Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu Luận Tư tưởng hồ chí mình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.17 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................. 2
PHẦN I :....................................................................................................................................... 3
NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN
TỘC.............................................................................................................................................. 3
1.Truyền thống yêu nước, nhân ái , ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt Nam.. . .3
2. Sự tổng hợp phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa..................................................................................................................4
3. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin..................................................5
PHẦN II:...................................................................................................................................... 6
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC.......6
1. Đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách
mạng................................................................................................................................. 6
2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng............7
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân...............................................................7
4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân tộc
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng..............................................................................8
5. Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực
lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc......9
6. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế: chủ nghĩa yêu nước chân
chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp cơng nhân, đây cũng là
tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh........................................................................................10
PHẦN III:................................................................................................................................... 10
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC VÀ THỰC TIỄN CÁCH
MẠNG VIỆT NAM....................................................................................................................10
1. Khối đại đoàn kết dân tộc được xây dựng ngày càng rộng rãi và bền vững...............10
2. Từ khi cả nước Việt Nam thống nhất bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa:
........................................................................................................................................ 12
3. Ở thời điểm dân tộc ta đang bước vào thế kỉ XXI, những thời cơ và thách thức đan
xen nhau đang thường xuyên tác động đến khối đại đoàn kết dân tộc............................14
PHẦN IV:................................................................................................................................... 16


SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỒN KẾT DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TA
VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN.........................................................................................................16
1. Thực trạng chung.......................................................................................................16
2. Nhiệm vụ và yêu cầu:...............................................................................................17
3. Những chú ý khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh:..................................................18
4. Ý nghĩa tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh:......................................................19
5. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới hiện nay:........................19
KẾT LUẬN................................................................................................................................ 26

1


LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã làm phát triển lý luận cách mạng của thời đại, đã tỏa sáng ra ngoài
quốc gia Việt Nam, đến với các dân tộc và nhân dân lao động trên toàn thế giới, sánh vai với
các cường quốc trên thế giới ,để có được một đất nước hịa bình như bay giờ . tư tưởng Hồ Chí
Minh về đồn kết dân tộc là một khẩu hiệu về sự chiến thắng của nước ta , Bác tin tưởng vào sự
đoàn kết của dân tộc ta dù lớn hay nhỏ thì vẫn ln gắn bó và đồng lòng yêu nước, và đây là
chiến lược mà bác tin tưởng khi chiến đấu với kẻ thù xâm lược để được sống còn và bảo vệ cách
mạng đất nước việt nam ta.
Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạng của cả dân tộc, bằng đại đồn kết dân
tộc, có câu khẩu hiệu như:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết, Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng” là một chiến lược
xun suốt q trình cách mạng Việt Nam mà dân ta và đảng luôn hô nó khi chiến đấu và cả
những lúc chiến thắng vẻ vang. Hồ Chí minh, người anh hùng của dân tộc ta, là danh nhân văn
hoá thế giới, người sáng lập, lãnh đạo của đảng cộng sản Việt nam, toàn bộ cuộc đời của hồ chí
minh ln dành cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam chúng ta
Chính vì đó mà em đã lựa chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, liên
hệ bản thân”. Đây là một đề tài hay, có nội dung và ý nghĩa to lớn, nó cịn là bài học sâu sắc cho
mỗi thế hệ.

Bài tiểu luận của chúng em gồm bốn Phần :
I. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
IV. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và liên hệ bản thân.
Mong thầy góp ý kiến sau bài tiểu luận của tụi em , tuy cịn nhiều thiếu sót và những hạn chế do
sai và khách quan để tụi em được bổ sung và sửa chữa để bài chúng em được tốt hơn .

2


PHẦN I :
NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN
KẾT DÂN TỘC
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc được hình thành trên những cơ sở tư tưởng ý
luận và thực tiễn rất phong phú và có giá trị quan trọng.
1.Truyền thống yêu nước, nhân ái , ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt Nam.
Tinh thần yêu nước gắn kết với ý thức mọi người, đoàn kết dân tộc, ý thức cố kết dân tộc
được hình thành và củng cố trong hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh xây dựng nước và giữ nước
của cả dân tộc Việt Nam, tạo nên một truyền thống vững bền , thấm sâu vào bên trong tư tưởng,
tình cảm của mỗi con người Việt Nam. Tinh thần và ý thức ấy đã làm nên một sức mạnh vô địch
của cả dân tộc để chiến thắng mọi gian na thử thách,thiên tai dịch họa, làm cho bản sắc dân tộc
được giữ vững, đất nước được trường tồn vĩnh viễn.
Từ ngàn đời nay, đối với mỗi người Việt Nam tinh thần yêu nước – nhân nghĩa – đồn kết trở
thành đức tính lẽ sống tự nhiên của mỗi người. dân ta thường trao tình cảm cho nhau:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng;
Thành một triết lý nhân sinh dạy cho nhau :
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao;

