Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng và sự dụng đối với giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên trường cao đẳng công nghệ thủ đức hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 106 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TP.HCM
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ THỦ ĐỨC

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tên đề tài:

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
VÀ SỰ VẬN DỤNG ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP

CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG
CÔNG NGHỆ THỦ ĐỨC HIỆN NAY
Chủ nhiệm đề tài: TÔ THANH MY

1

A. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

TỪ VIẾT TẮT

Ý NGHĨA

1. NXB

Nhà xuất bản

2. Sở GD&ĐT

Sở Giáo dục và Đào tạo



3. UBND

Ủy ban Nhân dân

4. TP.HCM, TP. Hồ Chí Minh

Thành phố Hồ Chí Minh

5. Phịng CTCT-HSSV

Phịng Cơng tác Chính trị
Học sinh, sinh viên
Trung tâm Đào tạo nguồn nhân lực và
Hợp tác doanh nghiệp
Trường Cao đẳng Công nghệ Thủ Đức

6. Trung tâm ĐTNNL&HTDN
7. Trường CĐCN Thủ Đức


2

B. DANH MỤC BIỂU BẢNG SỐ LIỆU
- Bảng 1: Thống kê tình hình số lượng học sinh, sinh viên của trường CĐCN Thủ Đức
giai đoạn 2015 – 2019

- Bảng 2: Sơ đồ tổ chức trường CĐCN Thủ Đức
- Bảng 3: Thống kê tỉ lệ học sinh, sinh viên tham gia sinh hoạt công dân theo năm học
- Bảng 4: Bảng thống kê số lượng thanh niên học sinh, sinh viên đạt các danh hiệu thi
đua giai đoạn 2014 – 2018

- Bảng 5: Danh sách các chuyên đề tập huấn kỹ năng nghề nghiệp
C. DANH MỤC CÁC HÌNH: Khơng có


3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh – người sáng lập, giáo dục, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, anh
hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam – đã để lại cho
Đảng và nhân dân ta những di sản tư tưởng vơ cùng to lớn. Trong đó, vấn đề về “đạo đức
cách mạng” là một trong những nội dung cơ bản rất quan trọng trong toàn bộ hệ thống tư
tưởng của Người.
Gần 90 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức cách mạng nói riêng vẫn ln soi sáng con đường cách mạng của nhân dân Việt
Nam trong sự nghiệp đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, chống nghèo nàn, lạc hậu, xây
dựng đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân; cũng như trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển con người Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tư
tưởng vĩ đại của Người cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin mãi là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to
lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta” [6, 6]. Vì vậy, “trong bất kỳ điều kiện và tình
huống nào phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng
sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” [6, 21].
Tuy nhiên, kể từ khi nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mặc dù đời sống nhân dân từng bước
được nâng lên, song mặt trái của kinh tế thị trường cũng đã để lại những hậu quả hết sức
nặng nề cho xã hội.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Cùng
với việc kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là một môi trường thuận
lợi làm nảy sinh và phát triển nhiều loại tiêu cực xã hội. Đã xuất hiện khuynh hướng làm

giàu bất cứ giá nào, kể cả lừa đảo, gây tội ác, vi phạm pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên
lương tâm và nhân phẩm. Lối sống trụy lạc, chạy theo thị hiếu thấp hèn, văn hóa khơng
lành mạnh và những hủ tục mê tín dị đoan đang phục hồi và phát triển. Trong thế hệ trẻ,
có một bộ phận phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng. Một bộ phận khơng ít


4

cán bộ, đảng viên, có chức, có quyền, trong đó có cả những người đã từng đóng góp
đáng kể cho cách mạng cũng bị sa ngã và thối hóa biến chất [5, 137-138]. Đến Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh: “Tình trạng
suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí cịn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, tự chuyển hóa có diễn biến phức tạp” [6, 29]; tình trạng
“suy thối đạo đức, lối sống chưa được ngăn chặn, đẩy lùi” [6, 179]. Tiếp tục, Nghị
quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII khẳng định: “Đổi mới nội dung,
phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng, truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng
cách mạng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ” [1, 98]. Qua đó, cho thấy
tính chất phức tạp tình hình đạo đức nói chung của con người Việt Nam trong những
năm gần đây trước những biển đổi to lớn của xã hội, nhất là vấn đề kinh tế là điều khó
thể tránh khỏi.
Đạo đức nghề nghiệp là một nhánh trong hệ thống đạo đức xã hội, là một loại đạo
đức đã được thực tiễn hoá. Mỗi con người đã lựa chọn cho mình một nghề nào đó thì dù
trong hồn cảnh nào cũng nên hết lịng vì nghề và sống bằng nghề. Nghề không chỉ là
phương tiện để sống mà cịn là điều kiện mà qua đó, mỗi người có thể cống hiến sức lực
và trí tuệ cho xã hội. Do vậy, giáo dục đạo đức nghề nghiệp chính là để hình thành nhân
cách nghề nghiệp của mỗi chủ thể; hướng con người vươn tới những giá trị chân, thiện,
mỹ trong hoạt động nghề nghiệp. Bên cạnh đó, công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp
trong thời gian qua tại các trường học vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót, hay chỉ

tập trung đào tạo chuyên mơn. Lực lượng học sinh, sinh viên Việt Nam nói chung, lực
lượng học sinh, sinh viên trường CĐCN Thủ Đức nói riêng là những lực lượng quan
trọng và đang trong quá trình trưởng thành, cần thiết phải được bồi dưỡng, giáo dục trở
thành những cơng dân tích cực cho xã hội.
Đồng thời, trước thực trạng xã hội xuất hiện những hành vi trái đạo đức nghề nghiệp của
một bộ phận doanh nghiệp, cán bộ, công chức, y bác sĩ, thầy cô giáo, người nông dân, người
thương nhân… Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập và phát triển hiện nay đã có những


5

tiêu cực ảnh hưởng đến nhận thức về đạo đức nghề nghiệp, lối sống của một bộ phận
không nhỏ lực lượng học sinh, sinh viên còn thờ ơ trong rèn luyện bản thân, suy nghĩ
thực dụng cực đoan trong nghề nghiệp. Do vậy, cần thiết phải nghiên cứu những chỉ dẫn
của Hồ Chí Minh về xây dựng đạo đức cách mạng và vận dụng nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên trường CĐCN Thủ Đức hiện nay.
Trên tinh thần ấy, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng và sự vận dụng đối với giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh
viên trường Cao đẳng Công nghệ Thủ Đức hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài là nhằm làm rõ nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng, từ đó đề ra được những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên Trường CĐCN Thủ Đức hiện nay.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu



Đối tượng nghiên cứu: Tác giả tập trung nghiên cứu, tìm hiểu quan điểm

tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và rút ra giá trị tư tưởng đó để vận dụng nhằm

nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên trường CĐCN Thủ
Đức hiện nay.



