Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

123Doc dieu tra thanh phan loai cay co gia tri cam mau tai mot so dia ban trong tinh nghe an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.24 KB, 56 trang )

Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
- PGS.TS Ngô Trực Nhà đà gia đề tài, tận tình hớng dẫn và tạo mọi điều kiện
thuận lợi nhất cho việc nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
- TS Phạm Hồng Ban, TS Hoàng Văn Mại đà đóng góp nhiều ý kiến quý báu
trong quá trình làm luận văn.
- Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Sau đại học, các thầy cô
giáo thuộc khoa Sinh học trờng Đại học Vinh, cùng Ban lÃnh đạo, các cán bộ kỹ
thuật viên Trung tâm kiểm nghiệm Dợc phẩm Mỹ Phẩm Nghệ An đà giúp đỡ và
tạo mọi điều kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứu.
Tôi cũng xin đợc cảm ơn những ngời thân trong gia đình, bạn bè cùng các
anh chị học viên cao học đà động viên, giúp đỡ,tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 12 năm 2009.
Tác giả


Mở đầu
Cách đây hàng nghìn năm khi nền y học cha phát triển thì việc chữa bệnh phụ
thuộc nhiều vào sù hiĨu biÕt vỊ c©y cá cđa con ngêi, viƯc sử dụng cây cỏ chữa bệnh
đợc truyền từ đời này sang đời khác và tích luỹ thành các bài thuốc chữa bệnh lu
truyền trong dân gian. Từ đây hình thành nªn mét lÜnh vùc míi - y häc cỉ trun.
Y học cổ truyền phát triển dựa vào nguồn tài nguyên cây thuốc trong tự nhiên.
Theo thống kê của tổ chức y học thế giới (WHO) thì đến năm 1985 đà có gần
20.000 loài thực vật (trong tổng số 250.000 loài đà biết) đợc sử dụng làm thuốc
hoặc cung cấp các chế phẩm để chế biến thành thuốc. Trong đó ấn Độ có khoảng
6000 loài, Trung Quốc 5000 loài, vùng nhiệt đới Châu Mỹ hơn 1900 loài thực vật
có hoa dùng làm thuốc.
ở Việt Nam với 54 dân tộc anh em sống trải dài trên khắp miến rừng núi cao.
ĐÃ từ lâu đồng bào các dân tộc miền núi nớc ta đều sống nhờ vào rừng, họ khai


thác lơng thực, thực phẩm, rau ăn, nớc uống, vật liệu xây dựng, và đặc biệt là thuốc
chữa bệnh từ cây cỏ trong rừng. ở các vùng sâu, vùng xa thì việc sử dụng các cây
thuốc để chống chọi với bệnh tật là chủ yếu.
Từ đời này qua đời khác, những kinh nghiệm sử dụng cây cỏ chữa bệnh ấy hình
thành nên các bài thuốc đợc lu truyền trong dân gian. Những kinh nghiệm ấy tập
trung ở ngời già. Từ đó hình thành nên các bài thuốc cổ truyền với mục đích chữa
trị nhiều bệnh khác nhau. XÃ hội càng phát triển, môi trờng càng bị ô nhiễm, nhiều
bệnh tật mới xuất hiện, thuốc tây dần dần bị bất lực nhng những cây thuốc và bài
thuốc cổ truyền lại chữa trị một cách có hiệu quả nên việc sử dụng các bài thuốc cổ
truyền từ cây cỏ để chữa bệnh đang đợc nhiều nớc trên thế giới chú ý. Ngời ta đầu
t kinh phí thu mẫu cây thuốc, nghiên cứu hoạt chất hóa học của chúng và chế biến
thành dợc thảo đặc trị.


Việc su tầm cây thuốc và bài thuốc cổ truyền hiện nay đà đợc nhiều nhà khoa
học chú ý và chuyên tâm nghiên cứu nh GS- TS Đỗ Tất Lợi, TS Võ Văn Chi đà có
rất nhiều công trình đợc công bố trong và ngoài nớc. ở Nghệ An việc su tầm
nghiên cứu cây thuốc cũng đợc chú ý từ lâu. Sở Y Tế Nghệ An đà phối hợp với
Viện dợc liệu Trung ơng qua nhiều đợt điều tra cây thuốc trên địa bàn các huyện
trong tỉnh đà công bố rất nhiều cây thuốc và bài thuốc có ý nghĩa rất lớn trong việc
phòng và chữa bệnh cho nhân dân trong tỉnh
ở khoa Sinh học, Đại học Vinh việc điều tra nghiên cứu cây thuốc và bài thuốc
cũng đà tiến hành rất sớm trong các đợt thực tập thiên nhiên, và đà có nhiều đề tài
của cán bộ, sinh viên và học viên cao học viết về đề tài này nh : Năm 1996, Ths Tô
Vơng Phúc với đề tài Điều tra cây thuốc và kinh nghiêm sử dụng chúng của đồng
bào Thái xà Yên Khê huyện Con Cuông; Bùi Hồng Hải, Lơng Hoài Nam (2004)
nghiên cứu về cây thuốc vùng Tây Bắc Nghệ An đà góp phần su tập đợc nhiều cây
thuốc và kinh nghiệm sử dụng thuốc của các dân tộc miền núi Nghệ An.
Trong số rất nhiều cây thuốc với nhiều tác dụng khác nhau nh cây cầm máu,
chữa cảm sốt, chữa đau bụng...thì cây thuốc có tác dụng cầm máu chiếm một phần

không nhỏ trong tự nhiên. Tuy nhiên việc nghiên cứu về cây thuốc có tác dụng
cầm máu thì cha đợc tiến hành một cách có hệ thống và việc điều tra các loài cây
có tác dụng cầm máu còn hạn chế vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
Điều tra thành phần loài cây có giá trị cầm máu tại một số địa bàn trong tỉnh
Nghệ An


Chơng I

Lịch sử nghiên cứu cây thuốc
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nớc trên thế giới
Từ khi xuất hiện loài ngời, để tồn tại con ngời đà phải sử dụng các cây cỏ
phục vụ cho cuộc sống của mình (tìm nguồn thức ăn, cây làm nhà, chữa bệnh)
và qua nhiều thế hệ cây cỏ đợc sử dụng hành ngày và kinh nghiệm dùng cây thuốc
để chữa bệnh đợc phổ biến rộng rÃi. Nhân dân ta đà biết sử dụng cây cỏ làm thuốc
từ rất lâu trong sự phát triển của dân tộc và đà tạo nên nền Y học cổ truyền riêng.
ở nhiều nớc trên thế giới, việc dùng cây cỏ làm thuốc cịng xt hiƯn tõ
nhiỊu thÕ kû tríc. LÞch sư y häc Trung Qc, Ên §é ghi nhËn vỊ viƯc sư dụng các
cây cỏ làm thuốc có cách đây 3000 5000 năm. Vào đầu thế kỷ thứ II Trung
Quốc, họ đà biết dùng thuốc là các loài cây cỏ để chữa bệnh nh: Sử dụng nớc chè
(Thea sinensi L.) đặc để rửa vết thơng và tắm ghẻ [theo 41, 48] còn theo Fujiki
(Nhật Bản) cùng các nhà khoa học ở Viện hàn lâm Hoàng Gia Anh thì Chè xanh
(Thea sinensis L.) còn ngăn chặn sự phát triển các loại ung th gan, dạ dày nhờ chất
Gallat epigallocatechine. Hoặc dùng rễ c©y cèt khÝ cđ (Polygonum cuspidatum
Sieb. et Zucc), vá rƠ cây táo tàu (Zizy phusjujuba Miller) để chữa vết thơng, mà
ngày nay khoa học đà chứng minh là trong chúng có tanin. Thần Nông là ngời đÃ
su tầm và ghi chép nên 365 vị thuốc đông y trong cuốn sách Mục lục thuốc thảo
mộc. Từ thời cổ xa các chiến binh La Mà đà biết dùng dịch cây Lô hội (Aloe
barbadensis Mill) để rửa vết thơng, vết loét, chóng lành sẹo [theo 33,41] mà
ngày nay khoa học đà chứng minh là dịch cây có tác dụng liền sẹo thông qua khả

năng kích thích tổ chức hạt và tăng nhanh quá trình biểu mô hóa [theo 38,58,59].