Thành một phép ứng xử và tư duy chính trị:
Tình làng, nghĩa nước.
Nước mất thì nhà tan.
Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh.
Tất cả đã in đậm trong cấu trúc xã hội truyền thống, là biểu tượng đồn kết gắn bó cộng
đồng, tạo thành quan hệ ba tầng chặt chẽ: nhà – làng – nước (gia đình – làng xã – quốc gia) và
cũng trở thành sợi dây liên kết các dân tộc, các giai cấp, tạo ra sức mạnh giữ vững độc lập và
thình vượng trong xã hội Việt Nam.
Những Truyền thống đó khơng chỉ được phản ánh trong kho tàng văn hóa dân gian, mà còn
được những anh hùng dân tộc, các bậc tiền bối ở các thời kỳ lịch sử khác nhau như Trần Hưng
Đạo, Lê Lợi, Phan Châu Trinh, Nguyễn Trãi, Quang Trung đúc kết thành phép đánh giặc, giữ
nước, “trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”,“tập hợp bốn
phương manh lệ”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, ,...Truyền thống ấy được nối tiếp
trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc chống thực dân pháp và các thế lực phong kiến tiếp tay
cho ngoại bang của các nhà yêu nước và đã để lại những tư tưởng cách thức xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc , mà tiêu biểu nhất là anh hùng Phan Chu Trinh và anh hùng Phan Bội Châu ở
một phần tư đầu thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh đã sớm được hấp thụ truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân
tộc. Người đã khẳng định “từ xưa tới nay, mỗi khi khi Đất Nước bị đơ hộ ,xâm lăng thì ý chí ấy
tinh thần ấy lại sơi nổi, nó đã tạo thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lấn ác qua
mọi sự khó khăn ,nguy hiểm nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Hơn nữa còn
3


phải phát huy truyền thống đó trong giai đoạn cách mạng mới của dân tộc: “phải ra sức tuyên
truyền, tổ chức,giải thích, lãnh đạo, làm cho tinh thần ý chí yêu nước của tất cả mọi người đều
được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến của dân tộc”.
Khẳng định được truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết là cơ sở quan trọng nhất trong
việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
2. Sự tổng hợp phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước

thuộc địa.
Về thực tiễn, tư tưởng đại đoàn kết tồn dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ
sở tổng kết kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng của
nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Sự
thành bại của phong trào đó chính là cơ sở thực tiễn để mọi người học tập, tiếp thu những bài
học cần thiết do tư tưởng đại đồn kết tồn dân tộc hình thành.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước ở Việt Nam diễn ra sôi nổi.
Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế cuối thế kỷ 19 đến các phong trào Đông
Du, Duy Tân, chống sưu thuế đầu thế kỷ 20, các thế hệ yêu nước Việt Nam đã đấu tranh chống
ngoại xâm nhưng phần lớn đều thất bại. Hiện thực tang thương của dân tộc đã chứng kiến sự
bước vào một thời kỳ mới mà Hồ Chí Minh cho rằng, chỉ bằng chủ nghĩa u nước thì khơng
thể đánh bại các thế lực đế quốc xâm lược, đồng thời cũng chứng kiến những hạn chế của quá
trình tập trung quyền lực trước đây và yêu cầu khách quan của lịch sử dân tộc. Vận mệnh của
đất nước địi hỏi phải có sự lãnh đạo cách mạng mới, chỉ ra con đường cách mạng đúng đắn,
phù hợp quy luật phát triển của lịch sử và yêu cầu của thời kỳ mới, đoàn kết toàn dân tộc đấu
tranh chống đế quốc thực dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc bền vững, nhằm giành
thắng lợi trong tình hình hiện nay. Vì điều này, điểm xuất phát của Thành phố Hồ Chí Minh đã
được đặt ra:Tơi muốn đi ra ngồi, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem họ làm như
thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu tình hình của các nước tư
bản và thuộc địa ở hầu khắp các châu lục. Ông nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản, đặc biệt
là cách mạng Mỹ và Pháp, nguyên nhân thắng lợi của giai cấp tư sản và tại sao các cuộc cách
mạng tư sản vẫn chỉ là những cuộc cách mạng “không đến nơi”. Tổng kết thực tiễn đấu tranh
của nhân dân các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh tiềm ẩn to lớn của họ, nhưng
cũng thấy rõ hạn chế của họ: nhân dân thuộc địa chưa có đường lối lãnh đạo đúng đắn, chưa
biết đồn kết, chưa có tổ chức, chưa biết tổ chức.
4