Khách thể nghiên cứu: Công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh,

sinh viên trường Cao đẳng Công nghệ Thủ Đức.

4. Giải thuyết nghiên cứu
Các văn bản cũng như thực tiễn giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho thấy việc tổ
chức giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên trường Cao đẳng Công nghệ
Thủ Đức có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động giáo dục đào tạo người học của
nhà trường. Song thực tế kết quả hoạt động giáo dục nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên
hiện nay còn nhiều hạn chế, do nhiều nhân tố khác chi phối, trong đó việc quản lý giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên trong nhà trường là một yếu tố cơ bản.


6

Nếu đề xuất và triển khai được những phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên trường Cao đẳng Công nghệ Thủ Đức
theo hướng bám sát những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về phương pháp rèn luyện đạo đức cách
mạng; đồng bộ các bộ phận chức năng phù hợp với thực tiễn đào tạo của nhà trường hiện nay
sẽ nâng cao được kết quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ điều kiện tiền đề hình thành và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức cách mạng.
Thứ hai, phân tích làm rõ thực trạng cơng tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho

học sinh, sinh viên trường CĐCN Thủ Đức hiện nay.
Thứ ba, đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên trường CĐCN Thủ Đức hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Triết học Mác – Lênin.
Ngoài ra đề tại còn sử dụng các phương pháp hỗ trợ khác như: phương pháp lịch sử
và logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp nghiên cứu lý luận và tổng
kết thực tiễn, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê số liệu, v.v… để nghiên cứu
và trình bày đề tài.
7. Phạm vi ảnh hưởng
Đề tài góp phần chỉ rõ thực trạng công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học
sinh, sinh viên tại nhà trường. Đồng thời đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp góp phần hình thành nhân cách, đạo
đức cách mạng cho lực lượng học sinh, sinh viên trường CĐCN Thủ Đức.


7

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
1.1. Điều kiện và tiền đề hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
1.1.1. Hồn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam và bối cảnh thế giới cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam chịu sự tác động tiêu cực
bởi chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Năm 1858, nổ tiếng
súng đầu tiên vào bán đảo Sơn Trà ở Đà Nẵng, thực dân Pháp chính thức mở màn xâm
lược Việt Nam. Sau khi hồn thành việc xâm lược và bình định bằng vũ lực, thực dân
Pháp đã thiết lập bộ máy thống trị trên tồn bộ đất nước Việt Nam với quy mơ ngày càng
lớn nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị

trường tiêu thụ hàng hóa của “chính quốc”. Sự thống trị và khai thác thuộc địa thực dân
Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ trên tất cả mọi mặt của đời sống
xã hội, làm cho Việt Nam từ một nước “phong kiến độc lập”, “có chủ quyền” trở thành
một nước “thuộc địa nửa phong kiến”.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị chuyên chế điển hình. Mọi
quyền hành đều nằm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, tước bỏ quyền lực đối
nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn. Chúng bóp nghẹt tự do dân
chủ, khủng bố và nhấn chìm các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong những bể
máu. Vạch trần bản chất chính trị phản động của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Về chính trị, chúng tuyệt đối khơng cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng
thi hành những luật pháp dã man… Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng
thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của chúng ta. Chúng tắm các
cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu” [18, 555] và “thanh niên nào nói đến những
chữ bình đẳng, tự do, cách mạng đều bị bọn thực dân và phong kiến coi là phạm tội và bị
chúng xử tội, nhẹ là bắt bớ, giam cầm; nặng là tù đày, bắn giết” [28, 389]. Nói chung, “ở
nước ta, đế quốc Pháp hoành hành dã man, đồng bào ta bị làm nơ lệ, có Tổ quốc mà


8

khơng có quyền u nước. Nhân dân ta, kể cả thanh niên, bơ vơ khơng có người lãnh
đạo và hầu như không thấy lối ra” [25, 105].
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách độc quyền về xuất nhập khẩu về
khai thác mỏ, giao thông vận tải, ngân hàng, tài chính, thuốc phiện và muối. Chúng ra
sức chiếm đoạt ruộng đất của nhân dân Việt Nam để lập các đồn điền; đặt ra hàng trăm
thứ thuế vô lý và vơ nhân đạo. Với mục đích là khai thác thuộc địa nên Pháp khơng du
nhập một cách hồn chỉnh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào Việt Nam, mà vẫn
duy trì phương thức sản xuất và quan hệ sản xuất phong kiến. Chúng kết hợp hai phương
thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Hồ Chí Minh tố cáo thực
dân Pháp “đã bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, khiến cho nhân dân ta nghèo nàn,

thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp ruộng đất, hầm mỏ, nguyên
liệu…Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta nhất là dân cày và dân buôn
trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột cơng
nhân ta một cách vơ cùng tàn nhẫn” [18, 556].
Về văn hóa, giáo dục, thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” về mặt giáo
dục, “đầu độc” về mặt văn hóa. Đồng thời, chúng cũng ra sức đẩy mạnh tuyên truyền ca
ngợi chính sách “khai hóa” của “nhà nước bảo hộ”, du nhập văn hóa phẩm đồi trụy,
khuyến khích tện nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút… Tố cáo tội ác của chế độ cai trị thực
dân Pháp ở Đông Dương, Hồ Chí Minh vạch rõ: “Chúng tơi khơng những bị áp bức và
bóc lột một cách nhục nhã, mà cịn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm…; Chúng
tôi phải sống trong cảnh ngu dân tối tăm vì chúng tơi khơng có quyền tự do học tập” [16,
22-23].
Về xã hội, dưới sự tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa,
giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra q trình phân hóa sâu sắc. Các giai cấp cũ bị
phân hóa và hình thành những giai cấp và tầng lớp mới, đặc biệt là sự ra đời của hai giai
cấp mới đó là giai cấp công nhân và giai cấp tư sản dân tộc.
Đến những năm đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có những chuyển biến rõ rệt làm
nảy sinh những mâu thuẫn hết sức sâu sắc và ngày càng trở nên quyết liệt. Đó là mâu


9

thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với
giai cấp địa chủ phong kiến, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt nam với thực dân đế
quốc Pháp. Tất cả những mâu thuẫn đó tạo tiền đề dẫn đến các cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp ngày càng mạnh mẽ. Trước thực trạng biến đổi của xã hội
Việt Nam thời bấy giờ, Hồ Chí Minh nhận định: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người
Đông Dương giấu một cái gì đó đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê
gớm” [16, 28]và khi thời cơ đến, “toàn dân Việt Nam trên dưới một lòng kiên quyết
chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” [16, 557].

