Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của cầu Ngói Nam Đinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.76 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP

TRẦN VĂN ANH

NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC VÀ ĐIÊU KHẮC CẦU NGÓI,
CHÙA LƯƠNG - NAM ĐỊNH
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ MỸ THUẬT ỨNG DỤNG
MÃ SỐ: 60 21 04 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ
LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ MỸ THUẬT ỨNG DỤNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS PHẠM LAN OANH

Hà Nội, 2015


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Tình hình nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của đề tài
7. Bố cục của luận văn
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ DI TÍCH CẦU
NGĨI, CHÙA LƯƠNG
1.1. Lịch sử vùng đất hải anh


1.2. Vài nét về di tích cầu ngói, chùa Lương
1.2.1. Di tích cầu Ngói
1.2.2. Di tích chùa Lương
1.3. KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ KIẾN TRÚC, ĐIÊU KHẮC CHÙA VÀ CẦU VIỆT
NAM
Tiểu kết.
CHƯƠNG 2: KIẾN TRÚC, ĐIÊU KHẮC CẦU NGÓI, CHÙA LƯƠNG
2.1. Kiến trúc cầu ngói, chùa Lương
2.1.1. Kiến trúc cầu Ngói
2.1.2. Kiến trúc chùa Lương
2.2. Điêu khắc cầu ngói, chùa Lương
2.2.1. Tượng trịn
2.2.2. Đồ thờ.
2.2.3. Điêu khắc trang trí trên kiến trúc.
2.3. Một số biểu tượng của chùa Lương
2.3.1. Bia đá
2.3.2. Trụ thờ bằng đá


2.3.3. Giếng đá Tiểu kết.
CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA CẦU NGÓI, CHÙA LƯƠNG TRONG
CUỘC SỐNG ĐƯƠNG ĐẠI.
3.1. Giá trị nghệ thuật của di tích cầu ngói
3.2. Giá trị nghệ thuật của chùa Lương.
3.2.1. Giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật kiến trúc cảnh quan thiên nhiên. .
3.2.2. Giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật điêu khắc.
3.3. Bảo tồn và phát huy giá trị di tích cầu ngói, chùa lương
Tiểu kết.
C. PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC.


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hải Hậu là một huyện giàu truyền thống văn hóa thuộc tỉnh Nam Định. Trong khối
di sản văn hóa vật thể tiêu biểu của huyện Hải Hậu, cầu Ngói, chùa Lương là cụm di tích
lịch sử với kiểu kiến trúc độc đáo, nghệ thuật điêu khắc đặc sắc, điêu luyện. Cầu Ngói,
chùa Lương nằm trên đất Quần Anh xưa kia, được xây dựng vào đầu thế kỷ XVI.
Chùa Lương (hay còn gọi là chùa trăm gian) tên chữ là Phúc Lâm Tự được xây
dựng vào đời vua Lê Hồng Thuận (1509 - 1515), khi việc quai đê lấn biển đã giành nhiều
kết quả. Đời sống vật chất của dân cư dần dần ổn định, bốn vị thủy tổ cùng các dòng họ
tại đây đã dồn sức chăm lo đời sống tinh thần và cùng xây dựng đền, chùa, bắc cầu, mở
chợ.
Chùa Lương lúc đầu có quy mơ nhỏ đã trải qua nhiều lần trùng tu, mở rộng. Hàng chữ
trên thượng lương còn tìm thấy được ghi “Dương Hồ ngun niên” (1634), bia khắc năm
Chính Hồ thứ ba (1682), bia Chính Hồ năm thứ năm (1684) cho biết có việc tu sửa
chùa, dựng hai dãy hành lang Đông, Tây, làm đồ thờ tự bằng đá... Các bia có niên hiệu
Vĩnh Thịnh, Vĩnh Khánh, Cảnh Thịnh lại nói đến việc làm thượng điện, tiền đường, tam
quan, nội các và tượng Tam Thế. Sang thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chùa vẫn tiếp tục được
tu sửa. Chùa là một bảo tàng nghệ thuật kiến trúc điêu khắc cổ. Nổi bật hơn cả là tiền
đường năm gian bảo lưu kiến trúc thời hậu Lê. Công trình khơng vươn theo trục dọc
(chiều cao) mà phát triển theo trục ngang (chiều rộng) nên có dáng thấp với mái ngói uốn
cong mềm mại. Kiến trúc thực hiện theo kiểu: bẩy, kẻ, trụ non, câu đầu - là kiến trúc tiêu
biểu của thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII.
Tổng thể kiến trúc chùa Lương, đặc biệt ở khu vực gian giữa tiền đường, Phật điện
đã thể hiện trình độ điêu luyện, khiếu thẩm mỹ tinh tế của những nghệ nhân dân gian. Tài
nghệ ấy biểu lộ trên nhiều khía cạnh. Đó là việc tạo nên bộ khung của các hạng mục cơng
trình, đảm bảo sự chắc chắn, độ bền vững qua nhiều thế kỷ mà vẫn nhẹ nhàng thanh thoát.
Nghệ thuật điêu khắc chùa Lương rất đặc sắc. Trên các thành phần kiến trúc, nhất là các

vì của tịa tiền đường tập trung chạm khắc hình tượng rồng với nhiều tư thế: rồng chầu


