Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận cao học môn pháp luật và đạo đức báo chí trình bày nhận thức của em về vấn đề đạo đức của người làm báo minh hoạ bằng các ví dụ thực tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.34 KB, 23 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ – TRUYỀN THƠNG

Đề tài:
TRÌNH BÀY NHẬN THỨC CỦA EM VỀ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC CỦA
NGƯỜI LÀM BÁO. MINH HOẠ BẰNG CÁC VÍ DỤ THỰC TẾ.


Mục lục
Mở đầu.............................................................................................................................................3
CƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI LÀM BÁO...............................4
1.1

Khái niệm.............................................................................................................................4

1.2.

Vai trò của đạo đức nhà báo trong hoạt động báo chí.....................................................9

1.3.

Tầm quan trọng của đạo đức nghề báo

CHƯƠNG 2:..................................................................................................................................11
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGIỆP TRONG CÁC MỐI LIÊN HỆ CỦA NHÀ BÁO............................11
2.1.

Các mối quan hệ nền tảng................................................................................................11

2.2.


Các mối quan hệ trong môi trường xã hội......................................................................11

2.3.

Các mối quan hệ nghề nghiệp..........................................................................................12

CHƯƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO................................14
ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI LÀM BÁO..........................................................................................14
3.1.

Những vấn đề đặt ra của người làm báo.........................................................................14

3.2.

Giải pháp nâng cao đạo đức của người làm báo...............................................................20

Kết Luật:........................................................................................................................................22
Tài liệu tham khảo.........................................................................................................................23

1


Mở đầu
Báo chí có vai trị to lớn trong đời sống chính trị-xã hội của mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc. Báo chí là cơng cụ sắc bén trong cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, góp phần to lớn trong quá trình thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vì vậy, địi
hỏi phải có đội ngũ nhà báo u nghề, tận tâm với nghề, ý thức được vị trí, vai trị
của mình trong xã hội. Báo chí chỉ có thể làm đúng chức năng của mình và thực sự
trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của xã hội khi đáp ứng được
đầy đủ những yêu cầu đó. Cho nên, việc xây dựng đạo đức của người làm báo luôn

là một việc quan trọng cần được quan tâm đúng mức.
Những năm gần đây, ảnh hưởng suy thoái kinh tế tồn cầu đã gây
khơng ít
khó khăn cho kinh tế báo chí. Nhu cầu ứng dụng cơng nghệ thơng tin và nhu
cầu tăng doanh thu là những yếu tố khiến việc cạnh tranh cung cấp thông tin giữa
các cơ quan báo chí ngày càng trở nên gay gắt. Đồng thời với nó là hàng loạt sai
phạm trong tác nghiệp báo chí đã xảy ra, trong đó có sai phạm thuộc về phạm trù
đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Đây cũng là vấn đề đang được dư luận xã hội hết
sức quan tâm.
Vấn đề đạo đức nghề nghiệp báo chí đã trở thành chủ đề nóng trên các
diễn đàn, các hội thảo bàn về báo chí. Nhưng dường như số lượng những vụ việc,
những biểu hiện tiêu cực về đạo đức báo chí vẫn khơng thun giảm mà đang có xu
hướng tăng lên. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng vi phạm đạo đức nghề nghiệp là
đưa thông tin sai sự thật, khơng chính xác làm tổn hại đến danh dự, uy tín cá nhân,
lợi ích của tổ chức, doanh nghiệp... Trên các trang báo điện tử, báo in đăng tải quá
nhiều các vụ án mạng, các mặt trái của xã hội; các vụ hơn nhân, tình dục; khai thác
các khía cạnh mê tín dị đoan, đời sống tâm linh; chuyện riêng tư của các người

2


mẫu, diễn viên; những hành vi tội ác bạo lực... Có khơng ít nhà báo lợi dụng danh
nghĩa nghề nghiệp dọa dẫm doanh nghiệp đưa tiền, ép làm quảng cáo; có nhà báo
viết về các lĩnh vực nhạy cảm nhưng để nguyên địa chỉ, tên thật... Nhiều trường
hợp nhà báo sao chép, sử dụng tin bài của người khác mà khơng có sự đồng ý của
tác giả, hoặc dùng phương tiện của báo chí để “lăng xê”, tâng bốc người này, dìm
người khác với mục đích lợi ích cá nhân.
Như vậy em đã chọn đề này để nghiên cứu và tăng sự hiểu biết thêm về
những đạo đức các vai trò của nhà báo của Việt Nam để làm nền tảng cho em đến
tương lai.


CƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI LÀM BÁO

1.1

Khái niệm

1.1.1.

Khái niệm đạo đức

Thuật ngữ “đạo đức” trong tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, bao
gồm hai nét nghĩa gộp lại: “đạo” là con đường, quy luật sinh thành, tồn tại,biến hóa
của vạn vật và “đức” là bản chất, tính chất của các lồi. Theo nghĩa đó, mỗi lồi có
những tính chất riêng của nó để phân biệt với các lồi khác.
Tuy nhiên, đó là tiếp cận từ góc độ chiết tự “đạo” và “đức”, còn đạo
đức với nghĩa là những chuẩn mực được con người thừa nhận và thực hiện thì chỉ
có ở xã hội lồi người. Do vậy, khái niệm “đạo đức” chỉ dùng cho con người, nó
3


hàm nghĩa những chuẩn mực mà con người trong xã hội cùng đặt ra vào cùng tuân
thủ.
Theo quan niệm phương Đơng, đạo đức có nghĩa là “đạo làm người”, bao gồm
nhiều chuẩn mực về các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, bàn bè, anh em…
Ở phương Tây, khái niệm đạo đức bắt nguồn từ chữ “mos” trong tiếng
Latinh, có nghĩa là “lề thói”, moralis có nghĩa là “thói quen”. Như
vậy, khi nói đến đạo đức là nói đến các lề thói và tập tục biểu hiện trong mối quan
hệ giao tiếp hàng ngày giữa người với người. khái niệm quốc tế của đạo đức là
“moral”.

Theo C.Mác, đạo đức là một “hình thái ý thức xã hội” chịu sự tác động qua lại
của các hình thái ý thức xã hội khác và cùng với các hình thái ý thức xã hội ấy, đạo
đức chịu sự quy định của tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Do đó, đạo đức có
“bản chất xã hội”.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa “là một hình thái ý thức xã hội, tập hợp
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách
ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được
thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”
Như vậy, những chuẩn mực đạo đức đã được chính con người sáng tạo ra và
tuân thủ, nhằm điều chỉnh hành vi của con người mà những chuẩn mực cụ thể tùy
vào quan niệm của từng thời đại, từng vùng, miền… với mục đích là đem lại lợi ích
cho mọi người – cho bản thân mình và người khác, nghĩa là đem lại lợi ích cho xã
hội. Đạo đức đánh giá hành vi con người theo các chuẩn mực và các giá trị như
thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, đúng và sai, cái phải làm và cái không được
làm, cái nên làm và cái không nên làm…Việc yêu nước, thương dân, kính trên,
nhường dưới, hiếu thuận với cha mẹ, đối xử chan hòa với anh
em, bạn bè, làng xóm… đều do các chuẩn mực của đạo đức xã hội chi phối hành vi
cá nhân. Chuẩn mực đạo đức giúp con người có khả năng tự hồn thiện mình và
4


phát triển ngày một văn minh, tiến bộ. Xã hội lồi người các phát triển thì các
chuẩn mực đạo đức cũng càng phong phú, mang tính nhân đạo hơn, có nghĩa là đạo
đức cũng ln vận động cùng q trình phát triển của xã hội.
Về mặt xã hội, đạo đức được thể hiện bằng thái độ cụ thể của dư luận xã
hội. Đó là những ý kiến, trạng thái tinh thần tán thưởng, khẳng định (tích cực) hoặc
phê phán, phủ định (tiêu cực) của một số đông người đối với một hành vi, ý tưởng
của cá nhân hay nhóm người nào đó.
Về mặt cá nhân, đạo đức được coi là “tịa án lương tâm” có khả năng tự
phê phán, đánh giá và suyxét từng hành vi, thái độ và ý nghĩ trong bản thân mỗi cá

nhân.Xét về bản chất, sự điều chỉnh của đạo đức mang tính tự giác, là sự tự lựa
chọn của mỗi người. Từ những chuẩn mực và quy tắc chung, mỗi cá nhân tự chọn
lựa và có nghĩa vụ, trách nhiệm chuyển những yêu cầu đó thành nhu cầu, mục đích
và sự hứng thú của bản thân. Vì vậy, ngồi biểu hiện trong các quan hệ xã hội, đạo
đức còn thể hiện trong thái độ, hành vi và việc tự ứng xả của bản thân mỗi con
người.
1.1.2.