Việt Nam vốn là một nước nghèo, lạc hậu về kinh tế, nhưng có truyền thống u
nước hết sức nồng nàn, có tinh thần đồn kết dân tộc rất cao, luôn anh dũng, kiên cường,
bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm nên nhân dân Việt Nam đã phát huy
truyền thống vẻ vang của ông cha mà liên tiếp vùng lên đấu tranh chống thực dân Pháp
xêm lược nhằm bảo vệ nền độc lập nước nhà. Hồ Chí Minh khẳng định: “Ơng cha chúng
ta với ý chí quật cường và lịng nồng nàn u nước đã liên tiếp vùng dậy, luôn nêu cao
ngọn cờ độc lập tự do” [24, 372]. Phong trào chống thực dân Pháp dưới ngọn cờ Cần
Vương (1885 – 1896) do vua Hàm Nghi lãnh đạo mở đường cho các phong trào giải
phóng dân tộc nổ ra. Song, vì chưa có đường lối chính trị rõ ràng và chưa có được sự ủng
hộ của đông đảo nhân dân cả nước nên các phong trào cuối cùng cũng đều vì thất bại,
nhân dân Việt Nam tiếp tục lâm vào tình cảnh bế tắc về con đường cứu nước.
Cũng những năm đầu thế kỷ XX, các tư tưởng tư sản của Lương Khải Siêu,
Khang Hữu Vị, Tôn Dật Tiên và tư tưởng của các nhà Khai sáng Pháp với những khẩu
hiệu hết sức nhân văn được nhân dân ta tiếp nhận. Đặc biệt, tư tưởng về “tự do – bình
đẳng – bác ái” của các nhà tư sản Pháp đã tác động trực tiếp vào các phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Sự kìm kẹp của thực dân Pháp, cộng với sự biến
đổi theo chiều hướng tích cực về kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục…của xã hội Việt
Nam vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là tiền đề tất yếu để đi đến thiết lập một trật
tự xã hội mới, cái còn lại chỉ là việc gieo hạt giống tinh thần đến quần chúng, đến với
nhân dân lao động nữa mà thôi. Nhưng, “để gieo hạt giơng đó địi hỏi phải có phương
pháp. Phương pháp của Phan Châu Trinh là khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.


10

Phương pháp của Phan Văn Trường là dùng lý thuyết thấu nhân tâm. Phương pháp của
Phan Bội Châu là cầu cứu nghĩa cử đồng văn, đồng chủng, chạy đông, chạy tây, dĩ ngoại
đột nội…” [34, 26]. Có thể nói, phương pháp và cách thức tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc của các phong trào đó rất phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức
tiến hành. Song, tất cả các phương pháp và cách thức tiến hành đó cũng chưa vượt ra

phạm vụ của những cuộc cách mạng không đến nơi, đến chốn. Phương pháp cách mạng
của họ có nhược điểm chủ yếu là khơng nhận thức đúng đắn, đầy đủ về yêu cầu và nhiệm
vụ cấp bách của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Họ chưa được trang
bị phương pháp khoa học để nhận thức xã hội Việt Nam một cách tồn diện. Cho nên,
phong trào Đơng du, phong trào Đông kinh nghĩa thục, phong trào Duy tân… vừa mới
bùng lên đã bị thực dân Pháp đàn áp và dập tắt.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang giai đoạn độc quyền – chủ nghĩa đế quốc. Các nước đế quốc bên trong thì
tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngồi thì xâm lược và áp bức các dân tộc
thuộc địa. Đến cuối thế kỷ XIX, việc bình định về quân sự của các nước đế quốc với các
nước thuộc địa cơ bản hoàn thành. Hầu hết các nước nhược tiểu ở Châu Á, Châu Phi và
khu vực Mỹ La-tinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của các nước đế quốc. Các nước
đế quốc đặt ách áp bức thực dân dưới các hình thức khác nhau ở hầu hết các nước thuộc
địa. Sự áp bức và thơn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc càng tăng lên làm cho mâu
thuẫn của thời đại tăng lên và xuất hiện những mâu thuẫn mới, đó là: mâu thuẫn giữa
giai cấp vơ sản và tư sản chính quốc, giữa đa số người lao động với địa chủ phong kiến,
mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau và mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa với đế
quốc thực dân. Những mâu thuẫn đó, ngày càng phát triển gay gắt, tích tụ tạo điều kiện
dẫn đến các cuộc cách mạng vơ sản và cách mạng giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX.
Trong thời đại mà chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của tất cả giai cấp
vô sản và các dân tộc thuộc địa thì giai cấp tư sản và hệ tư tưởng dân chủ tư sản khơng
cịn là một tư tưởng tiến bộ nữa. Phong trào cách mạng thế giới cấp thiếp đặt ra là phải
có hệ thống lý luận, khoa học để làm vũ khí tư tưởng trong cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân chống chủ nghĩa tư bản. Trước bối cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời vào năm


11

1848, với bản “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” đã khẳng định giai cấp cơng nhân có sứ
mệnh lịch sử là: thơng qua chính đảng của mình là Đảng Cộng sản; thực hiện sự đoàn kết

đấu tranh, dùng bạo lực lật đổ chính quyền tư sản, thiết lập chun chính vơ sản. Có thể
nói, Bản tun ngơn khơng chỉ là vũ khí lý luận của giai cấp cơng nhân trên thế giới
trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản với khẩu hiệu “Vơ sản tất cả các nước
đồn kết lại” [23, 586].Được sự dẫn dắt soi đường bởi vũ khí lý luận của chủ nghĩa Mác,
giai cấp cơng nhân ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng. Con đường đấu tranh
của giai cấp công nhân ngày càng được định hình rõ nét, đi từ tự phát đến tự giác.
Đến đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác
– Lênin. Đây là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng xã hội. Nó có sức ảnh
hưởng to lớn, lơi cuốn quần chúng nhân dân lao động ở những nước thuộc địa vào phong
trào cộng sản. Với sự thắng lợi rực rỡ của Cách mạng tháng Mười Nga (1917), đã mở ra
một thời đại mới – thời đại ưu thế thuộc về giai cấp công nhân. Nhân dịp kỷ niệm 40
năm Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh đã ca ngợi: “Cách mạng Tháng Mười
đã chặt đứt xiềng xích của chủ nghĩa đế quốc, phá tan cơ sở của nó và giáng cho nó một
địn chí mạng. Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh
giấc mê hàng thế kỷ nay. Cách mạng Tháng Mười đã mở ra trước mắt họ thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc” [23, 562].
Trước yêu cầu của phong trào cộng sản quốc tế, tháng 3/1919, Quốc tế cộng sản
(Quốc tế III) được thành lập. Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát
triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc
được bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa” của V.I.Lênin trên Báo Nhân đạo, tác phẩm đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải
phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa bị áp bức
trên lập trường cách mạng vô sản. Người khẳng định: An Nam muốn cách mệnh thành
cơng, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế; Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.