Cách mạng Tháng Mười Nga cùng với lãnh tụ cách mạng Lê-nin đã đưa Hồ Chí Minh đến

một bước ngoặt quyết định trên con đường tìm đường cứu nước của Người. Từ sự hiểu biết
đơn thuần về Cách mạng Tháng Mười, Người đã học cách quán triệt con đường của Cách
mạng Tháng Mười và những bài học quý báu mà Cách mạng Tháng Mười mang lại cho phong
trào cách mạng thế giới: nhất là bài học về vận động, tập hợp rộng rãi quần chúng cơng nơng
giành chính quyền cách mạng, đánh đổ mười bốn đế quốc muốn bóp nghẹt Xô viết, để xây
dựng chủ nghĩa xã hội,mở ra trang sử mới của xã hội lồi người. Hồ Chí Minh tìm hiểu Cách
mạng Tháng Mười khơng chỉ qua báo chí, sách báo mà cịn tìm hiểu trên đất nước của Lê-nin.
Điều này sẽ giúp mọi người hiểu sâu sắc thế nào là “cách mạng tới nơi” và dẫn dắt nhân dân
Việt Nam trên con đường cách mạng mới trong những năm tới.
Đối với cách mạng ở thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến Trung
Quốc và Ấn Độ, tin tưởng hai nước có thể mang lại cho Việt Nam nhiều kinh nghiệm bổ ích
trong việc tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ làm cách mạng (đồn kết dân tộc, giai cấp,
đảng, tơn giáo... để thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng, như chủ
trương “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ công nông”, “hợp tác Quốc – Cộng” của Tôn Trung
Sơn).
3. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Cơ sở lý luận trọng điểm nhất để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân
tộc là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân
tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng to lớn, đoàn kết các dân
tộc quốc tế, giai cấp vơ sản đồn kết các dân tộc, các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
Hồ Chí Minh tiến tới chủ nghĩa Mác - Lênin vì chủ nghĩa Mác - Lênin vì chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ cho những dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng, sự cần thiết và con đường
tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng các nước và toàn thế giới để giành thắng lợi hoàn
toàn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Hồ Chí Minh đến với chế độ thuộc địa chủ yếu là do Người tích cực tham gia cách mạng,
học hỏi chủ nghĩa Mác - Lênin, hiểu Cách mạng Tháng Mười nên Người đã nhanh chóng nắm
bắt được linh hồn của chủ nghĩa Mác - Lênin, những vấn đề cốt lõi của cách mạng và lý luận
khoa học của nó. Nhờ đó, Người có cơ sở khoa học để đánh giá chính xác những yếu tố tích
cực và tiêu cực trong di sản truyền thống, đồng thời hình thành và hoàn thiện tư tưởng này
trên tư tưởng quy tụ sức mạnh tư tưởng của các bậc tiền nhân yêu nước Việt Nam và các nhà

5


cách mạng lớn trên thế giới, đồng thời rút ra bài học từ kinh nghiệm cách mạng các nước đại
đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào Việt Nam.
Người thi hành các khối giống như Liên minh; xây dựng mặt trận; đoàn kết quốc tế, coi cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người thực hiện khéo léo cuộc chiến
tranh nhân dân chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Người kêu gọi toàn dân đấu tranh, toàn
dân đoàn kết. Vận động các tầng lớp nhân dân, thanh niên, gái trai, mọi người Việt Nam đứng
lên giành độc lập.