Khái niệm đạo đức nghề nghiệp

Không chỉ với cộng đồng xã hội, đạo đức chi phối cả các lĩnh vực hoạt động
nghề nghiệp cụ thể của xã hội hiện đại. Mỗi nghề nghiệp đều có chuẩn mực đạo
đức riêng. Những chuẩn mực ấy ln gắn bó chặt chẽ với những điều kiện, đặc
điểm của nghề nghiệp cụ thể đó.
Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức
trong một lĩnh vực cụ thể trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề
nghiệp bao gồm những yêu cầu đạo đức đặc biệt, các quy tắc và chuẩn mực trong
lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, nhằm điều chỉnh hành vi của các thành viên trong
nghề nghiệp đó sao cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của xã hội. Phẩm chất đạo
đức cá nhân trong xã hội có nét chung nhưng phẩm chất đạo đức trong từng nghề
nghiệp lại có những nét đặc thù và yêu cầu riêng biệt.
5


Tuân theo các nguyên tắc, chuẩn mực trong đạo đức nghề nghiệp vừa
góp phần vào tăng trưởng kinh tế, vừa tạo điều kiện nâng cao chất lượng lao động,
hoàn thiện người lao động trong nghề nghiệp đó. Nghề nào cũng cần có đạo đức
nghề nghiệp, nhưng một số nghề có vị trí quan trọng đặc biệt và có mối quan hệ
rộng rãi với nhiều người trong xã hội thì đạo đức nghề nghiệp đặc biệt được coi
trọng như nghề giáo, nghề báo, nghề y, nghề luật, an ninh, tòa án…Với những nghề

này, bên cạnh những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chung cho tất cả các quốc
gia thì mỗi nước, trong mỗi thời kỳ lịch sử lại đề ra những chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp riêng cho người hành nghề ở nước mình.
1.1.3.

Khái niệm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.

1.1.3.1. Khái niệm của nhà báo.
Theo TS. Nguyễn Thị Trường Giang trong cuốn “Đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo” thì khái niệm “nhà báo” được hiểu là: “người làm nghề viết báo
chuyên nghiệp nhằm sáng tạo nên những tác phẩm báo chí, đang hoạt động hoặc
cộng tác thường xuyên với một cơ quan báo chí và được cấp thẻ nhàbáo”
Điều 14 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật báo chí cũng quy định rõ:
“Nhà báo phải là người có quốc tịch Việt Nam, có địa chỉ thường trú tại Việt Nam,
có đủ các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo chí do Nhà nước quy định,
đang hoạt động hoặc công tác thường xuyên với một cơ quan báo chí Việt Nam và
được cấp thẻ nhà báo”. Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”, PGS.TS Nguyễn Văn
Dững cho rằng: “Nhà báo có thể được hiểu là người tham gia thực hiện một trong
các loại hình lao động báo chí của q trình thu thập, xử lý và chuyển tải thông tin
cho công chúng xã hội; đó là lao động tổ chức – quản lý (ở nước ta là bao gồm tổ
chức quản lý vĩ mô và vi mô), lao động biên tập, lao động tác giả, lao động kỹ thuật
– dịch vụ trong báo chí. Nhà báo là chủ thể trực tiếp hoạt động báo chí, chịu trách
nhiệm trước pháp luật và dư luận xã hội về những thông
tin mà họ cung cấp cho cơng chúng xã hội, trên cả hai bình diện pháp lý và đạo
6


đức”.
Để phục vụ cho nghiên cứu ở nhiều góc độ và tồn diện, thì nhà báo có thể
được nhìn nhận là những người tham gia vào quá trình sáng tạo tác phẩm. Do vậy,

trong luận văn này, khái niệm nhà báo được tác giả nghiên cứu ở phạm vi rộng theo
như quan điểm của PGS.TS Nguyễn Văn Dững.
1.1.3.2. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
Báo chí là loại hình truyền thơng đại chúng quan trọng, có sức mạnh to lớn
trong đời sống xã hội. Hoạt động báo chí bị chi phối bởi luật báo chí và những điều
luật, chuẩn mực khác liên quan đến báo chí. Trong đó, có những chuẩn mực rất
quan trọng mà người làm báo cần tuân thủ dưới sự dẫn dắt của lương tâm và trách
nhiệm, đó chính là đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
Trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”, tác giả E.P.Prôkhôrốp cho rằng, đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo là “những quy định đạo đức không được ghi trong
đạo luật, nhưng được chấp nhận trong giới báo chí và được duy trì bởi sức mạnh
của dư luận xã hội, bởi các tổ chức sáng tạo nghề nghiệp, đó là những nguyên tắc,
những quy định và những quy tắc về hành vi đạo đức của
nhà báo” .
Trong cuốn “Thuật ngữ báo chí truyền thơng”, tác giả cho rằng đây là
“khái niệm chỉ tư cách, lương tâm nghề nghiệp trong hoạt động báo chí, biểu hiện
qua hành vi, nguyên tắc ứng xử của người làm báo” .
TS Nguyễn Thị Trường Giang trong cuốn “Đạo đức nghề nghiệp của nhà
báo” cho rằng: “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực
quy định về thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối quan hệ nghề
nghiệp”.
Như vậy , đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn
mực quy định thái độ và hành vi ửng xử của nhà báo trong các mối quan hệ
nghề nghiệp.
7