mặt nguyệt, rồng cuốn thuỷ, rồng vuốt râu, rồng ngậm ngọc, rồng bay, rồng cùng ngựa
chim cá vui đùa, trúc hóa long. Nổi bật là hình ảnh “hổ phù” oai phong, đẹp đẽ.
Cầu Ngói bắc qua sơng Trung Giang, cách chùa Lương hơn 100m. Cầu có 9 gian
uốn cong tựa cầu vồng trên 18 trụ đá vững chãi. Cầu nằm trên con đường dẫn vào chùa,
tạo thành một cụm di tích. Cùng niên đại xây dựng với chùa Lương, nên cầu Ngói thường
được gọi là cầu Ngói chùa Lương. Đất Quần Anh khi xưa có mười giáp, từ giáp nhất đến
giáp chín chỉ dựng cầu bằng đá, kiến trúc đơn giản, mục đích là để đi lại thuận tiện. Riêng
giáp mười thì dựng cầu Ngói - khơng chỉ phục vụ giao thơng mà đây thực sự là cơng trình
nghệ thuật đặc sắc nổi tiếng của trấn Sơn Nam Hạ xưa. Cầu Ngói có bố cục chặt chẽ, gia
cơng tỉ mỉ, từ nề đến mộc đều đạt tới trình độ điêu luyện. Bộ khung cầu vừa chắc chắn lại
vừa mềm mại, uốn lượn như con rồng đang vươn mình bay lên. Cầu vừa là nơi đi lại, vừa
là nơi để khách bộ hành dừng chân nghỉ ngơi ngắm cảnh quan sông nước.
Di tích cầu Ngói, chùa Lương có những giá trị hết sức độc đáo cần được nghiên
cứu cụ thể. Đặt vấn đề nghiên cứu Nghệ thuật kiến trúc và điều khắc cầu Ngói, chùa
Lương - Nam Định, học viên là người con của quê hương Hải Hậu mong ước tìm hiểu các
giá trị nghệ thuật trong kiến trúc, trong điêu khắc gắn liền với khơng gian tơn giáo tín
ngưỡng của người xưa để lại nhằm hiểu rõ hơn giá trị của cụm di tích dưới góc độ nghệ
thuật học, từ đó khẳng định rõ thêm giá trị đặc sắc của cụm di sản văn hóa này, đồng thời
ước mong góp phần bé nhỏ cho việc giữ gìn và phát huy giá trị di sản quê hương trong
cuộc sống hôm nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ lâu việc nghiên cứu về chùa Việt luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của các học
giả nghiên cứu về văn hoá cả trong và ngồi nước. Rất nhiều cơng trình nghiên cứu về
Phật giáo đã đề cập hoặc nhiều, hoặc ít đến kiến trúc và điêu khắc của những ngơi chùa
Việt nói chung và ngơi chùa cụ thể nói riêng. Tuy nhiên, ngơi chùa Lương tại xã Hải Anh,
huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định thì chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều.
Dưới góc độ khảo từ thư tịch cổ, chúng tơi được biết: Chùa Phúc Lâm ở xã Quần Phương

thượng tổng Quần Phương, truyền rằng do người Bắc quốc dựng nên. Trước sau phải trái
chính giữa có 5 tồ. Ban đầu thờ Nam Hải Quan Âm Bồ Tát vào thời Lê mạt có nhiều
quan lại Thăng Long khi tuần thú, văn thân nhàn tản tới ngoạn cảnh. Ơng Hồng giáp


triều Nguyễn quê ở Tam Đăng tên là Phạm Nghị đã có cơng tu sửa chùa này [49, tr 149].
Cùng với chùa Lương, ngơi cầu ngói nằm trong trong cụm di tích Cầu Ngói, chùa Lương
cũng trong tình trạng tư liệu khá hiếm hoi. Bên cạnh những bài viết chung về cây cầu tại
phần viết về cầu đường và mạng lưới giao thông được xây mới qua tư liệu văn bia dưới
thời nhà Mạc [43, tr 215] thì viết riêng về cầu Ngói xuất hiện tại cuốn Tân biên Nam Định
tỉnh địa dư chí lược của tác giả Khiếu Năng Tĩnh viết cuối thế kỷ XIX. Nội dung cơng
trình gồm tập thượng và tập hạ, trong đó, phần tập thượng nói về cầu gồm: Hải Hậu có 17
cầu gỗ: Quần Phương Thượng 2, Quần Phương Trung 3 (trước là cầu thượng gia bị tả đạo
đốt), Quần Phương Hạ 6, Kiên Trung 3, Hà Lạn 1, Hà Nam 1, Hội Nam 1. Cầu đá 46 cái:
Phương Thượng 4, Phương Trung 4, Phương Hạ 2, Phương Đệ 4 (trước các cầu này lẫn
gỗ, từ thời Minh Mệnh về sau toàn đá), Kiên Trung 3, Hà Lạn 4, Trà Trung 3, Thanh
Quang 3, An Lễ 4, An Trạch 2, An Nghiệp 3, Trà Hải Hạ 1, Hội Nam 1. Cầu gạch 6 cái:
Hải Nhuận 4, Hà Quang 1, Hà Lạn 1. Cầu ngói 1 cái: chợ Lương Quần Phương Thượng.
Cầu đá mới 6 cái : Phú Văn 5, Thanh Trà 1 [49, tr 22].
Nói về cầu xuất hiện trên tài liệu văn bia, cuốn Văn khắc Hán Nôm Việt Nam do
Viện nghiên cứu Hán Nôm tổ chức tuyển chọn và lược thuật đã liệt kê 42 bia, trong đó xứ
Nam có 6 cầu. Theo Văn bia thời Mạc cũng có 12 bia đề cập tới việc xây dựng hoặc sửa
chữa cầu. Tuy nhiên, cụ thể nói về Cầu Ngói tại xã Hải Anh thì chưa có dịng nào đề cập.
Nghiên cứu dưới góc độ văn hóa – mỹ thuật học, bài viết Cây cầu trong văn hóa Việt cổ
ghi rằng: “Được biết, gần đây cầu Ngói chợ Lương đã được kiến trúc sư Vũ Ngọc Danh
thiết kế tu bổ và xây dựng hoàn thành [52, tr 695].
Dưới góc độ văn hóa học, khóa luận tốt nghiệp ngành bảo tàng học Tìm hiểu giá trị
kiến trúc nghệ thuật di tích Chùa Lương – Cầu Ngói (xóm 3, xã Hải Anh, huyện Hải Hậu,
tỉnh Nam Định) [2] đã có những nghiên cứu khá sâu về giá trị của kiến trúc nghệ thuật
của cầu Ngói và chùa Lương. Tư liệu của khóa luận này là nguồn tư liệu quan trọng cho

chúng tôi tham khảo.
Bên cạnh những tư liệu thành văn nêu trên, chúng tơi cịn được tiếp xúc với Hồ sơ
di tích kiến trúc nghệ thuật và lịch sử xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, Hà Nam Ninh [25], Hồ
sơ di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật chùa Lương xã Hải Anh, Hải Hậu, Hà Nam Ninh
[26]. Tư liệu khảo sát điền dã, xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định [44], đây đều


là những tư liệu của Sở Văn hóa Thơng tin Nam Định (hiện nay là Sở Văn hóa Thể thao
và Du lịch).
Tại xã Hải Anh, lịch sử văn hóa làng được người dân địa phương tự biên soạn dưới
dạng các cơng trình địa phương chí và sáng tác thơ văn, bản dịch câu đối, hoành phi....
Khối tài liệu đáng quý này đều là bản chép tay được Ban quản lý di tích lịch sử văn hóa
xã Hải Anh và nhân dân lưu trữ, bao gồm: Cồn ấp Hải Hậu 1485-1977 [17], Quần Anh
tiểu sử [20], Truyện cũ làng Anh [63], Quần Anh địa chỉ [21], Phúc Lâm Tự (Chùa
Lương) [3]. Căn cứ vào những tư liệu nêu trên, tác giả luận văn nhận thấy khối tư liệu đã
có thật đáng trân trọng, tuy nhiên vì di tích cầu Ngói, chùa Lương chưa được tiếp cận thực
sự dưới góc độ nghệ thuật học nên rất cần được tiếp cận bằng góc nhìn khác.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn là làm sáng tỏ giá trị nghệ thuật kiến trúc và điêu
khắc của di tích cầu Ngói, chùa Lương tại xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Sau cùng, đề tài mong ước góp thêm tư liệu để làm cơ sở phát huy giá trị của di tích trong
cuộc sống hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chủ yếu về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cầu Ngói, chùa
Lương tại xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định gồm: cảnh quan kiến trúc, kết cấu
kiến trúc, nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc, bia ký, đồ thờ, linh vật...
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về không gian:
Tập trung khảo sát, mơ tả, phân tích, làm rõ các giá trị kiến trúc, điêu khắc ở cầu