PHẦN II:
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN
TỘC
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã nói: đại đồn kết là một hệ thống các luận điểm, các nguyên tắc,
các phương pháp và biện pháp để giáo dục, tổ chức, hướng dẫn hành động của các lực lượng
cách mạng nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế trong cuộc
đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Có thể diễn đạt gọn hơn: Tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh là tư tưởng xây dựng, củng cố,
tăng cường, mở rộng lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, giải phóng con người
1. Đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành cơng của cách
mạng.
Hồ Chí Minh đã nói rõ: đồn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Hồ
Chí Minh cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình
cứu lấy mình bằng con đường cách mạng vơ sản. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách
mạng, có thể và ta cần phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập trung lực lượng cho phù
hợp với những đối tượng khác nhau trong từng giai đoạn, nhưng đại đoàn kết dân tộc ln ln
được Hồ Chí Minh coi là vấn đề quan trọng của cách mạng Việt Nam.

Đồn kết khơng chỉ là thủ đoạn chính trị nhất thời mà cịn là tư tưởng cơ bản, nhất quán,
xuyên suốt trong quá trình cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng: muốn đưa cách mạng đến thành cơng thì phải có đủ lực lượng cách
mạng để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành cơng xã hội mới; muốn có lực lượng thì phải
đoàn kết. “Đoàn kết là lực lượng”, tập hợp mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc.
6


Do đó, đồn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố then chốt của
thành cơng.
Ngồi ra phải xây dựng một khối đại đồn kết bao gồm nhiều tầng, mặt trận gắn kết chặt chẽ
với nhau.
Phương châm của đoàn kết dân tộc:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết,
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”.
Kết luận: Đại đồn kết dân tộc khơng phải là vấn đề sách lược nhất thời mà là vấn đề chiến
lược lâu dài, quyết định thành công của cách mạng.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc là một tư tưởng lớn, xuyên suốt hệ thống tư tưởng HCM.
2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương chính sách của
cách mạng, của Đảng và nhà nước
Đường lối chủ trương, chính sách của cách mạng phải góp phần củng cố và tăng cường khối
đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc khơng chỉ là mục tiêu mà cịn là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng của
toàn Đảng, toàn dân, bởi muốn hoàn thành các nhiệm vụ cách mạng, điều có ý nghĩa quyết định
tiên quyết là phải xây dựng được khối đoàn kết.
Đảng cộng sản và những người cách mạng phải có sứ mệnh ra sức tuyên truyền, giáo dục tinh
thần yêu nước và đoàn kết cộng đồng cho các tầng lớp nhân dân ở mọi nơi, mọi lúc, mọi điều
kiện, mọi hồn cảnh.
Hồ chí Minh đã nói rõ: “Đại đồn kết dân tộc khơng chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của

đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Bởi vì thế, đại đồn kết dân tộc
chính là nhiệm vụ của của tồn dân tộc, do tồn dân tộc, vì dân tộc. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh,
tập hợp, đồn kết dân tộc tạo thành sức mạnh trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do
cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đồn kết tồn dân
Trong tưởng Hồ Chí Minh vấn đề Dân được đề cập một cách rõ ràng, “dân” chỉ mọi con dân
đất Việt, con rồng cháu tiên, khơng phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người khơng
tín ngưỡng, khơng phân biệt “già trẻ, gái, trai, giàu, nghèo”, không phân biệt giai cấp chỉ trừ
những kẻ cam tâm làm tay sai cho giặc, đi ngược lại quyền lợi dân tộc.
Hồ Chí Minh đã nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ
quốc; ta còn phải đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức có lịng phục vụ Tổ
7


quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”. Ta ở đây vừa Đảng, vừa là mọi người dân của
Tổ quốc Việt Nam. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Hồ Chí Minh đã dùng khái niệm đại đoàn
kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đồn kết tồn dân trong q trình suốt tiến
cách mạng Việt Nam.
Đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân, là tập hợp mọi người dân vào một
khối thống nhất, một mặt trận đấu tranh chung sống với đế quốc thực dân, chống áp bức bóc lột,
bất cơng.
Khối đồn kết tồn dân phải bao gồm nhiều tầng mặt trận, nhiều cấp độ liên kết từ nhỏ đến
lớn, từ thấp đến cao, từ trong ra ngoài…
Xây dựng khối đoàn kết toàn dân phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân và giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, cá nhân và tập thể, bộ phận và toàn cục,
theo tinh thần lợi ích của giai cấp của bộ phận phải phục tùng lợi ích dân tộc
Khối đại đồn kết toàn dân tộc cần phải dựa trên nền tảng hạt nhân thì mới vững chắc.
Lực lượng nền tảng cho khối đại đồn kết tồn dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là liên minh cơng
nhân – nơng dân – trí thức.
Nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đồn kết dân tộc mới được rộng mở và khơng