Trên thực tế hiện nay, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo còn được gọi
bằng nhiều tên khác nhau như đạo đức nghề báo, đạo đức báo chí, đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo, đạo đức nhà báo, nhưng đều có nghĩa đồng nhất.

1.2.

Vai trị của đạo đức nhà báo trong hoạt động báo chí.

Trong thế giới ngày nay, vị trí và vai trị của báo chí ngày càng được nâng
lên. Báo chí đang trở thành một bộ phận quan trọng trong đời sống xã hội không
thể thiếu được trong đời sống tinh thần của con người. Báo chí cịn tham gia vào
tiến trình lịch sử, cùng lúc có thể tác động đến nhiều người, nhiều tầng lớp, nhiều
lĩnh vực của đời sống. Gắn bó với đất nước,dân tộc, nhân dân, với Đảng, Báo chí
cách mạng Việt Nam khơng chỉ là người tuyên truyền, cổ động tập thể (Lê-nin) mà
cịn góp phần lý giải những định hướng phát triển đất nước trên cơ sở những định
hướng phát triển xã hội của Đảng; là thước đo kiểm định tính đúng đắn của các
quyết sách kinh tế, văn hóa xã hội trong đời sống. Báo chí cịn phản ánh những bức
xúc của nhân dân, các tầng lớp xã hội, những phản biện có tính xây dựng về các
chính sách khơng phù hợp quy luật phát triển, không phù hợp với quyền lợi của
quảng đại quần chúng nhân dân.
Như vậy người làm báo ở Việt Nam phải thực hiện theo 10 quy định đạo đức
nghề nghiệp của người làm báo bắt đầu từ ngày 1-1-2017 như sau:
Điều 1: Trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vì lợi ích của đất nước,
vì hạnh phúc của nhân dân; góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trên trường
quốc tế.
Điều 2: Nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp, Luật Báo chí, Luật bản quyền
và các quy định của pháp luật. Thực hiện đúng tơn chỉ, mục đích; nội quy, quy chế
của cơ quan báo chí nơi cơng tác.
Điều 3: Hành nghề trung thực, khách quan, công tâm, không vụ lợi. Bảo
vệ công lý và lẽ phải. Không làm sai lệch, xuyên tạc, che giấu sự thật, gây chia rẽ,
8



kích động xã hội, phá hoại khối đại đồn kết tồn dân tộc và tình đồn kết, hữu nghị
giữa các quốc gia, dân tộc.
Điều 4: Nêu cao tinh thần nhân văn, tôn trọng quyền con người. Không
xâm phạm đời tư, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm, lợi ích hợp pháp của tổ chức và
cá nhân.
Điều 5: Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các
phương tiện truyền thơng khác.
Điều 6: Bảo vệ bí mật quốc gia, bí mật nguồn tin theo quy định của pháp luật.
Điều 7: Đồn kết, giúp đỡ đồng nghiệp.
Điều 8: Tích cực học tập, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, ngoại
ngữ, phấn đấu vì một nền báo chí dân chủ, chuyên nghiệp và hiện đại.
Điều 9: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; Bảo vệ và phát huy các giá
trị văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Điều 10: Những người làm báo Việt Nam cam kết thực hiện những quy
định trên, đó là bổn phận và nguyên tắc hành nghề, là lương tâm và trách nhiệm của
người làm báo.
1.3.