12

Như vậy, trước hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX – đầu

thế kỷ XX có nhiều mâu thuẫn, khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước đã đặt ra
trước hết cho các nhà tư tưởng Việt Nam phải được trang bị phương pháp luận khoa học
để tìm hiểu, nghiên cứu và giải quyết đúng đắn mọi vấn đề của đời sống xã hội. Trong
đó, có những vấn đề về “đạo đức của con người Việt Nam” để thực hiện thắng lợi mọi
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho tất
cả mọi người dân Việt Nam. Nhiệm vụ lịch sử đó đã được Hồ Chí Minh tiếp nhận và
quyết tâm thực hiện cho bằng được. Tuy nhiên, giải quyết nhiệm vụ ấy bằng cách nào?
Đây là một câu hỏi đầy trăn trở ở Hồ Chí Minh.
Trong khi đó, trên thế giới vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và các nước đế quốc tiến hành hàng trăm cuộc
chiến tranh xâm lược các nước nhỏ yếu, lạc hậu ở khắp các nước châu Á, Phi và khu v ực
Mỹ Latinh. Song, chúng lại tuyên bố đó là các “công cuộc khai phá văn minh cao cả”. Đến
đầu thế kỷ XX, dù chỉ có chín nước đế quốc là Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Nhật Bản,
Bồ Đào Nha, Hà Lan, nhưng lại thống trị và chi phố cả thế giới. Từ đó, tạo ra mâu thuẫn đối
kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa các nước đế quốc và các dân tộc thuộc
địa và mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau hết sức gay gắt. Chính trong bối cảnh này,
V.I.Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác – Lênin và hoàn thiện chiến
lược, sách lược của cách mạng vô sản, đặc biệt là lời kêu gọi “Vô sản toàn thế giới và các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Đến năm 1917, V.I.Lênin và Đảng cách mạng của giai cấp
công nhân đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười Ngathành công và mở ra một thời đại mới
trong lịch sử của xã hội lồi người, đó là: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Trải qua nhiều bước khảo nghiệm, cuối cùng vào những năm 20 của thế kỷ XX,
Hồ Chí Minh đã đến được với chủ nghĩa Mác – Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân và cũng là hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại ngày nay. Phát triển, cụ thể hóa một
cách sâu sắc những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin về đạo đức của con
người Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, làm cách mạng để tự giải phóng, để cải tạo xã hội
cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp vẻ vang; nhưng đồng thời, cũng là một nhiệm vụ



13

rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài và gian khổ. Do đó, để làm cách
mạng thành cơng thì mỗi người Việt Nam phải có đầy đủ bản lĩnh cách mạng. Tuy nhiên,
bản lĩnh cách mạng chỉ có thể có được khi họ được trang bị đầy đủ cả “đức” lẫn “tài”.
Trong đó, “đạo đức cách mạng” là nền tảng tinh thần, là cái quyết định sự vững vàng,
kiên định, nghị lực của người cách mạng; là cái giúp cho người cách mạng vượt qua
được mọi khó khăn, hiểm nguy và thử thách cam go để hồn thành xuất sắc mọi nhiệm
vụ được giao. Hồ Chí Minh dạy: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm
vụ cách mạng vẻ vang” [24, 239].
1.1.2. Những tiền đề hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng


Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng khơng chỉ phản ánh điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà cịn bắt nguồn từ giá trí đạo đức truyền thống của dân
tộc Việt Nam, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân ái,
khoan dung… đã được hun đúc qua hàng nghìn năm đấu tranh kiên cường, bất khuất, tự
lực, tự cường, thông minh, sáng tạo chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc và
bảo vệ nền văn hiến của đất nước, chống âm mưu đồng hóa của ngoại bang. Việt Nam là
một quốc gia được hình thành từ rất sớm, trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ
nước, đất nước Việt Nam trở thành Tổ quốc thiêng liêng của mỗi người Việt Nam. Tinh
thần yêu nước trở thành đạo lý sống, niềm tự hào và là một nhân tố đứng đầu trong bảng
giá trị đạo đức của con người Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: “Dân ta có một lịng nồng
nàn u nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn,
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp
nước… Chúng ta có quyền tự hào vì những trang sử vẻ vang thời đại, Bà Trưng, Bà

Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các
vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng” [20, 171].


14

Việt Nam có địa hình thuận lợi, đất đai phì nhiêu, khí hậu thích hợp cho phát triển
nơng nghiệp, tài nguyên, khoáng sản phong phú, nhưng cũng thường xuyên xảy ra nạn
thiên tai, lũ lụt, hạn hán… Đây là một trong những yếu tố vật chất căn bản làm cho dân
tộc Việt Nam có được những giá trị đạo đức cao đẹp về q trọng tình người, về lịng
nhân ái, khoan dung, về tính nhân văn sâu sắc. Chính những giá trị đó đã tạo nên một sức
mạnh tổng hợp trong các cuộc đấu tranh chống quân xâm lược của nhân dân ta. Đó là
mối quan hệ khăng khít giữa các cá nhân trong cộng đồng “lá lành đùm lá rách”, “một
cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hịn núi cao”, hay “bầu ơi thương lấy bí
cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”… qua những câu ca dao, tục ngữ,
những lời ru, điệu hò, câu ví đã khắc sâu vào tâm trí của mỗi người Việt Nam ln được
Hồ Chí Minh nâng niu, trân trọng.
Đặc trưng triết lý sống của người Việt Nam là tinh thần nhân văn sâu sắc, lòng
khoan dung, nhân đạo, nhân ái và những quan niệm như: “nước chảy đá mòn”, nhiễu
điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”…Tinh thần
khoan dung của người Việt Nam được thể hiện ở quan điểm hòa hiếu, khi chiến đấu
chống quân xâm lược rất anh dũng, kiên cường, nhưng khi quân xâm lược thua, rút chạy
thì ta cho chúng con đường sống – “Đánh kẻ chạy đi, chứ không ai đánh người chạy lại”,
làm đường, cấp lương thực, phương tiện cho chúng rút lui về nước… Những giá trị đạo
đức truyền thống quý báu của dân tộc đã được Hồ Chí Minh nâng niu, ni dưỡng, phát
huy và trở thành cơ sở, niềm tự hào sâu vào tâm trí, vun đắp nên triết lý sống của Hồ Chí
Minh, Người khẳng định: “Lúc đầu chính chủ nghĩa u nước, chứ khơng phải chủ nghĩa
cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” [25, 128].



