đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội
1.2.1. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của
PLHS Việt Nam giai đoạn trước năm 1985
Trước khi có BLHS năm 1985, chưa có sự ghi nhận chính thức nào về các quy
phạm đề cập đến nguyên tắc xử lý đối với NCTNPT nhưng có một số giải thích thống

nhất có tính chất chỉ đạo liên quan đến nội dung cơ bản của nguyên tắc này đã được
biết đến trong thực tiễn xét xử của nước ta tại Chuyên đề sơ kết kinh nghiệm số
37/NCPL ngày 16/1/1976 của TANDTC như sau: “Về thực tiễn xét xử các vụ án về
NCTNPT mà theo đó: 1) phải coi việc phạm tội trong lúc chưa đến tuổi thành niên là
một trường hợp được giảm nhẹ tội, nghĩa là phải xử phạt nhẹ NCTN hơn người lớn
tuổi phạm tội trong những điều kiện tương tự; 2) Việc xử nhẹ nhiều, ít là tùy thuộc ở
trình độ nhận thức và trạng thái tâm lý của NCTN phát triển đến mức độ nào được thể
hiện ở độ tuổi, hồn cảnh phạm pháp, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

14


và của nhân thân người phạm tội, cũng như ở u cầu của tình hình chung” [25-tr.10].
Bên cạnh đó, việc xử lý tội phạm chưa thành niên trong giai đoạn này chủ yếu dựa vào
các báo cáo, hướng dẫn, sắc lệnh, thông tư khác… như sau:
- TANDTC cũng đưa ra hướng dẫn số 329-HS2 ngày 11/2/1967, đề ra yêu cầu áp
dụng biện pháp tư pháp thay thế hình phạt nhằm mục đích giáo dục NCTNPT: “Riêng
đối với các can phạm cịn ít tuổi (phạm tội hiếp dâm), cần phân biệt đối với những can
phạm trong lứa tuổi, từ khoảng 14 đến 16, chủ yếu nên dùng những biện pháp giáo dục
như: giao cho cha, anh, chú, bác bảo lĩnh và giáo dục; giữ trong các trại giáo dưỡng
vị thành niên; chỉ trong một số ít trường hợp có tình tiết thực sự nghiêm trọng mới cần
xét xử”. Những trường hợp phải áp dụng những hình phạt đối với NCTNPT thì văn bản
này cũng đã hướng dẫn: “Khi xét xử cần chiếu cố thích đáng đến trình độ hiểu biết
pháp luật non kém và khả năng dễ tiếp thu cải tạo giáo dục của họ, đến việc họ chưa
nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi của mình mà xử nhẹ hơn các
can phạm đã lớn tuổi... chỉ vào khoảng 1/2 mức án đối với can phạm lớn tuổi”.
- Quyết định số 217-TTg ngày 18/12/1967 của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
về việc tổ chức lại các trường giáo dục thiếu niên hư quy định:“Với những trường hợp
cần thiết thì phải truy cứu TNHS xét xử trước tịa án. Nói chung trẻ em hư dưới 14 tuổi
thì khơng đưa ra Tịa án xét xử; từ 14 tuổi đến 18 tuổi, nếu trường hợp phạm pháp cần

thiết phải đưa ra xét xử thì có thể châm chước đến tuổi còn non trẻ của chúng riêng đối
với loại từ 14 tuổi đến 16 tuổi, chỉ nên xét xử những trường hợp phạm tội nghiêm
trọng”. Nhìn chung trong giai đoạn này việc xử lý đối với NCTNPT là không nên đưa
ra xét xử tại Tòa án.
- Về vận dụng đường lối xử lý của Hội nghị tổng kết công tác 4 năm 1965 – 1968
của TANDTC cũng đưa ra những đường lối, yêu cầu xét xử cho TAND các cấp khi xét
xử những đối tượng này nên ưu tiên áp dụng các biện pháp tư pháp thay thế cho hình
phạt tù: “Đối với các em từ 14 đến 16 tuổi phạm tội trộm cắp nhiều lần, thì phải kiên
trì giáo dục, cải tạo, đề nghị đưa vào trường phổ thông công nông nghiệp hoặc trong

15


trường hợp bị truy cứu TNHS thì chỉ nên tuyên xử giao cho gia đình bảo lĩnh giáo dục
(nếu có điều kiện) hoặc chỉ nên áp dụng biện pháp án treo. Xử phạt tù giam, nhất là
những án phạt tù ngắn hạn hồn tồn khơng thích hợp với lứa tuổi đó và cũng khơng
đạt được một tác dụng thiết thực nào”.
Bên cạnh đó thì đường lối xử lý và áp dụng hình phạt đối với NCTN được quy
định rất rõ trong Chỉ thị số 46-TH ngày 14/1/1969 của TANDTC: “Nói chung, đối với
trẻ em hư dưới 14 tuổi thì khơng đưa ra Tòa án xét xử; từ 14 tuổi đến 18 tuổi, nếu
trường hợp phạm pháp cần thiết phải đưa ra xét xử thì châm chước đến tuổi cịn non
trẻ của chúng; riêng đối với loại từ 14 đến 16 tuổi, chỉ nên xét xử trong những trường
hợp phạm tội nghiêm trọng”.
Năm 1970 thông qua bản tổng kết kết số 452-HS2 của TANDTC ngày 10/8/1970
về thực tiễn xét xử loại tội giết người, hình phạt tử hình mới được loại trừ đối với
NCTN: “Cần truy tố xử các trường hợp giết người mà can phạm có từ 14 tuổi trịn trở
lên... Đối với các can phạm đã có từ 16 tuổi tròn trở lên cho đến dưới 18 tuổi một ít
cũng có thể xử nhẹ một phần so với can phạm đã lớn và đối với tất cả các loại can
phạm này, nói chung, khơng nên áp dụng hình phạt tử hình”.
Với những quy định trên, có thể thấy, trong giai đoạn này thì ngun tắc xử lý