Tầm quan trọng của đạo đức nghề báo

Ngày nay, vị trí và vai trị của báo chí trong đời sống xã hội ngày càng được
nâng lên, nó trở thành một bộ phận quan trọng, khơng thể thiếu trong đời sống tinh
thần của con người, ở một khía cạnh nào đó nó cịn tham gia vào tiến trình lịch sử
của thời đại, cùng lúc có thể tác động đến nhiều người, nhiều tầng lớp, nhiều lĩnh
vực của cuộc sống. Chính vì vậy, những người làm nghề này trong mỗi tác phẩm
và sản phẩm của mình phải nhận thức sâu sắc từng việc làm, cân nhắc kỹ lưỡng và
xem xét cẩn trọng những hậu quả có thể xảy ra đối với xã hội. Chỉ cần một chút
thiếu thận trọng của nhà báo, xã hội phải bỏ ra gấp trăm ngàn lần công sức để khắc
phục hậu quả.


9


CHƯƠNG 2:
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGIỆP TRONG CÁC MỐI LIÊN HỆ CỦA NHÀ BÁO
2.1.

Các mối quan hệ nền tảng.

2.1.1.

Nhà báo với Tổ quốc, đất nước

Với tư cách là thành viên của một đất nước, được ni dưỡng bằng văn hố
vật chất và tinh thần của đất nước, nhà báo phải có thái độ trân trọng, yêu quý quê
hương, đất nước, cội nguồn đã sinh ra mình. Đó cịn là thái độ và trách
nhiệm của nhà báo trước đất nước và vì lợi ích của đất nước.
2.1.2.

Nhà báo với nhân dân

Nhà báo phải phục vụ vô điều kiện quyền thông tin của nhân dân, là diễn đàn tin
cậy của nhân dân. Mỗi nhà báo đều phải tham gia vào q trình thơng tin cho nhân
dân về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời sống xã hội trong và ngoài nước, làm cho
nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua đó, nhà báo tham gia vào
việc hình thành dư luận xã hội đúng đắn, xây dựng thế giới quan khoa học, thái độ
sống tích cực và nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, tạo ra sự đồng
thuận cao trong xã hội.
2.1.3.


Nhà báo với Đảng.

Từ khi ra đời đến nay, những người làm báo cách mạng ln ln gắn bó và là
người hướng dẫn tin cậy của đồng bào cả nước, cổ vũ nhân dân đi theo con đường
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã chọn. Đa số nhà báo Việt Nam không chỉ phục
tùng sự lãnh đạo của Đảng, tích cực trong việc truyền bá mà họ cịn góp phần làm
cho chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ln giữ vị trí chủ đạo trong
đời sống tinh thần của xã hội.
2.2.

Các mối quan hệ trong môi trường xã hội.

10


2.2.1.

Nhà báo với công chúng.

Mối quan hệ giữa nhà báo và cơng chúng là mối quan hệ mang tính liên kết trong
các hành vi đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Trong khi làm nhiệm vụ cung cấp
thông tin, nhằm thoả mãn đầy đủ các nguyện vọng, nhu cầu và lợi ích của cơng
chúng, nhà báo phải đối mặt với một loạt các câu hỏi mang tính đạo đức. Khơng
chỉ có thế, việc cân nhắc, tính đến mức độ hiệu quả thông tin cũng là trách nhiệm
đạo đức của nhà báo đối với công chúng. Khi viết bài, nhà báo còn phải trả lời một
loạt các câu hỏi nhằm xem xét, phân tích
đầy đủ các khía cạnh, suy xét nghiêm túc trọn vẹn mọi mặt để cung cấp thông tin
tốt nhất cho cơng chúng.
2.2.2.


Nhà báo với nguồn tin.

Có ba kiểu nguồn tin, thứ nhất là tài liệu, thứ hai là môi trường (hoặc hiện
trường) và thứ ba là con người. Khi nói đến mối quan hệ đạo đức nghề nghiệp giữa
nhà báo và nguồn tin là nói đến mối quan hệ đạo đức giữa nhà báo và kiểu nguồn
tin thứ ba – con người. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp quy định những chuẩn mực
khi nhà báo tiếp xúc, thu thập, sử dụng thông tin và tài liệu do nguồn tin cung cấp.
2.2.3.

Nhà báo với nhân vật trong tác phẩm của mình.

Nhân vật trong tác phẩm báo chí là nhân vật có thật, vì vậy nhà báo cần phải
cân nhắc kỹ lưỡng xem nên đưa thơng tin gì và khơng nên đưa thơng tin gì để
khơng gây hại cho nhân vật. Nhà báo phải tự đặt ra các câu hỏi như: Viết như thế
này có ảnh hưởng gì đến cuộc sống, lợi ích, nhân phẩm của nhân vật khơng? Đưa
bứa ảnh này, chi tiết này, tính cách này có gây hại gì cho nhân vật khơng? Nếu
cơng bố mối quan hệ này có làm phức tạp cuộc sống hàng ngày của nhân vật
khơng? Cơng chúng liệu có hiểu đúng về nhân vật của mình khơng?...
2.3.