Tinh hoa tư tưởng đạo đức phương Đông và phương Tây

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, cịn bắt nguồn từ sự tiếp thu có
chọn lọc, có phê phán những tinh hoa tư tưởng đạo đức phương Đông. Sự tiếp thu đó đã
góp phần tạo cho tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng một phong thái, cốt cách
riêng. Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình yêu nước và chuẩn mực đạo đức
Nho giáo; được giáo dục trong khuôn phép của tư tưởng Nho giáo. Chính vì vậy, ngay từ


15

khi cịn trẻ, Người cũng đã tinh thơng Ngũ kinh, Tứ thư. Sau khi đã làm được thơ Đường
bằng chữ Hán, Hồ Chí Minh thường dẫn các ý, thậm chí cả các mệnh đề của Khổng –
Mạnh. Từ học thuyết “chính danh” của Nho giáo, Người đã bỏ qua những hạn chế bởi
điều kiện lịch sử xã hội như “Quân xử thần tử thần bất tử bất trung”, “Quân úy thiên
mệnh”… để nâng quan điểm này lên một tầm cao mới mang tính chất cách mạng, tính
dân tộc, mà ở đó chỉ cịn là “Trung với nước, hiếu với dân”. Hồ Chí Minh dạy: “dù là
Chủ tịch nước, Bộ trưởng, công nhân, nông dân, bộ đội hay người phục vụ nấu ăn, qt
rác…đều là tồi nếu khơng hồn thành được nhiệm vụ của mình, cịn nếu làm tốt hơn
người thì đều là anh hùng, chiến sĩ thi đua, là những thánh nhân ngày nay” [25, 460].
Từ quan niệm “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”, rồi đến tư tưởng “tôi
phải trung thành với vua một cách tuyệt đối”, “làm con phải hiếu thảo với cha mẹ” trong
học thuyết “chính danh” của Nho giáo, Hồ Chí Minh đã nâng quan điểm này lên một tầm
cao mới, mang lại cho nó những nội dung mới gắn liền với đặc điểm vốn có của dân tộc
Việt Nam và tiến bộ xã hội. Người kêu gọi: “Trung là trung với Tổ quốc, Hiếu là hiếu
với nhân dân, ta thương cha mẹ ta còn phải thương cha mẹ người, phải cho mọi người
biết thương cha mẹ” [19, 640]. Nếu như Nho giáo hạ thấp vai trò của người phụ nữ, đặt
ra những quy định hà khắc đối với họ thì Hồ Chí Minh đã phê phán quan điểm ấy, khơi
phục vị trí, vai trị của người phụ nữ và thực hiện sự bình đẳng giữa nam và nữ trong xã
hội. Người viết: “Nói tới phụ nữ là nói tới phần nửa xã hội” [24, 523]. Đặc biệt, những

tiêu chuẩn của đạo đức Nho giáo như: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng, cần, kiệm, liêm,
chính, học đi đơi với hành, phải biết yêu thương con người… đều được Hồ Chí Minh kế
thừa, vận dụng một cách sáng tạo để xây dựng đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng,
vơ tư” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Người viết: “Đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển
và củng cố” [23, 293]. Hồ Chí Minh cũng đã kế thừa có sáng tạo một cách sinh động
những tư tưởng như “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, “tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”, “giáo dục làm gương”, “đào tạo con người có đạo đức cho xã hội”…
Những tư tưởng đó được Hồ Chí Minh phát triển thành tư tưởng “lấy dân làm


16

gốc”, “dân là vốn quý nhất”, “đạo đức là cái gốc, là phẩm chất quan trọng nhất” của
người cách mạng.
Ngoài ra, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng còn kế thừa tư tưởng của
Phật giáo về giáo hóa con người. Tư tưởng Phật giáo lấy lịng từ bi, vị tha, lấy ân báo
ốn thì tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện tấm lịng khoan dung, độ lượng đối với con
người. Quan niệm “con người sinh ra không có dấu ấn nơ lệ trên trán” hay “mọi người
đều có dịng máu đỏ” là quan niệm đạo đức về lịng u thương, về sự bình đẳng trong
các mối quan hệ của con người trong tư tưởng Phật giáo. Tất cả những quan niệm đạo
đức về lòng yêu thương, về sự bình đẳng trong các mối quan hệ của người trong tư tưởng
Phật giáo. Tất cả những quan niệm đó đều được Hồ Chí Minh kế thừa và vận dụng một
cách sáng tạo thông qua hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với phong trào “Hũ
gạo tiết kiệm”, Người nói: “Tơi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành
trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một
bơ) để cứu dân nghèo. Như vậy, người nghèo sẽ có bữa rau bữa cháo để chờ mùa lúa
năm sau, khỏi đến nỗi chết đói. Tơi chắc rằng đồng bào ta ai cũng sẵn lòng cứu khổ cứu
nạn, mà hăng hái hưởng ứng lời đề nghị nhường cơm xẻ áo để diệt giặc đói” [19, 31].
Phật giáo rất chú ý đến số phận con người và vấn đề “giải thoát” con người khỏi

bề khổ của trần gian. Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến thân phận và nỗi khổ con
người. Người viết: “Đức Phật đại từ, đại bi cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra
khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma” [20, 197]. Nhưng, khác với
Phật giáo, Hồ Chí Minh đã đi tìm nguyên nhân nỗi khổ ngay bên trong xã hội, do những
áp bức, bóc lột, bất cơng…và tìm ra con đường giải thốt nỗi khổ ấy bằng những hành
động đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại.
Phật giáo khuyên con người sống có đạo đức từ bi, hỷ xả, quan tâm giúp đỡ người
khác, chăm làm việc thiện, trong sạch, giản dị, giữ giới… Hồ Chí Minh đã kế thừa
những tư tưởng trên, thể hiện qua lối sống và cuộc đời hoạt động của Người. Nhân ngày
Phật đản, Người viết: “Đời sống của nhân dân ta dần dần được cải thiện, cũng giống như


17

tơn chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời thẩm mỹ, chí thiện, bình đẳng,
n vui và ấm no” [21, 290].
Ngoài Nho giáo và Phật giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng cịn
chịu ảnh hưởng tư tưởng triết lý của Lão giáo. Mặc dù, tư tưởng của Lão giáo ít được
nhắc đến, song nó lại có ảnh hưởng rất lớn đến lối sống, phong cách và tư tưởng đạo đức
của Hồ Chí Minh. Tư tưởng cốt lõi của Lão giáo là triết lý “duy nhiên” chỉ cho mọi
người xuất thế, xa lánh xã hội, chạy trốn những trách nhiệm làm người với những bổn
phận và trách nhiệm vốn có của một con người – Con người chỉ hành động theo lẽ tự
nhiên. Quan niệm này có những hạn chế, nhưng nó cũng có những giá trị nhất định như:
Dạy cho con người có lòng yêu thiên nhiên, sống hòa hợp với tự nhiên, tinh thần lạc
quan trước những biến cố của cuộc sống. Hồ Chí Minh đã khai thác có chọn lọc, có phê
phán những giá trị này vào những thời điểm và hồn cảnh thích ứng. Trong tập thơ
“Nhật ký trong tù” – tập thơ được viết khi Người bị giam giữ trong nhà lao Trung Quốc,
đã thể hiện một tinh thần lạc quan, yêu đời và luôn hướng về một ngày mai tốt đẹp. Khi
đã làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh vẫn sống với một cuộc đời thường, hòa đồng với tự
nhiên, vẫn là một con người giản dị, thanh tao với một ngơi nhà sàn đơn sơ, có vườn cây,