Ngói, chùa Lương đặt trong nền cảnh bối cảnh không gian kiến trúc xưa và hiện nay.
4.2.2. Về thời gian:
Nghiên cứu các lớp văn hố, tìm kiếm dấu vết kiến trúc và điêu khắc thể hiện qua
kiến trúc, điêu khắc của cầu, chùa bao gồm kết cấu ván sàn, vì kèo, mái cầu, tiền đường,
tam bảo, gác chuông, hậu đường và hai dãy hành lang đông tây (tả vu hữu vu).v.v... từ
xưa tới nay.
5. Phương pháp nghiên cứu


Vận dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên
cứu quá trình hình thành và tồn tại của cầu Ngói, chùa Lương. Vận dụng phương pháp
liên ngành tổng hợp về lịch sử, kiến trúc, mỹ thuật để nghiên cứu các giá trị kiến trúc,
điêu khắc ở cầu Ngói, chùa Lương.
Vận dụng phương pháp phân tích văn bản (bia ký, văn tự cổ, tư liệu về cầu Ngói,
chùa Lương) nhằm làm đa dạng và phong phú các giá trị nghệ thuật của cầu Ngói, chùa
Lương.
Vận dụng phương pháp khảo sát thực địa, điền dã, ghi chép, phân tích, so sánh,
miêu tả... nhằm tăng thêm giá trị chân thực lịch sử trong luận văn.
6. Đóng góp của đề tài
Luận văn đưa ra được cái nhìn tổng thể, đầy đủ về giá trị nghệ thuật kiến trúc, điêu
khắc của cầu Ngói, chùa Lương để khẳng định đây là những cơng trình độc đáo, đặc sắc
tại Nam Định.
Trên cơ sở những giá trị đặc biệt, quý hiếm của cầu Ngói, chùa Lương, luận văn đề
xuất các giải pháp khả thi nhất phục vụ công tác bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật của
di tích trong hoạt động phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội của huyện Hải Hậu và tỉnh
Nam Định.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu (6 trang), phụ lục (16 trang), tài liệu tham khảo (4 trang), kết
luận (3 trang), luận văn chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về địa bàn nghiên cứu và di tích cầu Ngói, chùa Lương (19 trang).

Chương 2: Kiến trúc, điêu khắc cầu Ngói, chùa Lương (34 trang).
Chương 3: Giá trị nghệ thuật của cầu Ngói, chùa Lương trong cuộc sống đương đại (29
trang).


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ CẦU NGÓI, CHÙA LƯƠNG
1.1. Lịch sử vùng đất Hải Anh
Quang cảnh vùng cửa sông ra biển gọi là lạch Lác nằm phía Nam huyện Chân
Ninh vào giữa thế kỷ XV thật hoang sơ, thoáng rộng. Là vùng giáp nước nên có nhiều
thủy hải sản sinh sơi phồn tạp. Những người làm nghề đánh bắt thủy hải sản các nơi khác
đã sớm có mặt tại đây để khai thác nguồn lợi trù phú do thiên nhiên ban tặng, trong đó có
Trần Vu. Ơng theo dõi sự biến động của bãi đất mới bồi và dự đoán tương lai sẽ có các
cồn bãi kế tiếp nổi lên và vùng đất này có thể biến thành đồng ruộng.
Cuộc kháng chiến tự vệ chống giặc Minh xâm lược do Bình Định Vương Lê Lợi
lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang, nhưng đất nước bị giặc ngoại xâm tàn phá ghê gớm, nền
kinh tế và sức sản xuất bị đình trệ. Để cứu phục hồi và phát triển sản xuất, nhà Lê đã ban
hành điều luật 349, đặt ra nhiệm vụ khai thác hết điện tích canh tác. Từ năm 1481 nhà
nước đã xác định việc thiết lập các đồn điền ven biển nhằm kích thích sức sản xuất nơng
nghiệp. Chính quyền phong kiến cũng chú ý nhiều đến công việc đắp đê, đào sông để cải
tạo đất, bảo vệ thành quả lao động và tiện việc giao thông, thủy lợi.
Vùng biển cả mênh mơng ở đây mới lống thống có ít cồn cát, ở phía Nam sơng
Cường Giang:
Đơng cồn Quay cồn Bẹ
Tây núi Lẹ, Thần Phù. [26, tr 4]
Quá trình khai khẩn, sáng lập đất Quần Anh (1470-1511) trước hết phải nói tới lực
lượng khai khẩn và những người có cơng tổ chức cơng cuộc trọng đại này. Đó là ơng tổ
họ Trần húy là Vu, tên thụy là Phúc Đức. Bia kí: Quần Anh thủy tổ Trần cơng mộ do
Khổng Lộ tự khanh Nam Định đinh điền Phó sứ Đỗ Tơng Phát soạn năm Tự Đức thứ 26

(1873) ghi: “Tiền nhân được phẩm tước, hưởng thái ấp tự triều Trần, tương truyền tiên
thế vẫn coi giữ lăng tẩm, nhân vì biến thiên, con cháu mới di cư về đất thang mộc ở
Tương Đông” [26, tr 5].