Các mối quan hệ nghề nghiệp

2.3.1.

Nhà báo với Ban biên tập.

Mối quan hệ này đòi hỏi nhà báo phải tuân theo những quy định, chấp hành
11



những đường lối, chủ trương của Ban biên tập, đi đúng tơn chỉ, mục đích của tờ
báo. Đấy chính là quan hệ đạo đức giữa cá nhân nhà báo với Ban biên tập của
mình. Nền tảng của mối quan hệ này là sự thống nhất quan điểm tư tưởng. Nhà báo
phải trung thành với tồ soạn của mình, phải có bổn phận giữ bí mật của tồ soạn.
Tuy nhiên, sự chấp hành này không đồng nghĩa với sự mù quáng mà là sự nhất trí
trên nguyên tắc của sự sáng tạo.
2.3.2.

Nhà báo với các đồng nghiệp trong và ngoài toà soạn.

Trong mối quan hệ với các đồng nghiệp đòi hỏi nhà báo phải có nghĩa vụ thực
hiện tình đồng chí, đồng nghiệp, nghĩa vụ giúp đỡ lẫn nhau, có ý thức dung nạp và
độ lượng với những chính kiến, bất đồng của đồng nghiệp. Mối quan hệ này khơng
chỉ bó hẹp trong từng cơ quan báo chí mà ý thức cố kết, tình đồn kết, sự tương trợ
giúp đỡ lẫn nhau cịn phải được thể hiện trong tồn thể cộng đồng nhà báo.
2.3.3.

Nhà báo với cộng tác viên, thông tin viên.

Trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là phải có thái độ trân trọng và
khơng được cố tình im lặng, tảng lờ trước những tư liệu, bài vở của các tác giả gửi
về toà soạn. Nhà báo phải có thái độ tơn trọng suy nghĩ, lập luận, bố cục, văn
phong của tác giả. Nhà báo phải có sự bàn bạc, trao đổi, thảo luận với tác giả khi có
sự thay đổi (dù là nhỏ) trong bài viết. Đương nhiên, nhà báo cũng có chính kiến,
khơng thể đồng ý với tất cả những gì mà tác giả đề xuất.

12



CHƯƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI LÀM BÁO
3.1.

Những vấn đề đặt ra của người làm báo

3.1.1.

Tình hình về vấn đề đạo đức của người làm báo

Trên thế giới, vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo đã được nhiều tác
giả đề cập đến. Trong quá trình đi tìm tư liệu cho tiểu luận, tơi dễ dàng tìm được trên
mạng Internet hàng trăm mẩu tin giới thiệu về các cuốn sách, bài báo của các học giả,
nhà báo nước ngoài viết về vấn đề đạo đức nghề báo. Nhưng những mẩu tin đó chỉ
ghi tóm tắt sơ lược hoặc khơng ghi gì cả. Điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho tác
giả. Tuy nhiên, thông qua tên và phần giới thiệu tóm tắt có thể thấy các tác giả đã đề
cập đến những vấn đề lý luận cơ bản của đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
Ở nước Việt Nam, đạo đức nhà báo cũng là đề tài của rất nhiều cuộc hội
thảo. Trong các cuộc thảo luận về vấn đề đạo đức báo chí hiện nay đang có nhiều
cách lý giải, biện minh. So với nhiều năm trước thì trong mấy năm gần đây, tình trạng
vi phạm đạo đức báo chí đang tăng lên. Biểu hiện của sự vi phạm này không chỉ là
những tác phẩm được công bố mà ngay cả sự im lặng khơng bình thường cũng được
cơng chúng nhận thấy.
báo chí và trách nhiệm của cơ quan báo chí đối với xã hội.
Khi nói đến trách nhiệm thì rõ ràng rằng, trước sau gì phóng viên cũng
phải “đo” trách nhiệm của họ bằng thước đo chung của thực tiễn nghề
nghiệp. Trách nhiệm là một vấn đề do học tập và do năng lực mà có. Nó
là việc báo tin, đánh thức người phóng viên dậy rồi cử anh ta đi dưới sự
hướng dẫn của những biên tập viên từng trải - sau đó sản phẩm truyền
thơng sẽ được làm sáng tỏ hơn.

3.1.2.

Một số nguyên nhân về sự sa sút đạo đức nghề báo.