ở nớc Nga, Đức, Trung Quốc đà dùng cây Mà đề (Plan tago major L.) sắc hoặc
già lá tơi đắp chữa trị vết thơng, viêm tiết niệu, sỏi thận [theo 64,68,69]. Cũng đÃ
từ lâu ngời Hai Ti hay ở nớc Dominíc (Trung Mỹ) thờng dùng cây cỏ Lào
(Eupatorium odoratum L.) để làm thuốc chữa các vết thơng bị nhiễm khuẩn hay
cầm máu, áp xe, nhức răng, vết loét lâu ngày không liền sẹo[theo 53,54].
Y học dân tộc Bungari Đất nớc của hoa hồng đà coi Hoa hồng là một vị
thuốc chữa đợc nhiều bệnh, ngời ta đà dùng cả hoa, lá, rễ, làm thuốc tan huyết ứ và
bệnh phù thũng. Ngày nay ngời ta đà chứng minh rằng trong cánh hoa hồng có
chứa một lợng tanin, glucosid, tinh dầu đáng kể. Tinh dầu này không chỉ để chế nớc hoa mà còn đợc dùng để chữa nhiều bệnh. Nhân dân ấn Độ dùng lá cây Ba ché
(Desmodium triangulare Retz. Merr.) sao vàng sắc đặc để chữa kiết lỵ và tiêu
chảy. Có những loài cây mọc hoang mà nơi nào cũng sẵn nh cây Bồ cu vẽ (Breynia
fruticosa (L.) Hook. f.) đồng bào Philipin dùng vỏ cây sắc làm thuốc cầm máu,
hoặc tán bột rắc lên mụn nhọt, vét lở loét làm chúng chóng khỏi [theo 32]. ở
Malaixia cây Húng chanh (Coleus amboinicus Lour.) dùng là sắc cho phụ nữ sau
khi đẻ uống hoặc lấy lá già nhỏ vắt nớc cốt cho trẻ uống trị sổ mũi, đau họng, ho
gà ở Cămpuchia, Malaixia, dùng toàn cây hơng nhu tía (Ocimun sanctum L.) rễ
trị đau bụng, sốt rét, nớc lá tơi trị họng đờm hoặc lá già nát đắp trị bệnh ngoài da,
khớp [15,16,34,35].
Ngải cứu (Artemisia vulgaris L.) đợc dùng trị thổ huyết, trực tràng xuất
huyết, tử cung xuất huyết, đau bụng, bế kinh, phụ nữ có mang bị động thai kiêm
tác dụng cờng tráng, trị chứng xuất huyết thuộc hàn và h [37,38]. Tỏi đợc dùng để
chống bệnh đau óc, xơ động mạch, huyết áp cao, ung th, viêm đờng ruột, Lá của
cây Psychotria rubra Lour. Poit đợc phụ nữ Philippin dùng chữa bệnh kinh nguyệt
không đều, lá và hoa chữa ho, giun, giúp tiêu hoá tốt. Galien đà xem tỏi (Allium


sativum L.) là một thuốc chữa bệnh của ngời nông thôn có tác dụng lợi tiểu, trị

giun, giải độc, chữa hen xuyễn, vàng da, đau răng và các bệnh về da [30,34]
Cùng với phơng thức chữa bệnh theo kinh nghiệm y học cổ truyền, các nhà
khoa học trên thế giới còn đi sâu tìm hiểu nghiên cứu cơ chế và các hợp chất hoá
học trong cây cỏ có tác dụng chữa bệnh, đà công nhận rằng hầu hết cây cỏ đều có
tính kháng sinh đó là một trong các yếu tố miễn dịch tự nhiên. Tác dụng kháng
khuẩn là do các hợp chất tự nhiên hay gặp nh: các chất phenolic, antoxyan, c¸c dÉn
chÊt quinon, alcaloid, heterosid, flavonoid, saponin…[30,43]. Theo Anon (1982)
trong vòng gần hai trăm năm trở lại đây, ít nhất đà có 121 hợp chất hoá học tự
nhiên đà năm đợc cấu trúc, mà đợc chiết từ cây cỏ với mục đích làm thuốc hoặc từ
đó tổng hợp nên các loại thuốc chữa trị có hiệu quả. Nh từ cây Aloe vera L. Theo
Gotthall (1950) đà phân lập đợc chất Glycosid barbalion có tác dụng với vi khuẩn
lao ngời và tác dụng với Baccilus subtilic. Lucas và Lewis (1944) đà chiết từ kim
ngân (Lonicera sp.) một hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bênh tả lị,
mụn nhọt [theo 43,44]. Ngời ta cũng đà chiết đợc becberin từ cây Hoàng kiên
(Coptis chinensis Franch.). Theo Gilliver (1946) thì becberin có tác dụng chữa
bệnh đờng ruột và kiềm chế một số vi khuẩn làm hại cây cối. Trong lá và rễ
(Allium odorum L.) có các hợp chất Sulfua, saponin và chất đắng. Năm 1948 Shen
- Chi - Shen phân lập đợc một hoạt chất Odorin có tác dụng ít độc với động vật cao
cấp, nhng lại có tác dụng kháng khuẩn [theo 44].Trong nhiều loài ba gạc
(Rauwolfia sp.) chiết đợc chất Resecpin, Serpentin làm thuốc hạ huyết áp. Chất
Vinblastin, Vinblastin đợc chiết xuất từ cây dừa cạn (catharanthus roseus (L.)
Gdon.) vừa có tác dụng hạ huyết áp vừa làm thuốc chống ung th máu. Hoặc
Strophantin đợc chiết xuất từ các loài sừng dê (Strophanthus sp.) dùng làm thuốc
trợ tim đà nhiều thập kỷ nay. Vài chục năm gần đây, ứng dụng các thành tựu
nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất hoá học tự nhiên, b»ng con ®êng


tổng hợp hoặc bán tổng hợp hoá học, một số loại thuốc hiện đại có hiệu quả chữa
bệnh cao lần lợt ra đời. [41,52]
Gần đây theo thống kê của tổ chức Y học thế giới (WHO) thì đến năm 1985