ao cá… Người từng nói: “Tơi tuyệt nhiên khơng ham muốn công danh phú quý chút nào.
Bây giờ phải gách chức Chủ tịch là vì đồng bào đã ủy thác thì tơi phải gắng sức làm”
[19, 161]. Đó là phong cách của một con người vĩ đại, nhưng hết sức giản dị, thanh tao,
tự tại, không thái quá, không hưởng thụ trước thiên hạ. Hồ Chí Minh dạy: “Khơng hiếu
danh, khơng kiêu ngạo, ít lịng ham muốn vật chất” [17, 260] “xem thường danh vị, ngơi
thứ và tiền bạc, vì chúng là cội nguồn sinh ra đố kỵ và thù hận…” [17, 450]. Trong Di
chúc, Người còn căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Một đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng; thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ
tư. Phải giữ gìn Đảng thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
trung thành của nhân dân” [16, 498]. Nói chung, Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc
những tư tưởng của Lão giáo để hình thành nên phong cách, lối sống đạo đức của một vị
lãnh tụ, một vĩ nhân vĩ đại của dân tộc Việt Nam.


18

Hồ Chí Minh khơng chỉ thấm nhuần những tư tưởng phương Đơng, mà cịn được học
và tiếp xúc với nhiều tư tưởng đạo đức tiến bộ của phương Tây, trong đó chủ yếu là tư tưởng
đạo đức của các nhà khai sáng Pháp với khẩu hiệu “tự do – bình đẳng – bác ái” và những tư
tưởng về dân quyền, dân ước, dân chủ, dân sinh… Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã
được tiếp xúc với nền văn hóa phương Tây qua sách báo. Sau này, Người kể lại: “Khi tôi độ
mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi đã được nghe ba chữ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Đối với
chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau
những chứ ấy. Nhưng trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người như
dạy những con vẹt. Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ
sách của các nhà văn mới, mà cả Rút-xơ và Mơng-tex-ki-ơ cũng bị cấm, vậy thì phải làm thế
nào bây giờ? Tơi quyết định tìm cách đi ra nước ngồi” [16, 477].
Chính tư tưởng đạo đức “tự do – bình đẳng – bác ái” của phương Tây đã thơi thúc
Hồ Chí Minh hướng về phương Tây để xem xét, học hỏi và tìm con đường cứu nước giải
phóng cho dân tộc. Hơn mười năm bôn ba khảo sát ở các châu lục như châu Á, châu Âu,

châu Mỹ Latinh và châu Phi, đặc biệt có một số nước tư bản như Mỹ, Anh, Pháp và các
thuộc địa của chúng. Hồ Chí Minh đã rút ra được những nhận định hết sức sâu sắc, tìm
ra được những “tinh hoa” tốt đẹp cần tiếp thu và những gì cịn hạn chế cần khắc phục.
Sau khi đọc Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ trong đó đề cập đến
“quyền bình đẳng”, “quyền sống”, “quyền tự do”, “quyền mưu cầu hạnh phúc” của con
người, “quyền cơng dân kiểm sốt Chính phủ”, “hễ Chính phủ nào có hại cho dân chúng
thì dân chúng phải lật đổ Chính phủ ấy đi và gây nên Chính phủ khác” [21, 321]. Hồ Chí
Minh rất khâm phục ý chí giành độc lâp, tự do của nhân dân Mỹ, khâm phục những tư
tưởng vĩ đại của Oasinhtơn, Jepphesơn, Lincôn. Nhưng, Người cũng phát hiện những
mâu thuẫn đằng sau những từ ngữ hoa mỹ về tự do, bình đẳng là sự bất bình đẳng, nghèo
đói của hàng triệu người lao động, là điều kiện sống khủng khiếp của người da đen, là
nạn nhân phân biệt chủng tộc ghê gớm.
Những tư tưởng đạo đức ở thời Phục hưng của thế kỷ Khai sáng như: chủ nghĩa
nhân văn, tư tưởng tự do, tư tưởng bình đẳng của các đại văn hịa nổi tiếng như Vơnte,
Điđơrơ, Rútxơ và Mơngtexkiơ, đặc biệt là Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền


19

của Nhà nước Pháp đã để lại cho Hồ Chí Minh những ấn tượng khá sâu sắc. Bởi thế,
Người đã tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo những tư tưởng đạo đức tiến bộ đó
phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Song, Người cũng không quên chỉ ra những
hạn chế của nó. Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Người nhận xét về cách mạng Mỹ:
“Tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng cơng vẫn cực khổ, vẫn cứ
lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách
mệnh tư bản là cách mệnh chưa đến nơi”[17, 270]. Về cách mệnh Pháp, Người cũng chỉ
rõ: “Cách mệnh Pháp cũng nhưng cách mệnh Mỹ nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh
không đến nơi, tiếng là Cộng hịa và Dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng,
ngồi thì nó áp bức thuộc địa” [17, 274]. Do đó, Hồ Chí Minh căn dặn: “Cách mạng An
Nam nên nhớ những điều ấy” [17, 274].

Ngoài ra, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng còn bắt nguồn từ sự tiếp thu
tư tưởng “nhân ái” cao cả của Đức Chúa Giêsu, với nội dung cốt lõi là dạy cho con người có
lịng bác ái, yêu thương người khác như yêu thương chính bản thân mình, phải thật sự cơng
bằng trong đối xử giữa những con người với nhau. Hồ Chí Minh viết: “Đức Giêsu đã nói ta
phải mến các kẻ thù của chúng ta” [16, 272] và kêu gọi “phải thực hành bác ái” [16, 644].
Với tinh thần ấy, Hồ Chí Minh cho rằng: Trước lịng bác ái thì máu người Pháp hay máu
người Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người. Do đó, theo
“theo tinh thần cao thượng của Đức Chúa Giêsu [16, 121] thì “đồng bào ta cả lương cả giáo
cũng vì tự do, hạnh phúc cho toàn dân mà hy sinh chiến đấu [19, 30]. Nói cách khác, “yêu
chúa”, “phụng sự Thượng đế” và “yêu nước”, “phụng sự Tổ quốc” là một, bởi tất cả đều
hướng tới mục đích tự do và hạnh phúc của con người.
Cùng với quan điểm “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”, Hồ Chí Minh đón nhận Chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn “Dân tộc – độc lập, Dân quyền – tự do, Dân sinh –
hạnh phúc” để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người cho rằng: “Chủ
nghĩa Tôn Dật Tiên là người cha của cách mạng Trung Quốc, người đứng đầu chính phủ
Quảng Châu, thì ln trung thành với nguyên lý của mình, ngay cả trong những lúc khó
khăn nhất. Cương lĩnh của Đảng ơng – Quốc dân đảng – là một cương lĩnh cải cách.
Cương lĩnh đó gồm những điều khoản chống đế quốc và chống quân phiệt một cách rõ