3.1.2.1. Sự thúc đẩy của lợi ích kinh tế.
13


Cùng với việc không ngừng đi sâu hội nhập kinh tế thế giới, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân cũng ngày càng được nâng cao nhưng vẫn tồn tại một
bộ phận nhà báo vì chưa hài lịng với những gì đang có, nên đã bất chấp mọi thủ đoạn
đưa tin sai sự thật nhằm mưu cầu lợi ích cá nhân, đáp ứng nhu cầu, tham vọng riêng
của mình. Đưa tin sai sự thật là một trong số những thủ đoạn đó.
Một số nhà báo vì những lợi ích cá nhân hay xuất phát từ những nguyên nhân
khác nhau đã đưa tin sai sự thật, đưa tin không kiểm chứng... gây ảnh hưởng đến việc
tiếp nhận, nắm bắt tin tức của công chúng. Đây là một trong những vấn đề nghiêm
trọng rất cần được khắc phục kịp thời.
Ví dụ: Nhà báo Lê Duy phong bị truy tố về tội lạm dụng chức vụ quyền hạn
chế chiếm đoạt tài sản.

14


Theo cáo trạng truy tố, lợi dụng việc một số báo đăng tin, bài gây hoài
nghi, bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến uy tín, cơng việc của một số lãnh đạo
tỉnh n Bái, đồng thời vì mục đích vụ lợi, trong các ngày 16/6; 22/6/2017, tại phòng
làm việc của ông Vũ Xuân Sáng, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Yên Bái và
tại một nhà hàng ở TP Yên Bái, Lê Duy Phong với danh nghĩa Trưởng Ban bạn đọc
Báo điện tử Giáo dục Việt Nam đã lợi dụng quyền hạn của nhà báo để đe dọa, uy hiếp
về tinh thần và chiếm đoạt 250 triệu đồng. Trong đó, có 200 triệu đồng của ơng Sáng

và 50 triệu đồng của ơng Hồng Trung Thực, một người góp vốn kinh doanh vận tải.

Tại phiên tịa xét xử, bị cáo Lê Duy Phong đã khai nhận việc nảy sinh ý đồ
chiếm đoạt tiền của ông Sáng là do Phong được biết có một bài báo đã đăng trước đó
15


của một cơ quan báo chí khác có đề cập tới một số vấn đề liên quan tới ông Sáng nên
đã tới gặp ông và đe dọa về việc viết bài để buộc ơng Sáng phải đưa cho mình số tiền
200 triệu đồng được chia làm hai lần. Cả hai lần, Phong nhận tiền của ông Sáng đều
diễn ra tại phịng làm việc của ơng Sáng.
Trước tịa, Lê Duy Phong cũng khai nhận số tiền lấy được của ông Sáng đã
sử dụng vào mục đích cá nhân hết 130 triệu, cịn 70 triệu thì gửi vào tài khoản ngân
hàng của mình.
Đối với hành vi cưỡng đoạt tiền của ơng Thực, bị cáo Phong cũng thừa
nhận có ăn cơm với ơng Thực qua lời giới thiệu của một người bạn tên Công. Trong
bữa ăn, Phong cũng đã đe dọa ông Thực về việc viết bài về một số vấn liên quan tới
doanh nghiệp của ông, lo ngại chuyện này, ông Thực đã đưa cho Phong 50 triệu
đồng. Khi Phong nhận số tiền của ơng Thực thì bị cơ quan Cơng an bắt giữ.
Thơng qua bài ví dụ trên cho chúng ta biết còn một số nhà báo chưa hài
lòng về tiền lương của mình nên dùng quyền hạn của mình mang lợi ích cho mình
bằng hành vi trải qua những pháp luật rồi nó ảnh hưởng rất lớn về các cơ quan và xã
hội
3.1.2.2. Thiếu trung thực, không tôn trọng sự thật.
Trong cuộc sống hằng ngày của xã hội, mỗi ngày đều phát sinh những việc
lớn nhỏ khác nhau, và đó là đề tài khai thác tin bài của các nhà báo. Nhưng do sự
chênh lệch về trình độ, khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin cũng như nhu cầu, sự
nhận thức về tính trung thực của mỗi nhà báo khác nhau, mà một số người làm báo đã
đăng tin bài vô căn cứ, hoặc dựa trên những thông tin ít ỏi mà mình có được đã tự suy
diễn theo chủ quan của mình, hoặc cơng bố những tin tức chưa qua kiểm chứng, đã

gây ra những tác hại to lớn, gây bức xúc trong xã hội.
3.1.2.3. Sự thiếu hồn thiện của cơ chế.
Nếu như cơ chế có những quy định cụ thể và chặt chẽ về việc quy trách
nhiệm của người lãnh đạo, quản lý các đơn vị báo chí; việc tự từ chức, cách chức khi
16