NCTNPT có một số đặc điểm sau:
- Cân nhắc về việc không xử lý về hình sự hoặc có thể ưu tiên để áp dụng các
biện pháp tư pháp đối với NCTNPT.
- Trong trường hợp thấy cần thiết thì mới áp dụng hình phạt đối với NCTNPT.
- Đối với các mức hình phạt để áp dụng đối với đối tượng phạm tội này luôn phải
được giảm nhẹ hơn so với những người đã thành niên phạm tội tương tự và cần phải có
sự phân hóa theo độ tuổi.
- Tuyệt đối khơng được áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với
NCTNPT.

16


1.2.2. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của
BLHS năm 1985
BLHS năm 1985 đã dành hẳn một chương riêng (Chương VII) để quy định những
chính sách áp dụng mang tính khoan hồng, nhân đạo trong xử lý đối với NCTNPT.
Đây cũng là lần đầu tiên có một điều luật riêng biệt (Điều 59) với tên gọi “Những
nguyên tắc cơ bản về xử lý những hành vi phạm tội của NCTN” đánh dấu cho việc ra
đời một điều luật tập hợp các nguyên tắc xử lý đối với NCTNPT.
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý và yêu cầu của việc phòng chống tội phạm
NCTN, đồng thời thể hiện nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, các biện pháp xử lý
hình sự - gồm có hình phạt và các biện pháp tư pháp áp dụng với NCTNPT trong giai
đoạn này chủ yếu nhằm giáo dục họ, làm cho họ thấy được tính chất của tội phạm, sự
nghiêm minh của pháp luật, bản chất nhân đạo của các biện pháp áp dụng.
Trước hết, về độ tuổi chịu TNHS, BLHS năm 1985 quy định người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi chỉ chịu TNHS về tội phạm “nghiêm trọng do cố ý” còn người từ đủ
16 tuổi phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
Việc xử lý NCTNPT về nguyên tắc chung được quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều 59 là nhấn mạnh tinh thần nhân đạo, coi trọng giáo dục, giúp đỡ NCTNPT sửa

chữa sai lầm, trở thành cơng dân có ích cho xã hội; xem xét đến tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử; tập trung vào các biện pháp phòng ngừa, phối hợp giữa các chủ
thể gia đình, nhà trường và xã hội phát huy các biện pháp ấy, tiết kiệm các biện pháp
cưỡng chế và hình phạt.
Nguyên tắc miễn TNHS được quy định tại khoản 3 Điều 59 nêu ra các điều kiện
cần đáp ứng như: phạm tội ít nghiêm trọng, gây hại khơng lớn, có nhiều tình tiết giảm
nhẹ và đặc biệt là phải được gia đình và tổ chức xã hội nhận giám sát, giáo dục thì sẽ
được xem xét miễn TNHS mà không cần áp dụng bất cứ một biện pháp giáo dục nào.

17


Nguyên tắc xét xử và áp dụng hình phạt đối với NCTN trong giai đoạn này mới
chỉ được nêu ra một cách chung chung tại đoạn 2 khoản 3 Điều 59 trong những trường
hợp cần thiết hay dựa vào tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, căn cứ vào
những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phịng ngừa tội phạm chứ chưa có sự
phân hóa rõ ràng về thứ tự ưu tiên áp dụng biện pháp xử lý nào.
Nguyên tắc xử lý đối với NCTNPT tại khoản 4 Điều 59 đề cập đến việc không xử
phạt tù chung thân hoặc tử hình, khơng xử phạt tiền, HPBS đối với NCTNPT; trong
trường hợp bị tuyên phạt tù thì NCTNPT ln được hưởng mức án nhẹ hơn so với
người đã thành niên về cùng một tội danh và được giam giữ riêng.
Cuối cùng là nguyên tắc không xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với
người dưới 16 tuổi phạm tội được quy định tại khoản 5 Điều 59 dựa trên việc phân hóa
độ tuổi chịu TNHS.
Các biện pháp tư pháp và hình phạt trong giai đoạn này được quy định tại Điều
60 BLHS năm 1985 với những điều kiện riêng chứ không nằm trong điều luật về các
nguyên tắc xử lý đối với NCTNPT.
1.2.3. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của
BLHS năm 1999

Trong BLHS năm 1999, nguyên tắc xử lý đối với NCTNPT được quy định tại
Điều 69 được sửa đổi, bổ sung theo hướng hoàn thiện hơn. Về nguyên tắc xử lý chủ
đạo, BLHS năm 1999 tiếp tục ghi nhận“việc xử lý hành vi phạm tội của NCTN chủ yếu
nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành cơng
dân có ích cho xã hội”. Đồng thời, khi tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
cần phải “xác định khả năng nhận thức của họ về hành vi phạm tội, nguyên nhân và
điều kiện gây ra tội phạm” được quy định tại khoản 1 Điều 69. Đây là nguyên tắc thể
hiện rõ mục tiêu của việc xử lý NCTNPT là nhằm giáo dục và giúp họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh đồng thời hướng tới mục đích phịng ngừa tội phạm ở
NCTN.