Trần Vu cùng nội tộc làm nghề chài lưới, am hiểu vùng biển, đã khéo hợp sức với
ông tổ họ Vũ là người cùng làng. Tổ tích bi kí có ghi: “Hồng thủy tổ, phó ba đại tướng
qn. Vũ đại lang, tự là Chính Tâm...Thời Lê Hồng Thuận đây là nơi bãi xa bồi ước hai
vạn mẫu, tổ ta cùng ba tổ Trần, Hoàng, Phạm đến mưu khẩn tịch...” [26, tr 5].
Cùng với Trần Vu, Vũ Chi cịn có thủy tổ họ Hồng là người có phẩm tước, có học
vấn, đã giúp cho vùng quê mới có nề nếp văn học, có kỷ cương lễ nghĩa.
Phạm Cập cũng là người khai sáng, đã cùng ba họ Trần, Vũ, Hoàng vượt mọi gian
lao dựng lập điền địa, quê hương. Sắc Khải Định cửu niên ở đến thờ tứ tổ, còn ghi: “Nam
Định tỉnh, Quần Phương tổng, đồng tổng phụng sự khai sáng chính trực Phạm Cập đại
lang....” [26, tr 5].
Lực lượng khẩn điền, lấn biển do 4 họ Trần, Vũ, Hoàng, Phạm đã dựa vào vùng
xối nước ở xã Hương Cát huyện Chân Ninh làm cơ sở đi về, ngày ngày góp sức, góp của
cho sự sinh tồn mai sau:
Họ Trần khai cơ
Làng cụ Phúc Đức
Cùng Vũ, Hồng, Phạm
Góp của góp sức [26, tr 6]
Tứ tổ khai sáng, lại quy tụ thêm 9 dịng họ, cùng góp cơng cho cuộc lấn biển. Tác
phẩm Quần Anh tiểu sử có đoạn ghi:
Góp tài góp trí góp cơng
Lại, Nguyễn hợp đồng Lê, Đỗ, Bùi, Phan...
Tiếp theo Trần, Vũ Chi, Đoàn
Chin họ hoàn toàn nhất trí chủ trương. [26, tr 6]
Như vậy là lực lượng khẩn hoang ngồi 4 họ ban đầu cịn có 9 họ từ Tương Đông
kế tiếp xuống bãi biển đầy xú vẹt, cỏ lác, vừa đánh cá, làm muối vừa cải tạo mặt bằng

đồng ruộng. Lại đắp đê để ngăn mặn, đảm bảo cho an tồn trồng cấy.
Bia kí mộ họ Trần ở phía Đơng chùa Lương ghi rõ: “Tổ ta cùng các tổ Vũ, Hồng,
Phạm chống nước triều, ngăn sóng bể, cải tạo đất mặn, vét khu bùn lầy, đắp đê dài, đào
ngòi sâu. Đắp mốc, sửa bờ, dựng điền, bờ vùng, bờ thửa, ruộng thấp, ruộng cao dựa theo
khuân mẫu “tỉnh điền”. Khoảng mười mấy năm trở thành đất đẹp...” [44].


Quần Ảnh thôn ước điền thổ ghi: “Cồn ấp là mối lợi cấy gặt, cá muối, những
người nghe thấy đến ngày một đơng” [26, tr 7].
Từ tình hình thực tế mở mang của cồn ấp, sự lớn mạnh về dân số, về phát triển thổ
canh, thổ cư... nhân dân ở đây đã đổi Cồn ấp thành Quần Cường ấp cho hợp với thực tiễn,
quy tụ được rộng rãi, thành sức mạnh to lớn, xây dựng vùng quê hương mới phồn thịnh.
Cơng lao của tứ tổ khai sáng Quần Anh, ngồi việc khẩn hoang lập làng, dựng kỉ
cương... cho vùng quê biển cịn tổ chức đóng góp với triều Lê Hồng Đức, tổ chức đắp đê
biển, từ Quảng Yên, qua Hải Dương, Nam Định đến Ninh Bình, Thanh Hóa để ngăn nước
mặn.
Đê Hồng Đức hoàn thành (1485 - 1497) đồng đất Quần Cường, thêm phì nhiêu trù
phú. Làng quê thiết lập thành 10 giáp, từ giáp nhất, giáp nhì đến giáp thập mỗi giáp có
một dong, mỗi dong bắc một cầu qua sông giữa. Riêng cầu giáp Thập là nơi đô hội, gần
chùa Lương, gần đình Phong Lạc, gần chợ...nên làm kiểu “thượng gia hạ kiều”. Cầu giáp
3, cầu giáp 6 bắc rộng hơn cịn phịng khi làng có việc. thuộc Cát Giả. Họ phạm ở Phạm
Pháo, nay thuộc xã Hải Minh. Họ Vũ, Trần, Hoàng ở Hải Anh, Hải Trung.
Đồng ruộng được phân chia từng xứ, từng đỗi ngang, đỗi dọc, có cả nơi dành riêng
để ni cỏ làm thức ăn cho trâu, bò.
Mạng lưới thủy lợi được tổ chức chu đáo theo thế “tỉnh điền”, tạo sông dọc để đưa
nước ngọt từ sông Ninh Cơ vào, lại xẻ thêm sông ngang để dẫn nước vào các đỗi, khá
thuận tiện cho việc tưới cũng như tiêu úng.
Để tiện việc canh tác, ở đây còn lập các quán giữa đồng để cất giữ phương tiện,
nghỉ ngơi, tránh mưa, tránh nắng... như quán Kim Lăng nay thuộc khu Nhất Trùng xã Hải
Trung. Qn Trâu nay thuộc khu Hồnh Đồn xã Hải Anh.

Đình để tiện họp
Quán để tiện canh
Đồng đặt tên xứ
Sông đặt tên Hồnh [21, tr 9].
Thành quả của cơng cuộc khẩn hoang, lấn biển khẩn điền, dựng lập quê hương,
nhiều bia kí ở chùa Lương, ở từ đường, đền thờ tứ tổ, mộ tổ đã ghi nhận khá súc tích.
Nhóm bia vng tạc từ thời Hồng Thuận, ghi hình tượng các tổ khai sinh, có hình ảnh


người ngồi dạng chân như thêm sự vững chắc, hai tay nâng vầng mặt trời (Lưỡng thủ
phùng nhật). Kiểu ngồi Nữ Oa đội đá vá trời này là thủy tổ Trần Vu, người khởi xướng
công cuộc lấn biển. Mặt bên trái của bia vuông, hiện lưu ở bảo tàng Hải Hậu, có họa tiết
người chỉ tay phía trước và đi trên sông, tương truyền đây là tượng Vũ Chi, cụ thủy tổ
khai sáng, có cơng chỉ huy quai đê lấn biển. Mặt bên phải là hình ảnh người đeo kính
Tứ tổ khai sáng cùng 9 dòng họ đã quan tâm tổ chức các cơng trình, đáp ứng đời
sống tinh thần nhân dân như xây đền Hải thần thờ Tống Hậu, cho dân vững tâm làm ăn, ra
khơi đánh cá. Lập chùa Lương qui mô đẹp đẽ, vừa là nơi cho dân lễ Phật vừa là cảnh đẹp
danh thắng quê hương. Về sau, nhân dân xây đình Phong Lạc, ngay phía Đông chùa
Lương là nơi thờ tứ tổ khai sáng và các liệt tổ, người có cơng lao với làng xã, như: “Công
nghệ nghiệp sư liệt vị”.
Lập các chợ cho dân trao đổi hàng hóa như: chợ Lương, chợ Đình, chợ
Muối....Quần Anh địa chí ghi:
Có đền khấn vái
Có chùa Na mơ
Có cầu qua lại
Có chợ bán mua [21, tr 9].
Việc quy hoạch ruộng đồng, định đặt mốc giới cũng khá gian nan. Theo lệ, dòng
họ nào khai khẩn ở cồn nào thì ở cồn ấy, như họ Lê ở cồn Trăn nay mặc đai phục một tay
cầm bút, một tay cầm hoa. Tương truyền đây là cụ thủy tổ họ Hoàng, người có cơng dạy
dân chữ nghĩa trên vùng q mới [44].