một thế lực nào có thể làm suy yếu được.
Phải đặc biệt chú ý đến việc củng cố và tăng cường sự đồn kết thống nhất trong Đảng vì đó là
cơ sở và điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân tộc
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hồ Chí Minh đã nói: đại đồn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, và làm cách mạng với
mục tiêu xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Đại đồn kết dân tộc khơng chỉ dừng lại ở
quan niệm, tư tưởng, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành lời kêu gọi, khẩu
hiệu mà là hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Mà phải biến thành sức mạnh vật chất, thành
lực lượng vật chất của tổ chức cách mạng. Tổ chưc thể hiện khối đại đồn kết dân tộc chính là
Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của đảng
Từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những tên gọi
khác nhau nhưng thực chất nó cũng chỉ là một tổ chứ. Đó là tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp
đơng đảo các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, đảng phái, các cá nhân tổ chức yêu nước ở
trong và ngồi nước phấn đấu vì mục tiêu chung vì tự do độc lập, thống nhất . Mặt trận giải
phóng dân tộc phải có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng
giai đoạn cách mạng Việt Nam .
8


Mặt trận dân tộc thống nhất được xây dựng theo những nguyên tắc sau:
Trên nền tảng liên minh công – nơng- lao động trí óc (trong xây dựng chế độ xã hội mới
có thêm lao động trí óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng. Làm cho mặt trận thực sự tập hợp được cả
dân tộc, tập hợp được toàn dân, kết thành một khối vững chắc
Mặt trận hoạt động dựa trên nguyên tắc hiệp thươngdân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích của
tầng lớp tối cao, của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng mặt trận.
Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Phương
châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” Lấy
cái chung, đề cao cái chung, để loại bỏ cái riêng, cái khác biệt.
5. Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực lượng

lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đồn kết tồn dân ngày càng vững chắc.
Hồ Chí Minh cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam không phải chỉ là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào cơng nhân, mà cịn kết hợp phong trào yêu nước Việt
Nam. Đảng ra đời trong thời kỳ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân gắn chặt với cuộc đấu
tranh dân tộc. Những người tham gia Đảng Cộng sản không phải chỉ là những người thuộc giai
cấp công nhân, mà số đông lại là những người thuộc giai cấp nông dân, tiểu tư sản, các tầng lớp
lao động chân tay và trí óc, kể cả những người vốn thuộc các giai cấp bóc lột đã từ bỏ tư tưởng
sai lầm và lợi ích của giai cấp mình, giác ngộ lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân vì Đảng mang
bản chất giai cấp cơng nhân và lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt.Đảng của nhân dân lao động
và dân tộc, vì Đảng ra đời trong thời kỳ giai cấp công nhân và nhân dân lao động là đại biểu cho
lợi ích của cả dân tộc. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng lại đặt lợi ích của dân tộc
lên trên hết và trước hết vì nếu khơng giành được độc lập cho dân tộc thì lợi ích của giai cấp
cơng nhân “ngàn vạn năm cũng không giải quyết được”.
Đảng đã sử dụng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân
thành để đối xử, cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh bắt ép, quan liêu,
mệnh lệnh, không thể và không được lấy quyền uy của mình để buộc các thành viên khác trong
Mặt trận phải tuân theo.
Muốn lãnh đạo được Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết toàn dân, Đảng phải thực sự
đồn kết nhất trí. Sự đồn kết của Đảng là cở sở vững chắc, để xây dựng sự đoàn kết của toàn
dân. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đồn kết của dân tộc càng được mở rộng.
Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân đã tạo nên sức mạnh của