đà có gần 20.000 loài thực vật (trong tổng số 250.000 loài đà biết) sử dụng làm
thuốc cung cấp các hoạt chế để biến thuốc. Trong đó ở ấn Độ có khoảng 6.000
loài, Trung Quốc 5.000 loài ; vùng nhiệt đới Châu Mỹ hơn 1.900 loài thực vật có
hoa. Theo số liệu của WHO thì mức độ sử dụng thuốc ngày càng cao. ở Trung
Quốc tiêu thụ hàng năm hết 700.000 tấn dợc liệu, sản phẩm thuốc Y học dân tộc
đạt giá trị hơn 1,7 tỉ USD vào năm 1986. Tổng giá trị về thuốc có nguồn gốc thực
vật trên thị trờng Âu Mỹ và Nhật Bản vào năm 1985 là hơn 43 tỉ USD. Tại các
nớc có nền công nghiệp phát triển từ năm 1976 1980 đà tăng từ 335 triệu USD
lên 551 triệu USD. Còn ở Nhật Bản năm 1979 nhập 21.000 tấn, đến năm 1980
tăng lên 22.640 tấn dợc liệu tơng đơng 50 triệu USD. Điều này chứng tỏ rằng ở các
nớc công nghiệp phát triển c©y thc phơc vơ cho nỊn y häc cỉ trun cũng phát
triển mạnh. Cây thuốc là loại cây kinh tế , nó cung cấp nhiều loại thuốc dân tộc và
thuốc hiện đại trong việc bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ con ngời (theo tuyên ngôn
Chiang Mai, 1988).
Trên thế giới có rất nhiều loại cây thuốc qúy hiếm nhng do con ngời khai
thác quá bừa bÃi cho nên rất dễ trở thµnh tut chđng. Theo Raven (1987) vµ Ole
Harmann (1988) trong vòng hơn trăm năm trở lại đây, có khoảng 1000 loài thực
vật đà bị tuyệt chủng, có tới 600.000 loài có thể bị gặp rủi ro hoặc sự tồn tại của
chúng là mỏng manh vào giữa thế kỷ tới, nếu chiều hớng đe doạ này vẫn tiếp diễn.
Trong số những loài thực vật đà bị mất đi hoặc đe doạ gay gắt, đơng nhiên có
nhiều loài cây thuốc. Do khai thác liên tục của con ngời làm triệt cả nguồn gen nên
đà lâm vào tình trạng bị nguy hiểm, làm mất cân bằng sinh thái [2,12,14]. Vì vậy,
song song với các nghiên cứu về sử dụng cây thuốc đó cũng cần đợc đặt ra. Tại


Hội nghị Quốc tế và bảo tồn quỹ gen cây thuốc họp từ ngày 21 đến 27 tháng 3 năm
1983 tại Chieng Mai- Thái Lan, hàng loạt các công trình nghiên cứu về tính đa
dạng và việc bảo tồn cây thuốc đợc đặt ra khẩn thiết.
Hớng tới thế kỷ XXI, ®Ĩ phơc vơ cho mơc ®Ých søc kh con ngêi, cho sự hng
thịnh của nớc nhà và sự phát triển không ngừng của xà hội, để chống lại các bệnh

nan y, thì sự cần thiết là phải kết hợp giữa Đông Tây y, giữa Y học hiện đại và
cổ truyền.
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam.
Đà lâu đời đến nền y học cổ truyền của Việt Nam đà có nhiều bài thuốc, cây
thuốc đợc áp dụng chữa bệnh trong có hiệu quả. Qua kinh nghiệm dân gian đà dần
đúc lại và xuất bản thành những cuốn sách có giá trị và và lu truyền rộng rÃi trong
nhân dân ta.
Thời vua Hùng Vơng dựng nớc (2900 năm TCN) qua các văn tự Hán Nôm
còn sót lại (Đại Việt sử ký ngoại ký, Lĩnh Nam Chích Quái liệt truyện, Long uy bí
th) và qua các truyền thuyết chứng tỏ tổ tiên ta đà biết dùng cây cỏ làm thuốc
chữa bệnh [theo 13,37,39,41]. Theo Long Uý chép lại vào đầu thế kỷ II TCN có
hàng trăm vị thuốc từ đất Giao chỉ (Việt Nam) nh: ý dĩ (Coix lachrymajobi L.),
Hoắc hơng (Pogostemon cablin (Blanco) Benth.) đợc ngời Tàu đa về nớc để giới
thiệu sử dụng [theo 41].
Cùng với sự tiến hoá của lịch sử, nền Y học cổ truyền Việt Nam cũng dần dần
phát triển, gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của các danh Y nổi tiếng đơng thời.
Đời nhà Lý (1020- 1224) nhà s Nguyễn Minh Công tức Nguyễn Chí Thành
đà dùng nhiều cây cỏ chữa bệnh cho dân và cho nhà Vua, nên đợc tấn phong
Quốc s Triều Lý.
Đời nhà Trần (1225 – 1399) cã sù kiƯn, Ph¹m Ngị L·o thõa lƯnh Hng Đạo
Vơng Trần Quốc Tuấn xây dựng một vờn thuốc lớn dùng cây thuốc để chữa


bệnh cho quân sỹ, trên núi gọn là Sơn Dợc hiện vẫn còn di tích để lại tại một quả
đồi thuộc xà Hng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hng. Chu Tiên biên soạn cuốn
sách Bản thảo cơng mục toàn yến là cuốn sách thuốc đầu tiên xuất bản năm
1429 . Cã hai Danh y nỉi tiÕng cïng thêi ®ã là Phạm Công Bân (vào thế kỷ XIII)
và ngời thầy thuốc nổi tiếng là Tuệ Tĩnh, tên thực là Nguyễn Bá Tĩnh (vào thế kỷ
XIV). Ông biên soạn bộ Nam dợc Thần hiệu gồm 11 quyển với 496 vị thuốc
nam, trong đó có 241 vị thuốc có nguồn gốc thực vật và 3932 phơng thuốc đơn

giản để trị 184 chứng bệnh của 10 khoa lâm sàng. Ông còn viết cuốn Hồng nghĩa
giác t y th gồm hai Hán Nôm phú, tóm tắt công dụng của 130 loài cây thuốc cùng
13 đơn thuốc và cách trị cho 37 chứng sốt khác nhau. Ông đà khẳng định vai trò
của thuốc nam trong đời sống. Trong Nam dợc Thần Hiệu có ghi: Tô mộc
(Caesalpinia sappan L.), vị mặn, tính bình không độc, trừ huyết xấu, trị đau bụng
thơng phong, sng lở [69] . Sử quân tử (Quisqualis indica L.) có vị ngọt, tính ôn,
không độc vào hai kinh tỳ và vị, chữa 5 chứng cam trẻ em, tiểu tiện, sát khuẩn,
chữa tả lị, còn làm thuốc mạnh tỳ vị, chữa hết thẩy các chứng lở ngứa của trẻ em
[63], Sầu đâu rừng (Brucea javanica (L.) Merr.) vị đắng, tính hàn, có độc, sát
trùng, trị đau ruột non nhiệt trong bàng quang, điên cuồng và ghẻ lở. Cây lá móng
(Lawsonia inermis L.) chữa hắc lào, lở loét ngoài da, tê mỏi, viêm đờng hô hấp,
gan.... Bạc hà (Mentha arvensia L.) chữa sốt, nhức đầu [68] Tuệ Tĩnh đợc coi là
một bậc Danh y kỳ tài trong lịch sử Y học nớc ta , là Vị thánh thuốc nam. Ông
chủ trơng lấy Nam dợc trị nam nhân Trong bộ sách quý của ông về sau bị quân
minh thu gần hết nay chỉ còn lại: [69]
- Nam dợc thần hiệu
- Tuệ Tĩnh y th
- Phơng tam gia giảm
- Thơng hàn tam thập thất trùng pháp