để xảy ra sai sót; hay kịp thời tiến hành công tác bồi dưỡng và tập huấn về đạo đức
nghề nghiệp cho đội ngũ những người làm công tác báo chí, thì tin chắc rằng việc vi
phạm đạo đức nghề báo sẽ được hạn chế một cách triệt để.
Nhiều tờ báo đã vào cuộc một cách thái quá, có trang tin “ăn theo” sự cố
để tăng lượng người đọc nên đã đưa vô số tin, bài để câu view, đưa thơng tin ngồi lề,
khơng cần thiết nhưng lại đánh trúng tâm lý lo lắng của người đọc. Hậu quả là truyền
thông đã phần nào khiến người dân thêm hoang mang, lo lắng, đẩy phẫn nộ lên cao
trào.
Ví dụ : Báo Thanh Niên bị xử phạt 45 triệu đồng do đưa "thông tin sai sự thật
trong loạt bài viết đăng tháng 5-2020 về một số dự án đầu tư xây dựng theo hình thức
BT tại Tành phố Hải Phịng".

17


Cụ thể là 5 thơng tin, nhóm thơng tin trong các bài viết thuộc loạt bài phản
ánh về một số dự án đầu tư xây dựng theo hình thức BT tại Thành phố Hải Phịng. Và
Cục Báo chí cũng đã có văn bản đề nghị Báo Thanh Niên thực hiện việc cải chính,
xin lỗi theo đúng quy định tại Điều 42 Luật Báo chí năm 2016; Rà sốt tồn bộ các
bài viết và gỡ bỏ các thông tin sai sự thật; Kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm và xử lý kỷ
luật các tập thể, cá nhân liên quan theo thẩm quyền.

18



Như thế là cái lỗi của báo thành niên tại vì thiếu sự kiểm sốt chặt chẽ về
tờ báo và thiếu sự hồn thiện nên nó gây ảnh hướng rất lớn về cụ thể đã viết đến.
3.2.

Giải pháp nâng cao đạo đức của người làm báo.

3.2.1.

Kiên trì giữ vững “tính trung thực, khách quan, tôn trọng sự

thật”
Đối với đại bộ phận cơng chúng, việc đọc báo chính là tìm hiểu thông tin
và nội dung chân thực của tin tức, chứ khơng phải là tìm hiểu nội dung giả tạo hoặc
phóng đại của tin tức. Vì vậy, trong quá trình phát triển của ngành báo chí truyền
thơng, tính trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật là cái gốc cho sự phát triển, là
điều kiện cơ bản nhất để ngành báo chí tồn tại, vậy nên người làm báo phải đặt tính
trung thực, khách quan, tơn trọng sự thật lên hàng đầu, tích cực trau dồi lý luận, đem
“tính chân thực” vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn, nhằm đưa đến cơng chúng
những tin tức trung thực và chính xác; khơng đưa tin sai sự thật, phóng đại, khơng
nhìn nhận và giải thích sai tin tức; dẫn dắt cơng chúng với việc bình luận phân tích sự
kiện tin tức theo hướng đúng.
3.2.2.

Nâng cao năng lực dẫn dắt dư luận.

Dư luận xã hội có tác động rất mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực đời sống xã
hội, do đó một số thành phần có mục đích xấu đã lợi dụng sự hiếu kỳ và mức độ quan
tâm của công chúng đã dẫn dắt dư luận phát triển theo hướng sai lầm, lệch lạc, điều

này đã tạo nên những ảnh hưởng hết sức nghiêm trọng. Trong sự cạnh tranh mạnh mẽ
của ngành báo chí, một số trang báo mạng đã phóng đại sự thật, thậm chí giả tạo tin
tức nhằm thu hút lượt người xem, tạo nên những hình ảnh xấu, gây ra những ảnh
hưởng tiêu cực và nghiêm trọng, từ đó ảnh hưởng đến uy tín của tồn ngành báo chí
truyền thơng.
Người làm báo phải kiên định và lấy tính trung thực, khách quan, tôn trọng sự
thật làm nguyên tắc chủ yếu trong bài báo của mình, làm điều kiện phát triển đạo đức
nghề báo, đồng thời thúc đẩy sự phát triển ngành báo chí truyền thơng.
19



×