20

rệt. Đây đó lớn tiếng tun bố đồn kết với các dân tộc bị áp bức” [16, 319]. Từ những
tư tưởng đạo đức tiến bộ của Chủ nghĩa Tam dân và chính sách thân Nga, liên cộng, phù
trợ cơng nơng của Tơn Trung Sơn, Hồ Chí Minh đã vận dụng vào cách mạng Việt Nam
để giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Mặt khác, Chủ nghĩa Tam dân của Tơn
Trung Sơn cũng có nhược điểm, nó cơ bản vẫn là tư tưởng dân chủ tư sản, nằm trong hệ
thống đạo đức tư tương tư sản nên còn nhiều hạn chế và Hồ Chí Minh đã thấy những hạn
chế đó. Cho nên, khi cụ Phan Bội Châu định chuyển Việt Nam Quang Phục Hội thành
Việt Nam Quốc Đan Đảng theo Cương lĩnh của Tơn Trung Sơn thì Người đã có những

lời khun chân tình là khơng thể dừng lại ở những chủ trương của Quốc Dân Đảng
Trung Quốc. Hơn nữa, khi vận dụng chính sách mà Hồ Chí Minh cho là thích hợp với
Việt Nam như khẩu hiệu “Dân tộc – độc lập, Dân quyền – tự do, Dân sinh – hạnh phúc”
rút ra từ Chủ nghĩa Tam dân và tư tưởng “tự do – bình đẳng – bác ái” của cách mạng tư
sản Pháp thành tiêu ngữ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dưới ánh sáng chủ nghĩa
Mác – Lênin, Người đã phát triển khái niệm “độc lập – tự do – hạnh phúc” lên một trình
độ mới mang tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính cách mạng triệt để, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Các nguyên lý đạo đức cộng sản của Chủ nghĩa Mác – Lênin

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được nâng lên một bước phát triển
về chất khi Người tiếp thu các nguyên lý đạo đức của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX như một tất yếu của lịch
sử, do điều kiện kinh tế - xã hội quy định, đồng thời kế thừa và phát triển những thành
tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại nhằm giải đáp về lý luận những vấn đề của thời đại
đặt ra. Chủ nghĩa Mác tiếp tục được V.I. Lênin kế thừa, bổ sung và phát triển trong giai
đoạn lịch sử mới.
C. Mác và Ph. Ăngghen vừa là nhà khoa học, vừa là những chiến sĩ cách mạng
kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Các ông nhận thấy những giá
trị đạo đức của giai cấp vô sản dưới chủ nghĩa tư bản sẽ hình thành nên đạo đức của xã
hội tương lai, đó là đạo đức cộng sản, một kiểu đạo đức mang tính nhân văn, nhân đạo


21

nhất trong lịch sử phát triển của nhân loại. Đứng vững trên lập trường duy vật và phương
pháp biện chứng, C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa những hạt nhân hợp lý trong đạo
đức tiến bộ của nhân loại và bổ sung, phát triển nhiều nội dung mới để tiến hành một

cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng về đạo đức. Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản”, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ: Sự sản xuất ra đời sống tinh thần ln biến đổi theo
q trình sản xuất vật chất; những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là
những tư tưởng của giai cấp thống trị. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, tư tưởng
đạo đức thống trị chính là tư tưởng đạo đức của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, cùng với
sự vận động, phát triển của xã hội, địa vị chủ đạo của các giai cấp cũng luôn biến đổi.
Theo đó, đạo đức xã hội khơng phải là cái bất biến, mà thường biến đổi theo tồn tại xã
hội. C. Mác và Ph. Ăngghen còn chỉ rõ cơ sở hình thành đạo đức là nền tảng kinh tế-xã
hội, gắn liền với quá trình giáo dục, rèn luyện đạo đức và hoạt động thực tiễn của con
người. Nền tảng đó đóng vai trị to lớn đối với sự hình thành, phát triển của đạo đức mới
- đạo đức cộng sản. Theo Ph. Ăngghen, “nếu như lợi ích đúng đắn là ngun tắc của tồn
bộ đạo đức, thì do đó, cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với
lợi ích của tồn thể lồi người”. Những giá trị tốt đẹp đó chỉ có thể được phát triển đầy
đủ trong xã hội cộng sản chủ nghĩa.
C. Mác và Ph. Ăngghen nhận thấy vị trí, vai trị to lớn của đạo đức nói chung và
đạo đức cộng sản trong tiến trình phát triển của xã hội. Trong nhiều tác phẩm kinh điển,
các ông đã phân tích sâu sắc các luận đề: đạo đức phản ánh mối quan hệ giữa người và
người; sự phong phú trong quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng xã hội tạo điều kiện để
phát triển đời sống tinh thần - đạo đức của mỗi cá nhân; sự rèn luyện đạo đức trong lao
động sản xuất có kỷ luật, kỹ thuật và tự giác. Trong giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo
đức, nhân cách của người cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh đến vấn
đề giáo dục, rèn luyện đạo đức cho thế hệ trẻ, bởi nó có ý nghĩa quyết định đến tương lai
của mỗi dân tộc và của tồn nhân loại. Theo các ơng, trong giáo dục nói chung cũng như
giáo dục đạo đức, cần có sự kết hợp giữa 03 loại giáo dục: giáo dục trí óc, giáo dục thể
dục và giáo dục kỹ thuật. Việc kết hợp giữa lao động sản xuất được trả công với các loại


22

giáo dục trí óc, thể dục và kỹ thuật sẽ nhanh chóng nâng trình độ nói chung của giai cấp