Sau T TÜnh mét thêi gian kh«ng thÊy xt hiƯn tác giả nào mÃi đến thời
Lê Dụ Tông xuất hiện Hải Thợng LÃn Ông - tên thực là Lê Hữu Trác (1721
1792). Ông là ngời am hiểu nhiều về y häc, sinh lý häc, sinh lý häc, häc nhiỊu
s¸ch thuốc. Trong 10 năm khổ cùng tìm tòi nghiên cứu, ông viết bộ LÃn Ông tâm
lĩnh hay Y tôn tâm lÜnh” gåm 66 qun ®Ị cËp tíi nhiỊu vÊn ®Ị y dợc. Nh Y
huấn cách ngôn, Y lý thân nhân, Lý ngôn phụ chính, Y nghiệp thần chơng
xuất bản năm 1772. Trong bộ sách này ngoài sự kế thừa Nam dợc Thần hiệu của
Tuệ Tĩnh ông còn bổ sung thêm 329 vị thuốc mới. Trong quyển Lĩnh nam bản
thảo. Ông đà tổng hợp đợc 2854 bài thuốc chữa bệnh bằng kinh nghiệm dân gian.

Mặt khác ông mở trờng đào tạo y sinh, truyền bá t tởng và hiểu biết của mình về y
học. Do vậy LÃn Ông đợc mệnh danh là ông tổ sáng lập ra nghề thuốc Việt Nam
[64].
Cùng thời với Hải Thợng LÃn Ông còn có hai trọng nguyên là Nguyễn Nho
và Ngô Văn Tĩnh đà biên soạn bộ Vạn Phơng tập nghiêm gồm 8 quyển xuất bản
năm 1763 [theo 39].
Vào thời kỳ Tây Sơn và nhà Nguyễn (1788 – 1883) cã tËp “Nam dỵc”
“Nam dỵc chØ danh truyền, La Khê phơng dợc của Nguyễn Quang Tuân ghi
chép 500 vị thuốc nam trong dân gian dùng để chữa bệnh [theo 41] hoặc quyển
Nam dợc tập nghiệm quốc âm của Nguyễn Quang Lợng viết về các bài thuốc
nam đơn gi¶n thêng dïng [theo 37] hay trong “Ng tiỊu vÊn đáp y thuật của
Nguyễn Đình Chiểu [theo 37,38], Nam Thiên Đức Bảo toàn th của Lê Đức Huệ
gồm 511 vị thuốc nam và bệnh học [theo 34,37]. Đến 1858 Trần Nguyên Tây Phơng đà kể tên và mô tả công dụng của trên 100 loài cây thuốc trong cuốn Nam
bang thảo mộc [theo39]
Trong thời kỳ 1884 1945, thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân,
loại Y học dân tộc nớc ta ra khỏi chính sách bảo hộ, việc nghiên cứu cây thuốc gặp


nhiều khó khăn, tuy nhiên có một số nhà thực vật học, dợc học ngời Pháp nghiên
cứu nhng với mục đích chính là khai thác tài nguyên. Điển hình là các nhà dợc học
nổi tiếng của Paris nh: Crevost; petelot; ®· xuÊt b¶n bé “Catalogue desproduits
del’zndochine” (1928 – 1935) trong đó ở tập V(Produits me dicinaux, 1928) đÃ
mô tả 368 cây thuốc là các loài thực vật có hoa. Đến năm 1952 Petelot bổ sung và
xây dựng thành bộ Les plantes m’edicinales du cambodge, du laos et du ViÖt
Nam” gåm 4 tập đà thống kê 1482 vụ thuốc thảo mộc trên ba nớc Đông Dơng .
Trong quá trình tìm ra các loài cây thì xuất hiện một số vấn đề về cách bào
chế, tính kỵ thuốc, kiêng các chất trong khi dùng thuốc cần đợc giải quyết. Cuốn
Bắc nam dợc tính (1937) của Vũ Nh Lâm đà đề cập tới dợc tính công dụng, cách
bào chế tính kỵ thuốc, kiêng các chất trong khi dùng thuốc cần đợc giải quyết.
Cuốn Bắc nam dợc tính (1937) của Vũ Nh Lâm đà đề cập tới dợc tính, công dụng

cách bào chế, sự kiêng kỵ của một số vị thuốc Bắc, Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp, với phơng châm của Đảng đề
ra tự lực cánh sinh, tự cung tự cấp, ngành y tế đà cha đợc thuốc nam vào phát huy
vai trò to lớn của nó xây dựng nên Toa căn bản, nêu các phơng pháp chữa bệnh
bằng 10 vị thuốc thông thờng [9,10,16,17].
Từ ngày hoà bình lập lại ở Miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nớc. Đảng và nhà nớc ta đà có nhiều nỗ lực, quan tâm đến công tác điều tra nghiên
cứu nguồn cây thc ë ViƯt Nam, phơc vơ cho vÊn ®Ị søc khỏe toàn dân. Ngày 27
tháng 2 năm 1955, trong th của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Hội nghị ngành y tế. Ngời
đà đề ra đờng lối xây dựng nền y học Việt Nam khoa học, dân tộc và đại chúng, dựa
trên sự kết hợp giữa y học cổ truyền của dân tộc với Y học hiện đại. Bộ Y tế cũng tạo
điều kiện cho đông Y phát triển, nên việc nghiên cứu thuốc nam đợc xúc tiến mạnh
mẽ. Nhà nớc đà tổ chức mạng lới y học từ Trung ơng đến địa phơng, thành lập viện y
học dân tộc để đào tạo y, bác sỹ, các bệnh viện y học dân tộc, hội đông y cho s u


tầm các nguồn tài liệu về thuốc nam, tổ chức điều tra, phân loại tìm hiểu dợc tính,
thành phần hoá học lập bản đồ dợc liệu trong cả nớc và sản xuất các loại thuốc từ
nguồn cây cỏ trong thiên nhiên. Vấn đề này đà đợc GS TS Đỗ Tất Lợi dày công
nghiên cứu trong nhiều năm và đà đợc xuất bản nhiều tài liệu trong việc sử dụng của
đồng bào dân tộc về vấn đề cây con dùng làm thuốc. Đáng chú ý nhất là năm 1957 đÃ
biên soạn bộ Dợc liệu học và các vị thuốc Việt Nam gồm 3 tập. Năm 1961 tái bản
in thành 2 tập. Trong đó tác giả đà mô tả nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam
[55] và [theo 64].
Từ 1962 1965 Đỗ Tất Lợi lại cho xuất bản bộ Những cây thuốc và vị thuốc
Việt Nam gồm 6 tập, đến năm 1969 tái bản thành hai tập trong đó có 500 tập vị thuốc
có nguồn gốc thảo mộc động vật và khoáng vật. Ông đà kiên trì nghiên cứu, bổ sung về
cây thuốc liên tục trong các công trình của ông đợc tái bản nhiều lần vào các năm 1970,
1977, 1981, 1986, 1995, 2000. Lần tái bản thứ 7 (1995) số cây thuốc của ông nghiên
cứu đà lên tới 792 loài. Trong đó ông đà mô tả tỉ mỉ tên khoa học, phân bố, công dụng ,