Công cuộc khai hoang đã thu được nhiều thắng lợi. Khi phân xã làm Thượng,
Trung, Hạ, nhân dân đã ghi lại công lao của tiên tổ, và đây là một đoạn trong tấm bia tại
đền cổ xã Trung nay là xã Hải Trung ghi nhận:
Nhân thiên thời địa lợi, góp cơng góp của, trước lấy nước bể
làm muối sau thì đắp đê ngăn mặn, đào sông lấy nước ngọt, một
tổ mở đầu, hai tổ tiếp theo tìm ruộng mới chăm ruộng cũ ra
công chăm chỉ, trồng cấy nhiều năm được mùa, khởi công làm
ruộng mà người canh nông theo. Con cháu 4 họ ngày càng đông
đúc, các họ trước sau đến tiếp, trăm nhà xây dựng mọi nghề xây


dựng, từ đó xây giáp thơn dựng đền chùa. Ruộng nương điền
đỗi rõ ràng mơn mạch. Hàng chợ, cầu, đình, điền đỗi trước sau.
Thời vua Tương Dực, năm Hồng Thuận thứ 3, đổi tên là xã
Quần Anh (Trích văn bia) [44, tr 6].
Từ Quần Anh lập xã 1511 đến Quần Anh phân xã 1804. Tiên tổ Quần Anh khẩn
hoang tạo cuộc sống, mở mang làng xóm. Thành quả đó đã để lại cho các hệ nối tiếp tinh
thần liên tục tiến tới, làm cho quê hương đất nước giàu mạnh. Từ khu Ninh Cường – Cát
Giả nay là các xã Trực Phú, Trực Đại, Trực Cường, Trực Thái, Trực Thắng, đến khu
Quần Phương gồm các xã: Hải Anh, Hải Đường, Hải Trung, Hải Long, Hải Sơn, Hải Bắc,
Hải Phương, Hải Tân, thị trấn Cồn rồi khu Ninh Mỹ gồm các xã: Hải Phú, Hải Cường,
Hải Triều, Hải Thịnh là kết quả của q trình bước tiến ra phía biển của con người Quần
Anh khi xưa.
Nghề thủ công cổ truyền của người Quần Anh như nghề dệt vải được xuất hiện
sớm. Ngay từ khi đang còn là cồn ấp, ở đây đã giải quyết nhu cầu vải mặc cho nhân dân
“Nơi cao làm nhà cửa, chỗ thấp cấy dâu gai”. Nghề dệt phát triển song song với nghề
nông để giải quyết việc ăn, mặc là hiện tượng phổ biến trong làng xã ở Việt Nam. Nghề
dệt còn được phát triển rộng rãi trong vùng và trở thành ngành nghề nổi tiếng ở xứ Sơn
Nam Hạ và trong toàn quốc.
Ở đây hầu như nhà nhà đều trồng dâu, nhiều thì 3 đến 4 mẫu, ít thì vài ba sào. Bên

cạnh trồng dâu nghề nuôi tằm cũng phát triển. Các chợ được thành lập khá nhiều để mua
bán sản phẩm phục vụ cho sản xuất. Ngồi chợ Lương, chợ Đơng Biên, chợ Cồn Chàm,
chợ Cồn Cốc ở Tam Trùng, đặc biệt cịn có chợ Dâu ở cầu Ngói, chợ Lương, chợ Nâu
(bán nâu nhuộm vải) cũng ở gần đấy....
Quần Anh nổi tiếng từ xưa
Biển đình Phong Lạc, bia chùa Phúc Lâm
Khách về khách vẫn hỏi thăm
Nước chè cầu Ngói, tơ tằm chợ Lương [26, tr 11].
Bên cạnh nghề làm tơ, dệt vải bông thì nghề mộc ở đây phát triển khá sớm, truyền
thuyết nói nhiều về người cháu đời thứ 5 của cụ thủy tổ Trần Vu, là người thợ mộc tài
hoa. Ông đã truyền dạy cho người Quần Anh, nên nghề chạm mộc ở đây khá tinh xảo.


Quần Anh cịn có nhiều nghề thủ cơng cổ truyền khác như: nghề nhuộm, thêu, rèn, nghề
làm song mây.... Bên cạnh nghề mộc cịn có nghề nề, mà hàng loạt cơng trình tơn giáo
quy mơ, đều do người Quần Anh xây dựng, như cơng trình chùa Lương hàng trăm gian.
1.2. Vài nét về di tích cầu ngói, chùa Lương
1.2.1. Di tích cầu Ngói
1.2.1.1. Tên gọi và lịch sử hình thành
Cầu Ngói là loại cầu trên là nhà, dưới là cầu (thượng gia hạ kiều), thuộc loại kiến
trúc dân gian loại hình cơng trình kiến trúc nghệ thuật mang đậm nét giá trị lịch sử văn
hóa. Cầu có tên gọi là cầu Ngói chùa Lương hay cầu Ngói chợ Lương, vì cầu nằm gần
chùa Lương và chợ Lương.
Trên cuốn thư của hai đầu cầu đều có bốn chữ: Quần Phương xã kiều. Năm 1511,
thời vua Lê Tương Dực, niên hiệu Hồng Thuận tam niên gọi là Quần Anh nhưng đến năm
Đồng Khánh thứ hai, vì kiêng miếu hiệu của vua Tự Đức là Dực Anh nên đổi Quần Anh
thành Quần Phương. Vì vậy tên gọi Quần Phương xã có từ đây. “Kiều” là cầu, “Quần
Phương xã kiều” có nghĩa là cầu của xã Quần Phương [63, tr 14].
Cầu Ngói là một trong mười cầu liên quan đến lịch sử khẩn hoang cuối thế kỷ XV
của đất Quần Anh xưa. Để thuận tiện cho việc qua lại của bốn thôn mười giáp, các “Tứ

tính, Cửu tộc” đã cho xây dựng mười chiếc cầu tương ứng với mười giáp. Qua tài liệu
Quần Anh địa chí và các bia ký ở chùa Lương, ở đền tứ tổ, ở nội dung Huấn tích đình xã
Trung... thì khi lập làng xã, kể cả khi đang cịn là Quần Cường ấp nhân dân đã cho lập cầu
để nối liền giáp, thôn, tiện việc đi lại làm ăn. Dọc sơng Giữa, là con sơng chính của làng,
được xây dựng mỗi giáp một cầu, riêng cầu giáp ba, cầu giáp sáu được làm to rộng hơn để
phòng khi làng có việc đặc biệt cầu giáp “thập” tức giáp mười được làm kiểu thượng gia
hạ kiều (Trên là nhà, dưới là cầu) tức là cầu Ngói.
Theo nội dung đơi câu đối nhấn ở cột, tại cổng cầu Ngói, vế đầu: Lê Hồng Thuận
tứ tính thủy mưu giả ốc biệt thành giang thượng lộ. Như vậy, từ đời vua Lê Tương Dực,
niên hiệu Hồng Thuận (1510 – 1516) từ tổ khai sáng
đã tính chuyện dựng cầu [25, tr 3].
1.2.1.2. Lịch sử phát triển của cầu Ngói