cơng nhân lên cao hơn trình độ nói chung của các giai cấp trong xã hội.
C. Mác và Ph. Ăngghen nhấn mạnh: Trong xã hội có giai cấp, đạo đức trước hết
phản ánh và bảo vệ lợi ích, địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội đó. Khi đạo đức
đứng ra bảo vệ lợi ích của các giai cấp tiến bộ, cách mạng, thì đạo đức đó đóng vai trò
thúc đẩy xã hội phát triển. Trong xã hội tư bản, chủ nghĩa cá nhân tư sản là nguyên tắc
cơ bản của đạo đức tư sản. Trong buổi bình minh của xã hội tư bản, chủ nghĩa cá nhân tư
sản đóng một vai trị tích cực. Dưới khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng
tư sản, động lực lợi ích của chủ nghĩa cá nhân tư sản đã chiến thắng những quan hệ đẳng
cấp chật hẹp của chế độ phong kiến. Nhưng cũng chính sự phát triển phiến diện của chủ
nghĩa tư bản đã đẩy chủ nghĩa cá nhân tư sản đến đỉnh điểm của nó. Ngồi mặt tích cực
là thúc đẩy sản xuất phát triển, giai cấp tư sản đã để lại cho xã hội không ít những hậu
quả tiêu cực: vấn đề công lý và nền đạo đức trong xã hội không được bảo đảm bình
thường, con người trở nên ích kỷ, đạo lý trong xã hội ngày càng suy đồi. Sự bình đẳng
chỉ mang tính chất hình thức chứ khơng được thực hiện trong thực tế cuộc sống.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ vị trí, vai trị của đạo đức trong mối quan hệ với
chính trị. Theo đó, từ khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp, đạo đức chủ đạo trong xã
hội luôn luôn là đạo đức của giai cấp thống trị xã hội. Đạo đức từ chỗ là sự biểu hiện
những lợi ích cơ bản của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội đã trở thành đại biểu
cho lợi ích giai cấp, trước hết là lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Mặc dù phản ánh
đời sống xã hội dưới các hình thức khác nhau nhưng đạo đức và chính trị đều biểu hiện
lợi ích kinh tế của một giai cấp nhất định và phục vụ mục đích của nó. Khi đó, ý thức
đạo đức được thấm sâu vào ý thức chính trị, biến đổi dưới ảnh hưởng của ý thức chính trị
và làm cho ý thức chính trị được hiện thực hóa bởi hành động tự nguyện, tự giác của mỗi
người. Đạo đức với vai trò của một quan hệ tinh thần sâu sắc luôn tồn tại xuyên suốt và
điều tiết tất cả các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ chính trị. Mặc dù ý thức chính trị
ln giữ vai trị chi phối tính chất và định hướng hoạt động của ý thức đạo đức, nhưng
điều đó khơng làm thay đổi hồn tồn bản chất đích thực của đạo đức - với tư cách là
một trong những yếu tố tạo nên nền tảng tinh thần của xã hội. Ý thức chính trị luôn duy



23

trì mối quan hệ mật thiết với ý thức đạo đức, thậm chí có lúc muốn đồng nhất tiêu chí,
chuẩn mực đạo đức của cơng dân với tiêu chí, phẩm chất chính trị của cơng dân. Chính
trị, do đặc tính của mình, ln giữ vai trị là một mặt, một phần của đời sống xã hội công
dân. Muốn trở thành ý thức thống trị và mang tính phổ biến trong xã hội, ý thức chính trị
khơng thể xuất phát từ chủ nghĩa vị kỷ, độc đoán của một giai cấp, mà phải hàm chứa
trong nó những giá trị nhân văn, những giá trị đạo đức.
Đứng trên thế giới quan và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen đã có những tư tưởng
sâu sắc về đạo đức xã hội. Trong các tác phẩm của mình, các ông đã lên án chế độ tư bản
bởi sự bóc lột giá trị thặng dư, làm tha hóa con người và lấy đồng tiền làm chuẩn mực.
Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tập trung những tư liệu sản xuất
cơ bản của xã hội vào trong tay các nhà tư bản (chiếm số ít trong xã hội) và làm cho
tuyệt đại đa số người lao động trở thành những người vô sản. Nhu cầu sinh tồn đã buộc
những con người khơng có tư liệu sản xuất này tự nguyện một cách cưỡng bức đến với
các nhà tư bản và họ trở thành những người làm thuê cho nhà tư bản. Từ đây, quá trình
người bóc lột người, q trình lao động bị tha hóa diễn ra. Trước tình hình đó, C. Mác và
Ph. Ăngghen đã chủ trương thực hiện một cuộc cách mạng lĩnh vực đạo đức, xây dựng
một kiểu đạo đức hoàn toàn mới so với đạo đức của các giai cấp bóc lột. Đó là kiểu đạo
đức tiêu biểu cho sự nổi dậy chống lại sự thống trị, thoát khỏi sự tha hóa con người, đạt
tới sự giải phóng và phát triển tồn diện của con người. Ph. Ăngghen nói: “Tất cả thứ
đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ đạo đức hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của
tương lai, tức là đạo đức vô sản – là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân
tố hứa hẹn một sự lâu dài” [15, 136].
Khi chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì các hình thức bóc
lột của chủ nghĩa tư bản có những biểu hiện tàn ác và tinh vi hơn. Từ đó, V.I. Lênin có
những tác phẩm lý luận về chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân. Đồng thời, trên cơ
sở kế thừa các quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về đạo đức, V.I.Lênin cũng đã
đưa ra một kiểu “đạo đức mới”, đạo đức của giai cấp cơng nhân và hồn tồn đối lập với

kiểu đạo đức của các giai cấp bóc lột. V.I. Lênin viết: “Chúng ta nói rằng đạo đức của


24

chúng ta hồn tồn phụ thuộc vào lợi ích đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Đạo đức
của chúng ta là từ những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra…
Cuộc đấu tranh giai cấp còn tiếp tục và nhiệm vụ của chúng ta làm cho tất cả mọi lợi ích
phải phục tùng cuộc đấu tranh này. Do đó, đạo đức cộng sản của chúng ta cũng phải
phục tùng nhiệm vụ này” [13, 367].
V.I. Lênin đã kế thừa xuất sắc và vận dụng sáng tạo, phát triển toàn diện các quan
điểm, tư tưởng của đạo đức học mác-xít nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
nền đạo đức mới, nền văn hóa mới, con người mới trong chế độ mới xã hội chủ nghĩa.
V.I. Lênin từng chỉrõ: Phải xây dựng đảng cầm quyền thật sự là một đảng tiêu biểu cho
“trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”. Bằng thiên tài sáng tạo của một lãnh tụ của
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động tồn thế giới, V.I. Lênin đã khởi thảo nhiều
nguyên lý của đạo đức nói chung và đạo đức cộng sản nói riêng. Qua đó, đưa đạo đức
học mác-xít phát triển lên một tầm cao mới - sự thống nhất, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận
đạo đức với thực tiễn đạo đức; sự thống nhất, gắn kết đó cịn được thể hiện một cách sinh
động bằng chính tư tưởng và tấm gương đạo đức mẫu mực của V.I. Lênin.
Đặc biệt, từ khi thực hiện Chính sách Kinh tế mới (NEP), V.I. Lênin đã đề cập
đến một số chuẩn mực đạo đức cơ bản trong giai đoạn cách mạng mới, đó là sự trung
thành với lý tưởng, với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, với hạnh phúc của con
người, lên án thói kiêu ngạo cộng sản, chống các tệ nạn quan liêu và tham ô. V.I. Lênin
cũng cho rằng, cái gì phục vụ cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản thì cái ấy là đạo đức.
Cơ sở nền tảng của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cơ và hồn thành cơng
cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Nền đạo đức cộng sản ấy đối lập với chủ nghĩa vị kỷ
của đạo đức tư sản và ông xác định những nguyên tắc của đạo đức mới đó là: chủ nghĩa
tập thể với phương châm mình vì mọi người và mọi người vì mình; lao động tự giác và
sáng tạo; chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cao cả…

V.I. Lênin cho rằng, người cộng sản có đạo đức trước hết phải là người có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ tri thức ngày càng cao và có năng lực hành động
đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Để tiến


×