18


Về tuổi chịu TNHS, BLHS năm 1999 cũng quy định hai cột mốc quan trọng là từ
đủ 14 đến chưa đủ 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Về nguyên tắc miễn TNHS tại khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 khơng chỉ áp
dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng mà còn mở rộng thêm trường hợp NCTNPT
“nghiêm trọng”, gây hại khơng lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc
cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục thì cũng có thể được miễn TNHS.
Về nguyên tắc truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt tại khoản 3 Điều 69 BLHS
năm 1999 quy định tương tự khoản 3 Điều 59 BLHS năm 1985 là chỉ trong trường hợp
cần thiết là phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về
nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Về nguyên tắc áp dụng biện pháp tư pháp tại khoản 4 Điều 69: “Khi xét xử, nếu
thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với NCTNPT, thì Tồ án áp dụng một
trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này”. Nguyên tắc
này thường được Tòa án hiểu theo hướng không phải ưu tiên áp dụng các biện pháp tư
pháp mang tính chất giáo dục, phịng ngừa đối với NCTNPT mà ln ln chú trọng áp
dụng hình phạt đầu tiên.

Về nguyên tắc áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình, phạt tiền, HPBS được
quy định tại khoản 5 Điều 69 nêu rõ việc cấm áp dụng hai loại hình phạt tù chung thân
và tử hình đối với NCTNPT. Nếu phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì mức án áp
dụng với NCTN cũng phải nhẹ hơn so với người đã thành niên. Quy định “Khơng áp
dụng hình phạt tiền đối với NCTNPT ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và khơng
áp dụng hình phạt bổ sung đối với NCTNPT” là hoàn toàn hợp lý vì khó đảm bảo được
khả năng thi hành cịn HPBS cho thấy tính chất trừng phạt tăng nặng, khơng phù hợp
với nguyên tắc nhân đạo mà nhà nước dành cho đối tượng này.
Về nguyên tắc xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm tại khoản 6 Điều 69 quy
định không áp dụng đối với người phạm tội chưa đủ 16 tuổi, tương tự như quy định tại
khoản 5 Điều 59 BLHS năm 1985.

19


Tóm lại, lịch sử quy định nguyên tắc xử lý đối với NCTNPT có rất nhiều quy
định xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, chính sách khoan hồng, giảm nhẹ dành cho đối
tượng này. Các quan điểm xử lý theo tinh thần chung là giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa
sai lầm, phát triển lành mạnh, ưu tiên áp dụng biện pháp xử lý phi hình sự, biện pháp
xử lý hình sự mang tính chất giáo dục (biện pháp tư pháp); khơng áp dụng các hình
phạt nghiêm khắc nhất (tù chung thân và tử hình) và hình phạt bổ sung; hạn chế áp
dụng hình phạt tù và hình phạt tiền, hạn chế hậu quả mang án tích do bị kết án đối với
NCTNPT [41-tr.56].
1.3. Nguyên tắc xử lý đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật
quốc tế và PLHS của một số nƣớc trên thế giới
1.3.1. Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật
quốc tế
Theo pháp luật quốc tế, khái niệm “trẻ em” và “NCTN” được hiểu như nhau, đều
là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, theo phân tích tại mục 1.1.1 của Khóa luận thì thuật
ngữ “người dưới 18 tuổi” mà PLHS Việt Nam quy định là hoàn toàn phù hợp với các

quy định về NCTN trong pháp luật quốc tế hiện nay.
* Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR)
Trong nội dung phần III của cơng ước có một số quy định liên quan đến việc xử
lý người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
- Khoản 5 Điều 6 ICCPR quy định: “Khơng được phép tun án tử hình với
người phạm tội dưới 18 tuổi” [16-Đ6.5]. Quy định này nhằm cụ thể hóa quyền được
sống của con người thể hiện trong cơng ước và khơng ai có thể bị tước mạng sống một
cách tùy tiện. Đặc biệt là người dưới 18 tuổi có đặc thù là chưa phát triển hồn thiện cả
về thể chất lẫn ý thức nên dễ dẫn đến những hành động sai lầm.
- Điểm b khoản 2 Điều 10 ICCPR quy định: “Những bị can chưa thành niên phải
được giam giữ tách riêng khỏi người lớn và phải được đưa ra xét xử càng sớm càng
tốt”; khoản 3 Điều 10 quy định: “Những phạm nhân vị thành niên phải được tách

20


×