Xứ Sơn Nam xưa kia là vùng đất thấp đã nổi tiếng với câu ca: Cầu Nam, chùa Bắc,
đình Đồi. Như đã trình bày phần trên, cầu Ngói được xây dựng vào đầu thế kỷ XVI,
nhưng buổi ban đầu cầu cũng chỉ lợp mái rạ đơn sơ, giống như cảnh chùa Lương lúc đầu.
“Nhân dân địa phương truyền rằng nhà trên cầu xưa còn đơn giản, chỉ lợp mái rạ. Từ ngày
khởi dựng ở đầu thế kỷ thứ XVI, trải qua các thế kỷ sau cầu đã qua nhiều lần sửa chữa”
[52, tr 695].
Đến thế kỷ XVII, những năm Lê Chính Hịa thứ ba, Chính Hịa thứ năm (1682 –
1684), cầu được trùng tu toàn bộ, dầm, xà thay bằng gỗ lim và mái lợp ngói. Trên bia Tạo
lập tả hành lang ký tại chùa Lương dựng năm Chính Hịa thứ năm có nội dung: “Xã Quần
Anh ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tý, quan viên đồng xã hưng công làm tả hành lang
và hậu phòng 22 gian, cầu Thượng Gia thì lợp ngói...Ngày tháng trọng xn triều Lê
Chính Hịa thứ năm Giáp Tý”. Trên thượng lương cũ có khắc: “Giáp Tý trùng tư”. Đó là
năm Chính Hịa thứ năm.
Thế kỷ XVIII, niên hiệu Lê Cảnh Hưng thứ 2, năm Tân Dậu (1741), cầu Ngói lại
tiếp tục được tu sửa [63, tr 148].
Đến thế kỷ XX cầu Ngói cũng được tu sửa nhiều lần. Năm 1922, Nhâm Tuất, niên

hiệu Khải Định năm thứ bảy, nhóm “Tập phúc Quần Anh” đã sửa lại cầu theo nếp cũ.
“kiểu thức cuối cùng cho đến nay là thuộc lần làm lại vào năm 1922 cũng được ghi trên
cầu cho biết: Năm Khải Định thứ 7, cầu được tu sửa như cũ, từng bậc xếp nên gương”
[52, tr 695].
Năm 1961 hội Phật giáo, hội Thái lão cùng sư cụ Lê Thanh Tài cùng với Ty văn
hóa Nam Định, đã tu sửa, trang hồng lại cầu. Cầu Ngói trải qua nhiều lần trùng tu nhưng
vẫn mang đậm phong cách kiến trúc cổ truyền dân
tộc.
1.2.2. Di tích chùa Lương
Tên gọi chùa Lương là theo tên chùa ở làng cũ của tứ tổ: Trần Vu; Vũ Chi; Hoàng
Gia; Phạm Cập bên huyện Tây Chân. Chùa Lương, tên chữ là Phúc Lâm tự. Theo triết tự
tiếng Hán, “Phúc” chỉ sự tốt lành, ban phúc. “Lâm” chỉ nơi tụ họp đơng đúc. “Tự” là
chùa. Như vậy Phúc Lâm tự có nghĩa là chùa Phúc Lâm, nơi ban những sự tốt lành cho
nhiều người. Ngồi ra chùa cịn có tên gọi khác là chùa trăm gian.


Chùa Lương được xây dựng trên thế đất có hình dáng “Long”, cồn rồng, vươn lên
phương Bắc, lưng lượn 9 khúc (sông cửu khúc), gắn liền với công cuộc khai hoang lấn
biển, dựng cồn ấp. Cụ Thủy tổ họ Trần đã sớm nhìn ra vùng thổ nhưỡng phì nhiêu, long
mạch (sơng nước) thuận tiện, vượng khí thống đãng. Thủy tổ Trần Vu nghĩ ngay nơi đây
là nơi đất lành đã cùng hợp sức với Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập cùng khai hoang mở
đất. Mỗi người một công việc riêng, đứng đầu là Dinh điền phó sứ Trần Vu. Vũ Chi trơng
coi đắp đê trị thủy, Hồng Gia là người có học vấn chuyên lo mời thầy dạy chữ, dạy nghề,
viết văn tế, gia phả làm cho cuộc sống mới nơi vùng quê có nề nếp, kỷ cương. Tiếp đó là
Phạm Cập với chức trách theo dõi sổ sách, ghi chép đinh điền. Sau quy tụ thêm 9 dòng
họ: Lại, Nguyễn, Lê, Bùi, Đỗ, Phan, Đoàn, Trần, Vũ.
Tứ tổ khai cơ, lập cồn ấp
Chín họ bao đê dựng xóm làng [3, tr 3].
Chùa Lương lúc đầu có quy mơ chỉ là am nhỏ ba gian lợp cỏ, mục đích có chốn Phật
đường để đảm bảo nhu cầu tinh thần cho nhân dân.