9


cách mạng Việt Nam để vượt qua mọi khó khăn, đi đến chiến thắng mọi kẻ thù và đi tới thắng
lợi cuối cùng của cách mạng.
6. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế: chủ nghĩa yêu nước chân chính
phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, đây cũng là tư tưởng

lớn của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã sớm xác định rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới, cách mạng Việt Nam chỉ đi đến thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ mối quan hệ với phong trào
cách mạng thế giới.
Trong thời gian chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu
rõ “phải có đảng cách mạng, để khi vận động và tổ chức quần chúng, kêu gọi, liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản, giai cấp mọi nơi” và tư tưởng của Hồ Chí Minh về đồn kết với phong
trào cách mạng thế giới càng rõ ràng hơn và đầy đủ hơn.
Trong cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định
hướng cho việc hình thành ba Mặt trận:
+ Mặt trận đại đồn kết dân tộc
+ Mặt trận đại đoàn kết Việt - Miên – Lào
+Mặt trận nhân dân thế giới với Việt Nam đoàn kết chống đế quốc xâm lược
Đây thực sự là sự phát triển rực rở nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng và đại đoàn kết
của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những luận điểm đã tạo thành nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.
Những luận điểm đó đã được hình thành, từng bước được hồn chỉnh trong q trình tiến lên
của cách mạng Việt Nam và đã được thực tiễn cách mạng kiểm nghiệm.

PHẦN III:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ THỰC TIỄN
CÁCH MẠNG VIỆT NAM.
1. Khối đại đoàn kết dân tộc được xây dựng ngày càng rộng rãi và bền vững
Thực tiễn cách mạng Việt nam trên 70 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống kì
diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân
tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh đạo trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của
đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách
10



mạng xã hội chủ nghĩa.Tư tưởng đó đã thấm sâu vào tư tưởng tình cảm của tất cả những
người Việt Nam yêu nước và biến thành hành động cách mạng của hàng triệu,hang triệu con
người, tạo thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ
tổ quốc.
Hội đại đoàn kết dân tộc được phát triển ngày càng bền vững, cách mạng Việt nam 70 năm
này đã được chứng minh lên sức mạnh, sức sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc ta. Đại đoàn kết dân tộc, là đường lối chiến lược của đảng Cộng sản Việt Nam
trong cách mạng dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. .Tư tưởng đó khắc sâu vào tư
tưởng của tất cả những con người Việt Nam yêu nước và biến thành cuộc cách mạng của tất cả
con dân dất nước, tạo thành thứ sức mạnh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tính chất rộng rãi của một hội đại đoàn kết dân tộc của nước ta được thể hiện mở rộng với
mọi tầng lớp xã hội, mọi ngành, lứa tuổi, dân tộc, tôn giáo tổ chức và cá nhân vào mọi dân tộc
thống nhất. Tính bền vững của một hội đại đoàn kết dân tộc thực hiện qua những việc củng cố
khối liên minh công nhân – nơng dân- lao động sức mạnh lẫn trí tuệ và tăng cường lãnh đạo của
Đảng nhà nước Cộng sản. Mọi sự chứng tỏ mặt trận dân tộc nhân dân thống nhất và càng rộng
rãi thì liên minh giữa cơng nhân-nơng dân- lao động sức mạnh trí tuệ càng mạnh, sự lãnh đạo
của Đảng nhà nước càng vững; dân tộc nước ta được hồn thiện càng có thể mở rộng và sức
mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc càng lớn mạnh với các nước khác.
Cách mạng lịch sử Việt Nam ta sau hơn nửa thế kỉ đã cho ta thấy một điều, ở đâu ,khi nào có
tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được thực hiện và tiến hành đúng, thì lúc đó, nơi
đó, cách mạng việt nam càng phát triển mạnh mẽ và giành được sự thắng lợi; lúc con dân ta xa
rời tư tưởng đó thì đó là lúc cách mạng bị trở ngại và tổn thất nặng nề.
Mặt trận dân tộc thống nhất, vào năm 1962 Hồ Chí Minh đã nói rõ là:
“Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm cách mạng tháng Tám thành công,
lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hịa.
Đồn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hịa bình ở
Đơng Dương, hồn tồn giải phóng miền bắc.
Đồn kết trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành thắng lợi trong công cuộc
khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc.”