thành phần hoa học chia tất cả các cây thuốc theo đó các nhóm bệnh khác nhau [55],
đây là một bộ sách có giá trị lớn về khoa học và thực tiễn, kết hợp giữa khoa học không
gian với khoa học hiện đại.
Năm 1978 Đảng và Chính phủ đà có nhiều chủ trơng phát triển Y học dân
tộc với phơng châm: thừa kế phát huy, phát triển y học dân tộc cổ truyền và kết hợp
Đông y với y học hiện đại ®Ĩ x©y dùng nỊn y häc ViƯt Nam”. NỊn y học dân tộc
phát triển có nhiều tác giả đà đi sâu nghiên cứu và cho ra đời nhiều bộ sách quý nh
Vũ Văn Kính năm 1979 cho xuất bản cuốn sỉ tay y häc gåm “500 bµi thc gia
trun” vµ tái bản lần thứ ba vào năm 1997 [53]; Năm 1980 Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân
Chơng đà giới thiệu 519 loài cây thuốc, trong đó có 150 loài mới phát hiện Sổ tay
cây thuốc Việt Nam [9]. Liên quan đến vấn đề cây thuốc, viện dợc liệu, tập thể các
nhà khoa học dà xuất bản cuốn Dợc điển Việt Nam Tập I, II đà tổng kết các công


trình nghiên cứu về cây thuốc trong những năm qua [14]. Viện Dợc liệu (bộ Y tế)
cùng với hệ trạng nghiên cứu dợc liệu điều tra ở 2795 xÃ, phờng, thuộc 351 huyện
thị xà của 47 tỉnh thành phố trong cả nớc, đà có những đóng góp đáng kể trong
công tác điều tra su tầm nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc trong Y học cổ truyền dân gian. Kết qủa đúc kết trong Danh mục cây thuốc
miền Bắc Việt Nam, Danh mục cây thuốc Việt Nam tập Atlas (bản đồ) cây
thuốc đà thống kê và công bố một danh sách về cây thuốc từ 1961 1972 ở Miền
Bắc là 1.114 loài từ 1977 1985 ở một Miền Nam là 1119 loài. Tổng hợp trong cả
nớc đến năm 1985 là 1.863 loài và dới loài, phân bố trong 1.033 chi, 136 họ, 101 bộ,
17 lớp, 11 ngành đợc xếp theo hệ thống của nhà thực vật học Takhtajan [7,9, 45] và
mỗi loài đều giới thiệu công dụng và cách sử dụng chúng. Đề cập tới cây thuốc
trong hệ thực vật Việt Nam, Võ Văn Chi là ngời từ lâu có nhiều tâm huyết. Năm
1976, trong luận văn PTS khoa học của mình. Ông đà thống kê có 1.360 loài cây
thuốc thuộc 192 họ trong ngành hạt kín ở Miền Bắc. Đến năm 1991 trong một báo
cáo tham gia hội thảo quốc gia về cây thuốc lần thứ II tổ chức ở thành Phố Hồ Chí
Minh, tác giả đà giới thiệu một danh sách các loài cây thuốc Việt Nam có 2.280 loài

cây thuốc bậc cao có mạch, thuộc 254 họ trong 8 ngành. Có thể nói công bố này đÃ
giới thiệu một số lợng cây thuốc lớn nhất. Xét về thành phần các taxon cây thuốc đÃ
biết hiện nay ở Việt Nam, theo Viện Dợc liệu, phần lớn là cây thuốc đợc sử dụng
theo kinh nghiệm dân gian. Số còn lại khoảng dới 5% lµ ghi nhËn theo tµi liƯu cđa níc ngoµi. Trong tổng số trên 2.000 loài và dới loài cây thuốc, có tới gần 90% cây
mọc tự nhiên. Chúng chủ yếu tập trung chủ yếu trong các quần thể rừng với trữ lợng
lớn, còn khoảng trên 10% là cây trồng, cây tròng đợc sử dụng làm thuốc bao gồm:
cây thuốc nhập nội, cây thuốc trồng vốn có ở Việt Nam hoặc các loại cây trồng khác
có bộ phận đợc sử dụng làm thuốc. Ngoài ra cũng có nhiều công trình về cây thuốc
Việt Nam thuộc các địa phơng hoặc theo các phạm vi nhỏ cũng đà đựơc công bố.


Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chơng và một số ngời khác đà cho ra cuốn Sổ tay
cây thuốc Việt Nam (1980) và Tài nguyên cây thuốc Việt Nam (1993) với hàng
năm có khoảng 300 loài cây thuốc đợc khai thác và sử dụng ở các mức độ khác nhau
trong toàn quốc [9] Võ văn Chi Cây thuốc An Giang (1991) [23]
Trần Đình Lý (1995) và cộng sự cho xuất bản cuốn 1900 loài cây có ích
[56]. Trong số các loài cây thực vật bậc cao có mạch đà biết ở Việt Nam, có 76
loài cho nhựa thơm, 160 loài có tinh dầu, 260 loài có dầu béo, 600 loài chứa tanin,
50 loài cây gỗ có giá trị cao, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây.
Vơng Thừa Ân cho ra đời cuốn Thuốc quý quanh ta vào năm 1995 [1].
Cho đến chơng trình tạo nguồn nguyên liệu làm thuốc của Viện dợc liệu KV.02
cho ra đời quyển Tài nguyên cây thuốc Việt Nam. [7]
Năm 1996. Võ Văn Chi ra đời quyển Từ điển cây thuốc Việt Nam đà mô tả
kỹ 3200 cây thuốc Việt Nam [24]. Đây là một công trình có ý nghĩa khoa học và
thực tiễn rất lớn phục vụ cho ngành dợc và các nhà thực vật học. Ngoài ra có rất
nhiều bài báo đăng trong tạp chí trung ơng, địa phơng đều giới thiệu về cây thuốc,
bài thuốc và tác dụng làm thuốc của cây cỏ quanh ta, nh vậy nguồn cây cỏ đợc sử
dụng làm thuốc rất phong phú. Theo Đỗ Huy Bích, Nguyễn Tập, Lê Tùng Châu.
hàng năm nớc ta đà khai thác và sử dụng tới 300 loài cây thuốc ở các mức độ khác
nhau [10]. Thật khó mà thống kê đợc một cách đầy đủ khối lợng dợc liệu tự nhiên đợc khai thác bởi lẽ hàng năm ngoài cơ sở của t nhân của những ông lang, bà mế và

ngời dân từng địa phơng tự thu hái về chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian. Theo
Nguyễn Khang và Vũ Văn Chơng [49] thì trong vài chục năm gần đây nớc ta đÃ
xuất khẩu một lợng dợc liệu khá lớn khoảng 20 triệu USD và lợng tinh dầu là 20
30 triệu USD cha kể giá trị xuất khẩu tiểu ngạch và buôn lậu qua biên giới của t thơng [51].