qua
Từ khi được khởi công, xây dựng, trải qua nhiều lần trùng tu, mở rộng, cho đến thế
kỷ XIX, chùa trở lên nổi tiếng và qui mô. Mặc dù nhiều lần trùng tu cho tới nay, chùa vẫn
lưu giữ được nhiều thành phần kết cấu kiến trúc từ thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XIX.
Sự phục hưng của Phật giáo thế kỷ XVII, chùa Lương được tu sửa, nâng cấp với qui mô
lớn. Năm 1634 chùa được tu sửa, qua một phần thượng lương cũ được đóng ốp trên long
cốt tiền đường, hiện tại còn ghi: “Dương Hòa năm thứ nhất - Giáp Tuất”. Đồng thời qua
khảo cứu các văn bia ở chùa, nói đến việc tu sửa chùa: Bia Chính Hịa năm thứ 3, năm
Nhâm Tuất (1682) và Chính Hịa năm thứ 5, năm Giáp Tý (1684), nói về việc tạo rồng đá
ở cầu ao chùa, dựng lại hành lang đơng tây và hậu phịng [26, tr 14].
Từ nửa thế kỷ XVIII, năm 1725, niên hiệu Bảo Thái năm thứ 6, năm Ất Ty làm lại
tòa Hương án tiền. Năm 1726, Bảo Thái thứ 7, năm Bính Ngọ dựng cây Thiên thạch đài
trụ, có khắc năm vào trụ. Năm 1746, vua Lê Hiền Tông, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 7,
năm Bính Dần, làm lại thượng điện, tiền đường, tượng Phật, tam quan, hành lang, hậu
phòng. Tới năm Mậu Thân (1748) mới xong. Sự kiện này được ghi trên các văn bia Vĩnh
Thịnh 15 (1720), Vĩnh Khánh thứ nhất (1729), Cảnh Hưng thứ 10 (1749), rồi Cảnh Thịnh


thứ nhất (1793). Đặc biệt, trên bia Cảnh Hưng năm thứ 10, do giám sinh trường Quốc Tử
Giám là Trần Huy Ngọc soạn về chùa Lương: “Cơng trình lúc này đã là tòa rộng, dãy dài,
ngọc giáo cẩm đường, cung điện rực rỡ, huy hồng, quy mơ lâu đài sừng sững, sân chùa
cỏ cây, hai bên hành lang đối xứng, có dải lơng vũ cao thấp nhấp nhơ...”[3,.tr 7]. Năm
1750, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 11, Canh Ngọ, vào tháng 4, đúc chiếc thanh la đồng
và trống đồng, có khắc bài ký ở mặt thanh la. Năm 1797, niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ
5, năm Đinh Tỵ, đúc tượng Phật A Di Đà.
Sang thế kỷ XIX, (1826), triều Nguyền, niên hiệu Minh Mệnh năm thứ 7, năm
Bính Tuất, đúc chuông lớn nay treo ở gác chuông chùa. Năm Giáp Ngọ, 1834, niên hiệu
Minh Mạng thứ 15, sửa lại tiền đường, hậu đường, nhà tổ, tả hữu hành lang, tam quan.
Năm Nhâm Dần, 1842, niên hiệu Thiệu Trị năm thứ 2, chế ba bức hoành biển gỗ, sơn son
thếp vàng treo ở tiền đường. Năm Quý Mùi (1883) dưới triều Tự Đức, nhà sư trụ trì là

Thơng Quang Chấn và thiện nam tín nữ đã sửa mới phật đường, tả vu, hữu vu, nhà tổ,
phòng tăng, phòng khách. Năm 1893, niên hiệu Thành Thái năm thứ 5, trùng tu nhà tổ
[63, tr 81].
Bước sang thế kỷ XX, năm 1912, niên hiệu Duy Tân, năm Nhâm Tí, chùa Lương
lại được tu sửa thượng điện, hành lang, trang hồng tịa sen, tượng Phật. Năm 1961 và
1989 chùa Lương cũng được tu sửa theo nếp cũ. Trải qua chiến tranh, cũng như tác động
của môi trường thiên nhiên, chùa Lương bị hư hỏng nặng. Được sự chỉ đạo của Ty Văn
hóa tỉnh Nam Định, nhà sư, tín đồ phật tử cùng nhân dân đã tu sửa lại tiền đường, phật
điện, tả vu, hữu vu, nhà khách, nhà tổ. Năm 1998 – 1999 xây bờ hồ bằng đá, làm nhà trên
hồ, đổ đường trước chùa... Ngày 26 tháng 3 năm 1990, di tích cầu Ngói, chùa Lương
được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử quốc gia [3, tr8].
Cầu Ngói là trục đường chính dẫn vào chùa, đi khoảng gần 100m là đến khuôn
viên của chùa. Chùa Lương quay hướng Nam, tổng thể các cơng trình chùa Lương có tới
100 gian (PL bản vẽ số 1)
Bố cục mặt bằng tổng thể chùa Lương bao gồm đường chính đạo, tam quan và cột
đá: “Thiên thạch đài trự”, hai bên là hệ thống bậc xuống hồ lớn trước chùa, phía Đơng có
cây muỗm cổ thụ, qua tam quan, cột trụ là đến khoảng sân lớn trước chùa tạo nên cảnh
quan vừa uy nghi, hấp dẫn, vừa biểu lộ quy mô rộng lớn của mặt tiền cơng trình.


Tiếp đến là khu thờ chính có dạng mặt bằng nội đinh ngoại quốc, bao gồm có tiền
đường, tam bảo, gác chuông, hậu đường và tả vu, hữu vu, các cơng trình khép kín, chiếm
diện tích tới 700m.
Sau khu thờ chính là khoảng sân nhỏ rồi đến nhà tổ, hai bên là nhà khách và phịng
tăng. Trong mảnh đất phía Đơng của chùa, có các tháp mộ sư. Phía Tây chùa là đền thờ
“tứ tính cửu tộc”. Trước đền là khoảng sân rộng, hai bên trồng cây đại, ngọc lan, giữa sân
đền có một chiếc giếng. Theo tương truyền thì giếng là mắt của rồng, chùa đặt trên trán
rồng, thân rồng là con sơng cửu khúc chạy vịng phía sau chùa. Đền thờ “tứ tính cửu tộc”
có mặt bằng chữ đinh bao gồm tiền tế năm gian hậu chẩm ba gian. Năm gian ngoài là nhà
trưng bày, ba gian trong thờ các vị tổ có cơng khai sáng. Đặc biệt ở đền có biển thờ vua

ban bốn chữ Thiện tục khả phong.
1.3. Khái lược chung về kiến trúc, điêu khắc chùa và cầu Việt Nam
Chùa Việt Nam mới đầu thường được xây dựng bằng các thứ vật liệu quen thuộc
sẵn có như tranh tre, cho đến gỗ, gạch, ngói... Nhưng về sau, chùa càng được xây dựng
bằng những vật liệu tốt nhất có thể được để đảm bảo độ bền vững lâu dài cho ngôi chùa.
Chùa Việt Nam thường không phải là một cơng trình mà là một quần thể kiến trúc, gồm
những ngôi nhà sắp xếp cạnh nhau hoặc nối vào nhau. Tùy theo cách bố trí những ngơi
nhà này mà người ta chia thành những kiểu chùa khác nhau. Tên các kiểu chùa truyền
thống thường được đặt theo các chữ Hán có dạng gắn với mặt bằng kiến trúc chùa. Thơng
thường chùa Việt có các mặt bằng kiến trúc sau:
-

Mặt bằng chùa chữ đinh (T): Chùa chữ đinh có nhà tiền đường hay cịn gọi là bái
đường ở phía trước, theo chiều nằm ngang, được nối vào phía sau lưng của gian
chính giữa vng góc với nhà thượng điện nơi đặt các bàn thờ Phật theo chiều dọc.