Đặc biệt, năm 1994, trong công trình nghiên cứu cây thuốc Lâm Sơn Lơng
Sơn- Hà Sơn Bình, Nguyễn Nghĩa Thìn đà giới thiệu 112 loài thuộc 50 họ, năm 1990
1995. Trong Hội thảo quốc tế lần thứ hai về dân tộc sinh học tại Côn Minh Trung
Quốc, tác giả cũng đà giới thiệu lịch sử nghiên cứu vấn đề dân tộc dợc học, giới thiệu
2.300 bài thuốc 1.136 chi, 234 hé thuéc 6 ngµnh thùc vËt cã mạch bậc cao ở Việt Nam
đợc sử dụng làm thuốc và giới thiệu hơn 1.000 bài thuốc mà đợc thu thập ở Việt Nam
cũng nh một số loài đợc sử dụng.
Bên cạnh ý nghĩa sử dụng cây thuốc trong Y học dân tộc, theo kết quả nghiên
cứu của: Nguyễn Văn Đàn, Nguyễn Việt Tựu (1986) Trịnh Gia Ân, Phạm Đình Sửu
(1971, 1979) Lê Tùng Châu(1991) nguồn cây thuốc ở Việt Nam đà và có nhiều
triển vọng là nguyên liệu cho công nghiệp dợc, chiết xuất các hợp chất tự nhiên để
làm thuốc. Chỉ tính trong vòng hơn một năm lại đây đà có 701 loài cây thuốc đợc
điều tra tính kháng khuẩn và một số loài cây thuốc chính thức đợc đa vào sản xuất
thuốc đại trà nh: Thanh cao (Artemisia annua L.) Vằng đắng (Coscinium
fenestratum (Gaertn.) Colebr) Sừng dê (Strophanthus divergens A. Graham) ba gạc
(Rauvolfia verticillata (Lour.) Baill). Ngoài ra vấn đề tìm kiếm các thuốc mới từ
nguồn gốc cây cỏ ở Việt Nam cũng đầy triển vọng. Theo công bố của Trần Ngọc
Ninh (1994) Lê Trần Đức (1995) các nhà khoa học Việt Nam bớc đầu đà biết đợc
hợp chất Taxol từ các loài thông đỏ (Taxus spp.) có tác dụng chống ung th. Việc
ứng dụng những kinh nghiệm dân gian và nghiên cứu giá trị thực vật học ở Việt
Nam nói chung và đối với các dân tộc ít ngời nói riêng là rất cần thiết để góp phần
phát triển nền kinh tế của đồng bào dân tộc, để phát huy truyền thống văn hoá tốt
đẹp cũng nh góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn nguồn gen, bảo tồn những
kinh nghiệm sử dụng cây thc ch÷a bƯnh phong phó b»ng y häc cỉ trun, bảo vệ

nguồn tài nguyên cây thuốc của đất nớc ta.
1.3. Tình hình nghiên cứu cây thuốc ở Nghệ An


Nghệ An là một tỉnh với diện tích lớn gần nhất nớc, dân số đông, chủ yếu là
dân tộc kinh và có hơn 5 dân tộc anh em khác cùng chung sống. Việc chữa bệnh
cho dân ở vùng núi xa nay chủ yếu do các ông lang, bà mế. Kinh nghiệm sử dụng
thuốc và các bài thuốc dân gian của dân tộc bị mai một dần. Cho tới nay cha có
một công trình nghiên cứu toàn diện về cây thuốc và bài thuốc Nghệ An. Một số
công trình công bố rải rác công bố trên các tài liệu, tạp chí nh sách của các tác giả
Đỗ Tất Lợi, Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chơng,Vũ Văn Chuyên, và Viện Dợc Liệu
Bộ Y Tế, và trên các tài liệu, tập san của hội đồng y địa phơng nh: Kinh nghiệm
chữa bệnh Đông Y Nghệ Tĩnh (1978). Những phơng thuốc hay rau cỏ trị
bệnh của Tạ Duy Chân (1988) giới thiệu 48 loài thực vật làm rau làm thuốc
[7,17].
Nguyễn Văn Nhung - Đinh Sỹ Hoàn (1981) với cuốn Sổ tay dùng thuốc
gia đình đà giới thiệu 36 cây thuốc chữa 18 chứng bệnh với các phơng thuốc
truyền thống. Những năm gần đây có một số công trình (chủ yếu là luận văn thạc
sỹ và luận án tiến sỹ) đợc xuất hiện nh; Điều tra cây thuốc và kinh nghiệm sử
dụng chúng của đồng bào dân tộc Thái xà Yên Khê - huyện Con Cuông Nghệ
An của Tô Vơng Phúc (1996) thống kê đợc 223 loài cây thuộc 81 họ với 113 bài
thuốc chữ 29 nhóm bệnh [65].
Đặng Quang Châu và cộng sự (2001 - 2003) đà thực hiện đề tài thuộc chơng
trình nghiên cứu cơ bản cấp Nhà nớc Đa dạng cây thuốc dân tộc các huyện Tây Bắc
tỉnh Nghệ An điều tra thành phần cây thuốc, các bài thuốc và tình hình khai thác
chúng của đồng bào các dân tộc thuộc 4 huyện miền núi vùng Tây Bắc Nghệ An.
Đặng Quang Châu và Bùi Hồng Hải năm 2003 với công trình điều tra cây
thuốc của đồng bào dân tộc Thái xà Châu hạnh huyện Quỳ Châu tỉnh Nghệ An đÃ
thống kê đợc 93 loài cây thuốc thuộc 79 chi, 42 họ đợc bà, con dân tộc sử dụng làm
thuốc [21]. Năm 2004 với một số dẫn liễu về cây thuốc dân tộc Thổ xà thọ Hợp



Huyện Quỳ Hợp tỉnh Nghệ An đà công bố 82 cây thuốc thuộc 79 chi 48 họ đợc
đồng bào thổ xà thọ Hợp chữa 15 nhóm bệnh [22].
Tóm lại điều tra cây thuốc ở Nghệ An đà có những công trình nghiên cứu
đáng để ý nhng còn lẻ tẻ không có hệ thống cần phải tập hợp một cách đầy đủ trên
quy mô toàn tỉnh và tiến hành điều tra, nghiên cứu tiếp để thu thập cây thuốc và
các bài thuốc một cách có hệ thống hơn, không để mai một.