-

Mặt bằng chùa chữ cơng (L): Là chùa có nhà chính điện và nhà bái đường song
song với nhau và được nối nhau bằng một ngôi nhà gọi là nhà thiêu hương hay còn
gọi là ống muống.

-

Mặt bằng chùa chữ tam: Là kiểu chùa có ba nếp nhà song song với nhau, thường
được gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng.

-

Mặt bằng chùa kiểu “Nội công ngoại quốc”: Là kiểu chùa có hai hành lang dài nối

liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậu đường (có thể là nhà tổ hay nhà tăng)


ở phía sau làm thành một khung hình chữ nhật bao quanh lấy nhà thiêu hương, nhà
thượng điện hay các cơng trình kiến trúc khác ở giữa. Bố cục mặt bằng chùa có
dạng phía trong hình chữ cơng, cịn phía ngồi có khung bao quanh như chữ khẩu
hay như chữ quốc.
Đây là các dạng bố cục của các cơng trình kiến trúc chính. Ngồi ra, trong chùa
cịn có những ngơi nhà khác như nhà tổ, là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa đã tịch,
hoặc nhà tăng - nơi ở của các nhà sư và một số kiến trúc khác như gác chuông, tháp và
tam quan.
Kiến trúc chùa Việt Nam được xây dựng và phát triển khá đa dạng qua các thời kỳ lịch sử
khác nhau và không gian khác nhau ở các phong cách kiến trúc địa phương. Chùa kiểu
chữ Tam phổ biến ở miền Nam hơn ở miền Bắc. Chùa của người Mường làm bằng tranh
tre đơn giản. Chùa của người Khmer chịu ảnh hưởng của Campuchia và Thái Lan....
Mặt bằng tổng thể của kiến trúc chùa Việt cũng rất đa dạng nhưng thường được sắp xếp
theo một trình tự [6].
+ Tam quan: Tam quan là bộ phận không thể thiếu trong thành phần chùa Việt
Nam, là cổng vào chùa, thường là một ngôi nhà với ba cửa vào. Có nhiều chùa có hai tam
quan, một tam quan nội và một tam quan ngoại. Tầng trên của tam quan có thể dùng làm
gác chng.
+ Sân chùa: Qua tam quan là đến sân chùa. Sân của nhiều chùa thường được bày
các chậu cảnh, hòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngơi
chùa. Diện tích của sân chùa phụ thuộc vào những điều kiện và đặc điểm riêng của từng
chùa. Trong sân chùa, đơi khi có các ngọn tháp được xây dựng, như chùa Dâu, chùa Thiên
Mụ.
+ Bái đường: Từ dưới sân chùa, lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là nhà bái
đường hay cịn gọi là tiền đường, có nền cao từ 60 cm đến 100 cm so với mặt sân (cũng
có nơi nền thấp hơn). Giữa bái đường là hương án, nơi thắp hương chính. Thơng thường
người đến lễ chùa thắp hương ở đây. Số gian của bái đường tùy thuộc vào qui mô của

từng chùa, nhỏ nhất là 3 gian, thơng thường là 5 gian.
+ Chính điện: Qua nhà bái đường là chính điện. Giữa bái đường và chính điện có
một khoảng trống khơng rộng lắm, để cho ánh sáng tự nhiên chiếu sáng. Nhà chính điện


là phần quan trọng nhất của ngơi chùa vì nơi đây bày những pho tượng Phật chủ yếu của
điện thờ Phật ở Việt Nam.
+ Hành lang: Chạy song song với chính điện, nối chính điện với hậu đường là hai
gian hành lang, tạo thành một hình chữ nhật khép kín.
+ Hậu đường: Qua nhà chính điện, theo dọc đường hành lang ta đến nhà hậu
đường. Nhà hậu đường ở một số chùa miền Nam Việt Nam liền sát sau nhà chính điện,
ngay sau phía bàn thờ Phật.
Trong thực tế, chùa có nhiều biến thể khác nhau. Ở một số chùa, phía sau điện thờ
Phật cịn có điện thờ Thần/Thánh, đó là loại chùa tiền Phật hậu Thần/Thánh phổ biển ở
miền Bắc Việt Nam. Có chùa có gác chng ở phía trước, có chùa có gác chng ở phía
sau, có chùa gác chng ở ngay trên cửa tam quan, có chùa gác chng lại ở trên nhà tổ.
Một số chùa có ngôi tháp lớn ở trước mặt, như chùa Dâu, Bút Tháp tỉnh Bắc Ninh, chùa
Phổ Minh tỉnh Nam Định, nhưng một số chùa khác lại đặt các tháp hai bên chùa hay có
vườn tháp riêng như chùa Trấn Quốc tại Hà Nội, chùa Bắc Ninh, chùa Bồ Đà ở tỉnh
Bắc Giang.
Ngồi cơng trình chính, chùa Việt Nam thường có vườn cây, vườn hoa được chăm
chút cẩn thận. Nhiều chùa có cả giếng, ao, hồ sen...
Cầu ở Việt Nam được xây dựng thuở ban đầu cũng khá thô sơ. Ngày nay, chúng ta
vẫn có cơ hội tiếp cận những cây “Cầu khỉ” bắc qua kinh rạch ở miền Nam có lẽ đó là dấu
vết cịn lại của kiểu cầu đơn sơ khi xưa. Có thể khẳng định rằng hình thức cây cầu sơ khai
gắn với chất liệu tranh tre, các loại song mây, dây rừng, thân cây gỗ... quen thuộc với
cuộc sống người dân. Bên cạnh đó, cầu đá cũng là một loại “cầu” có chức năng “nối bờ”
để người dân đi lại thuận tiện cũng được cho là loại cầu có lịch sử lâu đời.
Xét ở góc độ nghiên cứu phân loại, bài viết Cây cầu trong văn hóa Việt cổ đã chia
các cầu được dựng (một cách bền vững) ở nước ta thành 2 loại: Cầu đá lộ thiên và cầu gỗ

“thượng gia, hạ kiều/trì”. Cơng trình đề cập tới cầu đá Giang Xá (Hoài Đức, Hà Nội), cầu
đá đền Lũng Khê (Thuận Thành, Bắc Ninh), cầu đá ở sân bảo tàng tỉnh Nam Định. Cầu
thượng gia hạ kiều hoặc thượng gia hạ trì đề cập tới cầu ngói Thanh Toàn (Hương Thủy,
Thừa Thiên – Huế), cầu Phú Khê và cầu Phạm Lâm (Hải Dương), cầu Nhật Tiên và



×