Chơng 2
Mục tiêu, đối tợng, nội dung và phơng pháp nghiên cứu
2.1. Mục tiêu của đề tài
- Phải thu thập đợc các loài cây làm thuốc cầm máu và biết đợc giá trị sử
dụng của chúng trên địa bàn một số huyện trung du và đồng bằng tỉnh Nghệ
An.
- Phải xây dựng đợc danh lục các loài cây thuốc cầm máu và đánh giá đợc
tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại địa bàn nghiên cứu.
2.2. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tợng nghiên cứu: toàn bộ cây cỏ đợc sử dụng làm cây thuốc có tác dụng
cầm máu tại một số huyện trung du và đồng bằng ở Nghệ An.
- Phạm vi nghiên cứu: thực vật bậc cao có mạch có tác dụng cầm máu ở các
huyện trung du là: Đô Lơng, Nam Đàn, Quỳnh Lu và vùng đồng bằng là:
Yên Thành, Nghi Lộc, Hng Nguyên.
2.3. Thời gian nghiên cứu
Đề tài đợc tiến hành từ tháng 9/2008 đến tháng 12/2009 cụ thể là:
- Từ 9/2008 đến 12/2008: su tầm tài liệu


- Từ 12/2008 đến 4/2009: viết đề cơng nghiên cứu và bảo vệ đề cơng
- Từ 4/2009 đến 7/2009: đi lấy mẫu và phân tích số liệu

- Từ 7/2009 đến 10/2009: lÊy mÉu bỉ sung, lËp b¶ng sè liƯu
- Tõ 10/2009 đến 12/2009: hoàn thành luận văn, chuẩn bị bảo vệ
2.4. Nội dung nghiên cứu
- Lập danh lục thành phần các loài cây đợc nhân dân ta sử dụng làm thuốc
cầm máu.
- Phân tích, đánh giá tính đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc cầm máu về:
- Đa dạng về bậc phân loại
- Đa dạng về dạng cây
- Đa dạng về nơi sống
- Đa dạng về bộ phận sử dụng
- Thu thập các bài thuốc thờng đợc dùng để cầm máu
2.5. Phơng pháp nghiên cứu
2.5.1. Phơng pháp phỏng vấn, điều tra
Điều tra rộng rÃi, phỏng vấn bà con tại địa bàn nghiên cứu để su tầm các bài
thuốc và cây thuốc sử dụng theo kinh nghiệm dân gian.
2.5.2. Phơng pháp thu hái, xử lí và bảo quản mẫu vật.
Mẫu vật đợc thu hái và xử lí theo phơng pháp của Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997
[66]
- Mẫu cây đợc đánh số hiệu và đặt trong một tờ báo cho vào túi nilon lớn
khoảng 20-30 mẫu sau đó đổ cồn vào để bảo quản (xử lí sơ bộ tại địa bàn thu
mẫu). Khi đa về ta xử lí lại và cho vào cặp mắt cáo để phơi khô dới nắng hoặc dới
ánh điện.
2.5.3. Phơng pháp xác định tên khoa học


Chúng tôi sử dụng phơng pháp hình thái so sánh, đợc tiến hành theo các
buớc sau:
- Phân chia mẫu theo họ và chi:
Sau khi thu mẫu, phân loại sơ bộ ngay tại hiện trờng dựa vào các bảng chỉ
dẫn nhận nhanh các họ trong Cẩm nang nghiên cứu đa dạng thực vật của

Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [66] và Cẩm nang tra cứu và nhận nhanh các họ
thực vật hạt kín ở Việt Nam của Nguyễn Tiến Bân (1997) [3].
- Xác định tên khoa học dựa vào khoá định loại của: Phạm Hoàng Hộ,
(1999 - 2000) [45].
2.5.4. Phơng pháp chỉnh lý tên khoa học
Sau khi định loại, chúng tôi tiến hành kiểm tra và chỉnh lý tên khoa học theo
tài liệu "Từ điển cây thuốc" (1997) [13] của Võ Văn Chi, "Cây thuốc và động vật
làm thuốc" (2004) [10] của Đỗ Huy Bích.
2.5.5. Phơng pháp xây dựng danh lục
Xây dựng danh lục các taxon đợc sắp xếp theo cách sắp xếp của R. K.
Brummitt (1992) [74].
3.5.6. Phơng pháp đánh giá đa dạng thực vật về phân loại
3.5.6.1. Đánh giá đa dạng các taxon trong ngành
Thống kê số loài, chi và họ theo từng ngành thực vật từ thấp đến cao, trên cơ sở
dựa vào bảng danh lục thực vật đà xây dựng, tính tỷ lệ % của các taxon để từ đó
thấy đợc mức độ đa dạng của nó.
3.5.6.2. Đánh giá đa dạng loài của các họ, chi, loài
Theo phơng pháp của Nguyễn Nghĩa Thìn 1997 [66].
2.5.6.3. Đánh giá sự đa dạng về dạng thân
Dạng thân của cây có 4 dạng:+ Thân gỗ.


+ Thân thảo.
+ Thân leo.
+ Thân bụi.
2.5.6.4. Đánh giá sự đa dạng về bộ phận của cây thuốc đợc sử dụng
Dựa vào kinh nghiệm của nhân dân địa phơng tại địa bàn nghiên cứu.
2.5.6.5 Đánh giá sự đa dạng về nơi sống của cây thuốc
Dựa vào sự phân bố môi trờng sống của các loài thực vật khi thu mẫu.
2.5.6.6. Đánh giá sự phân bố của cây thuốc cầm máu tại điạ bàn nghiên cứu.

Dựa vào điều tra thực tiễn.
2.5.6.7. Đánh giá sự phân bố các loài cây thuốc cầm máu theo cách sử dụng.
Theo tài liệu "Từ điển cây thuốc" (1997) [13] của Võ Văn Chi, "Cây thuốc
và động vật làm thuốc" (2004) [10] của Đỗ Huy Bích.
Chơng 3
Điều kiện tự nhiên và xà hội tại địa bàn nghiên cứu
3.1. Điều kiện tự nhiên
Nghệ An là tỉnh nằm ở khu vực Bắc Miền Trung của nớc ta. Có toạ độ địa lí
từ 18o3310 đến 1902443 Vĩ tuyến Bắc và từ 10305253 đến 10504550 kinh
độ đông. Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá; phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh; phía Đông
giáp Biển Đông; phía Tây giáp nớc Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào.Tổng diện
tích cả tỉnh là 1.649.853 ha.
Về địa hình, Nghệ An là một tỉnh vừa có đồi núi, vừa có đồng bằng, lại vừa
có biển; trong đó phần đồi và núi chiếm gần 3/4 diện tích toàn tỉnh. Là một phần
quan trọng của vùng Bắc dÃy Trờng Sơn, hầu hết các huyện về phía tây và tây nam
trong tỉnh là vùng núi rừng khá cao, dẫn đến sự chia cắt mạnh, độ dốc trung bình


đều vợt trên 250. Có thể kể ra một số ngän nói cao nh Pu Xa Lai Leng: 2.711m, Pï
M¸t: 1.841 m...
Chuyển tiếp từ vùng núi trên là một vùng đồi và núi thấp trung du rộng lớn,
ở Đô Lơng, Nghĩa Đàn, Thanh Chơng, Yên Thành và lan xuống cả ở Quỳnh Lu và
Nam Đàn. Vùng đồng bằng ven biển và xen kẽ về cơ bản là thuộc lu vực của các
con sông lớn trong tỉnh.
Nh vậy, có thể nói bề mặt địa hình của tỉnh Nghệ An là cao ở phía tây nam,
thấp dần xuống phía đông và đông nam.
Xen kẽ với bề mặt địa hình bị chia cắt mạnh trên là một hệ thống các sông
suối chằng chịt, mật độ lới sông trung bình khoảng 0,9km/km2. Toàn tỉnh có 7 con
sông trực tiếp đổ ra Biển Đông. Từ sông Cả, các con sông còn lịa có lu vực nhỏ
khoảng 2000 3000 km2 với chiều dài trung bình khoảng 60 70 km.

Sông Cả bắt nguồn từ thợng Lào, chảy qua Nghệ An dài 375 km, với 117
thác lớn nhỏ, trong đó có một số thác có tiềm năng xây dựng thuỷ điện. Chi nhánh
của sông Cả gồm: Sông Nậm Mộ, sông Nậm Nơn, sông Hiếu...đa số các nhánh
sông này đều nằm trong vùng miền núi với đặc điểm độ dốc lớn, lòng hẹp, ít bÃi
bồi. Các sông khác đều ngắn, trữ lợng nớc không lớn, lòng sông hẹp, nớc chảy
chậm và phần lớn là sông nớc mặn nh: Sông Hoàng Mai, sông Dâu, sông Thơi,
sông Bùng...
Về khí hậu Nghệ An, nhìn chung mang đầy đủ đặc trng của nền khí hậu
nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm. Trong một năm thời tiết ở đây thể hiện khá rõ nét 4
mùa: xuân, hạ, thu, đông. Mùa đông và mùa xuân nhiệt độ thấp, thời tiết ẩm và
lạnh. Mùa hè và mùa thu nắng nóng. Mùa hè tỉnh Nghệ An còn bị ảnh hởng bởi
gió mùa tây nam khô nóng từ Lào thổi sang (gió Lào).
Nhiệt độ trung bình năm ở Nghệ An là 24,20C , nhiệt độ tối thấp trung bình
khoảng 16 170C và tối cao trung bình khoảng 36 380C; tối thấp tuyệt đối là


120C và tối cao tuyệt đối là 42,70C. Tuy nhiên độ ẩm trung bình năm có khi chỉ
42%. Tổng lợng ma hành năm là 1.610,9 mm. ở các vùng cao nh huyện Quỳ Châu,
Quế Phong có thể ma nhiều hơn. Lợng ma ở Nghệ An thờng tập trung từ tháng 8
đến tháng 10. Do địa hình dốc, về mùa ma ở Nghệ An thờng xuyên bị ảnh hởng
bởi lũ lụt, nhÊt lµ lị qt ë miỊn nói, b·o ë vïng biển và trung du.
Với đặc điểm về vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên khá đặc biệt trên đây đÃ
góp phần tạo nên ở tỉnh Nghệ An cò nguồn tài nguyên thực vật khá đa dạng và
phong phú; trong đó trớc hết phải kể đến nguồn tài nguyên cây rừng. Theo thống
kê mới nhất của ngành Lâm nghiệp NghƯ An cho biÕt, tỉng diƯn tÝch rõng che phđ
trong toàn tỉnh hiên nay là 911.808 ha (chiếm khoảng 52%). Bao gồm 336.478 ha
là rừng sản xuất và 575.329 ha là rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Hiện tại chua
có con số thống kê đầy đủ về thực vật học, con số này có thể tới 3000 hoặc 4000
loài thực vật bậc cao có mạch. Chỉ tính riêng ở vờn Quốc gia Pù Mát, qua điều tra
đà thống kê đợc 2.494 loài thực vật bậc cao có mạch.

3.2. Điều kiện kinh tế xà hội
Toàn tỉnh Nghệ An đợc chia thành 20 đơn vị cấp thành phố, huyện và thị xÃ.
Bao gồm thành phố Vinh, 2 thị xà là thị xà Cửa Lò và thị xà Thái Hoà. Trong số 17
hun l¹i chia ra 10 hun miỊn nói bao gåm Kỳ sơn, Thanh Chơng, Tơng Dơng,
Con Cuông, Anh Sơn, Tân kỳ, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp và Nghĩa Đàn. 7
huyện đồng bằng và trung du là Đô Lơng, Quỳnh Lu, Nam Đàn, Hng Nguyên,
Nghi Lộc, Diễn Châu và Yên Thành.
Dân số của cả tỉnh Nghệ An tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009 có 2.913.055
ngời, phân bố với mật độ trung bình 173 ngời/ km2. Cả tỉnh hiện có gần 20 dân tộc
anh em cùng sinh sống. Trong đó đông nhất là ngời Kinh, sau đến ngời Thái, ngời
Mờng, HMông, Khơ Mú,.Ngời Kinh sống tập trung ở các thành phố, thị xÃ, thị


trấn và các huyện ở vùng thấp. Các dân tộc kh¸c chđ u sèng ë c¸c hun miỊn
nói ë phÝa tây bắc và tây nam của tỉnh.
Với diện tích đất nông nghiệp 1.170,716 ha trên tổng số diện tích tự nhiên là
1.649.853 ha, Nghệ An từ xa đến nay có nền kinh tế nông lâm nghiệp là chủ
yếu. Sản phẩm nông nghiệp của ngời dân về cơ bản vẫn là trồng lúa, ngô, khoai,
sắn và đậu đỗ. Diện tích cây công nghiệp ( ở Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn)
nhìn chung cha lớn. Riêng các huyện miền núi có thêm kinh tế lâm nghiệp, hiện
nay chủ yếu cũng chỉ là trồng rừng nguyên liệu giấy.
Về công nghiệp ở Nghệ An, bên cạnh một số nhà máy xi măng, hiện tại còn
một số nhà máy thuộc diện công nghiệp chế biến ( đờng, gỗ, thức ăn gia súc) hoặc
gia công (may mặc). Tuy nhiên, xét một cách toàn diện, kinh tế công nghiệp ở
Nghệ An cha phát triển. Những năm gần đây, ở các thành phố, thị xà và thị trấn bắt
đầu hình thành kinh tế dịch vụ và du lịch, với tổng dân số ngót 3 triệu ngời với
tiềm năng rừng và biển rộng lớn, trong tơng lai đây cũng là một mũi nhọn quan
trọng trong cơ cấu kinh tế của địa phơng.
Nguồn tài nguyên thực vật ở Nghệ An vô cùng phong phú, có nhiều loài đợc
dùng làm thuốc. Theo kết quả điều tra trớc đây (1967 1975) đà ghi nhận đợc ở

trong tỉnh Nghệ An có tới 667 loài cây thuốc. Với con số này, vào thời gian đó
Nghệ An nằm trong nhóm những tỉnh có nguồn cây thuốc nhất Miền Bắc nớc ta
(cùng với các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Thanh Hoá) Qua công tác điều tra
cơ bản, tổ chức khai thác thu mua dợc liệu Nghệ An cũng là đơn vị dẫn đầu ở Miền
Bắc.
Bên cạnh nguồn cây thuốc mọc tự nhiên, Nghệ An cũng từng là tỉnh có
phong trào phát triển trồng cây thuốc rộng rÃi, một số cây thuốc đợc trồng trên
diện tích lớn nh Bạc hà, Sắn dây, ích mÉu, HoÌ, …


Cây thuốc có tác dụng cầm máu có ở Nghệ An rất đa dạng và phong phú. trong
nớc đà có nhiều công trình điều tra, nghiên cứu về những loài cây thuốc này ở Nghệ
An, nhng cha có một công trình nghiên cứu về cây cầm máu ở tỉnh Nghệ An. Trong
giới hạn cho phép chúng tôi chọn đề tài điều tra chỉ có thể nghiên cứu cây cầm máu
tại một số huyện trung du là: Đô Lơng, Nam Đàn, Quỳnh Lu và một số huyện đồng
bằng là: Yên Thành, Nghi Léc, Hng Nguyªn.


Bản đồ 1. Sơ lợc 6 huyện nghiên cứu cây cầm máu ở Nghệ An


×