Mặt trận thống nhất do các dân tộc, các giai cấp, các quốc nội kết thành nhằm thực hiện cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ, chống lại sự xâm lược và bóc lọt, đơ hộ của chủ nghĩa đế quốc.
11


Về trận dân tộc giải phóng miền Nam, Người khẳng định một điều rằng: “Một mặt trận của nhân
dân đoàn kết mạnh mẽ không kẻ hở và rộng rãi là một lực lượng tất thắng. Hiện nay…nhân dân
ta ở miền Nam cũng có “Mặt trận dân tộc giải phóng” với sự kiện hoạt động thực tế và phù hợp
với nguyện vọng của nhân dân. Từ đó có thể nói rằng nhân dân miền Nam nhất định sẽ dành
thắng lợi, dất nước nhất định sẽ dành được thống nhất, Nam Bắc nhất định sẽ trở về một nhà”.
Sau lần giải phóng hai miền Nam, Bắc, dân tộc cả nước đã thực hiện được di chúc của Bác
Hồ: đánh cho Mỹ đi ra khỏi nước ta, giải phóng được hồn tồn ở miền Nam, thống nhất Tổ
quốc. Sau khi đất nước ta đc bảo vệ toàn vẹn, Mặt trận Việt Nam đã đoàn kết tất cả toàn dân cả
nước bước vào một thời kỳ mới- cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã xây dựng, vun đắp cho
sự phát triển lớn mạnh của mặt trận dân tộc thống nhất. Đánh giá được vai trò của cách mạng
mặt trận ở lú trước và sau này, Bác đã nêu rõ: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ, nhân dân
cũng như trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và là một trong những lực lương lớn của cách
mạng Việt Nam”.
Tại Đại hội thống nhât Việt Minh – Liên Việt, Bác đã phát biểu:
“ Tôi rất vui được lãnh cái trách nhiệm kết thúc lễ khai mạc của đai hội Liên Việt – Việt Minh
thống nhất ”.
Bác đã nói lên khơng chỉ niềm vui mà là còn sự lớn mạnh của mặt trận dân tộc thống nhất, đó
là sự cần thiết phải mở rộng và phát triển củng cố Mặt trận, và niềm tin tưởng vào sự phát triển
bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc lâu dài về sau. Những điều này đã được thể hiện trong
xuất toàn bộ cuộc dấu tranh cách mạng Việt nam, khi Hồ Chí Minh còn sống, và lưu lại tất cả
khi Người đã mất.
Sự nghiệp đổi mới tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc tiếp được Đảng nhà nước ta
sử dụng và phát triển sáng tạo trong thời đại mới dân tộc ta. Nói một cách dễ hiểu hơn , tư tưởng
đoàn kết dân tộc của Đảng từ khi đất nước từng bước vào đổi mới đều từ tư tưởng đại đồn kết

Hồ Chí Minh. Là thứ tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên giai cấp công nhân và nông
dân , đội ngũ lãnh đạo của Đảng liên minh với nhau. Đó là mục tiêu giữ vững độc lập, thống
nhất của Tổ quốc vì một nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh làm
thứ chung , xóa bỏ hièm khích , định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, có một tinh
thần cởi mở, tự tin , cùng hướng đến tương lai. Đại đoàn kết hiện nay là sự nghiệp của cả dân
tộc của tất cả mọi người thống chính trị mà lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng
nhiều biện pháp giúp đất nước hung thịnh với tất cả nước lân cận.

12


2. Từ khi cả nước Việt Nam thống nhất bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa:
Từ khi cả nước Việt Nam dành được độc lập bước vào quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,
bước vào một thời kì đổi mới của xã hội, Đảng và nhà nước Cộng Sản VIệt Nam đã và được
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc phù hợp với tình hình thời đại mới hiện
nay. Đại đoàn kết dân tộc được đảng và nhà nước gọi là một trong những vấn đề có ý nghĩa
quan trọng nhất thiết trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Qua sáu hội nghị đại biểu
toàn quốc của đảng nhà nước( Đại hội IV – 1976, Đại hội V – 1981, Đại hội VI – 1986, Đại hội
VII – 1991, Đại hội VIII – 1996 )......., Đại hội IX (2001) .......và nhiều hội nghị của ban chấp
hành trung ương, từ năm 1976 đến nay, các Nghị quyết của Đảng đều toát lên những tư tưởng
chủ đạo là :
Phải kêu gọi và phát huy đến tối đa sức mạnh dân tộc, đặt lợi ích chung của dân tộc, của đất
nước và của con người lên hàng đầu, đặt tiền đề cho nó làm cơ sở để xây dựng các chủ trương,
chính sách kinh tế - xã hội; nếu là lúc trước sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh để
chiến thắng những nước xâm lượt ta thì bây giờ sức mạnh này phải là sức mạnh để chiến thắng
nghèo nàn, lạc hậu, đưa đất nước tiến thêm bước nữa.
Nó được đặt những lợi ích hàng đầu của dân tộc để mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế,
tranh thủ tất cả những khả năng có thể phát tiển và xây dựng đất nước hùng mạnh.
Tư tưởng chủ đạo sau đây đã thể hiện những thứ quan trong chủ trương, chính sách của đảng
và nhà nước ta trong những năm đổi mới:

Chúng ta cần nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề xây dựng, củng cố và phát triển một
nền tảng vững chắc tư tưởng xã hội dậi đoàn kết, trong sự lãnh đạo cách mạng của nhà nước ,
Đảng Việt Nam luôn luôn coi trọng trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, xã hội coi đó là một trong
ba mặt trận (kinh tế, chính trị và tư tưởng - văn hóa). Vì vậy đó là những thưes quan trọng để
phát triển đất nước từ hồi đó cho đến nay.
Về chính trị, tư tưởng: Đảng dương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, mở rộng Mặt trận dân
tộc thống nhất, chủ trương xóa bỏ những thiện kiến, mặc cảm, hận thù trong quá khứ chiến
tranh, xâm lượt của các nước khác; tập hợp đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong nước và sinh
sống ở nước ngoài vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, lấy liên minh cơng – nơng – trí
thức làm nịng cốt của khối đại đồn kết dân tộc.
Về kinh tế - xã hội: khuyến khích thành lập về phần kinh tế phát triển, xác lập quyền làm chủ
của người lao động trong phần kinh tế, khuyến khích người dân làm giàu chính đáng theo pháp
luật, đồng thời thực hiện các chính sách “xóa đói giảm nghèo”.

13


Về đối ngoại: thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại theo phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
vì hịa bình, độc lập, hợp tác và phát triển”.
Vào lúc 26-6-1999, lần đầu tiên Luật về mặt trận tổ quốc Việt Nam đã được ban hành và được
khẳng định
Mặt trận Tổ quốc Viêt Nam là một trong những bộ phận của hệ thống chính trị của nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, và là cơ sở chính
trị của chính quyền nhân dân việt nam , nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đồn
kết tồn dân, góp một phần sức lực giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh
thổ, đảm bảo sự phát triển hiện đại hóa và cơng nghiệp hóa vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh
3. Ở thời điểm dân tộc ta đang bước vào thế kỉ XXI, những thời cơ và thách thức đan xen
nhau đang thường xuyên tác động đến khối đại đoàn kết dân tộc.

Vào thời điểm mà dân tộc ta đang bước vào thế kỉ XXI, những thách thức và khó khăn xen lẫn
nhau đang liên tục tác động đến khối đại đoàn kết dân tộc nước ta. Thứ quang trọng vào lúc này
nhất , thực tiễn đất nước phải đòi hỏi chúng ta cần quán triệt, triệt để những quan điểm của Hồ
Chí Minh về đại đồn kết dân tộc; phải vận dụng ttoots về mặt sáng tạo và tiếp tục phát triển
những quan điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của một đất nước đang phát triển hiện nay .
Về khối Đại đồn kết dân tộc trong thời kì đổi mới hiện nay phải được củng cố và phát triển:
+ cần phải xóa bỏ được sự đói nghèo, lạc hậu, tụt hậu xa hơn về kinh tế, về khoa học, kỹ thuật
đối với các nước trong khu vực và cả trên thế giới; thực hiện được điều Bác Hồ mong cho đất
nước ta có thể “ Sánh vai với các cường quốc năm châu”, là “xây dựng một nước Viêt Nam hịa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ , giàu mạnh”; hay như Đảng ta đã nêu mục tiêu là : “dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
+ Nhằm khơi dậy tinh thần bất khuất dân tộc, quyết tâm xây dựng đất nước hùng mạnh, không
được bỏ lỡ thời cơ tốt nhất , không được dậm chân tại chỗ trong khi thế giới đang biến đổi một
cách nhanh chóng như hiện nay, phát huy được tinh thần tự lực tự cường, đẩy lùi mọi nguy cơ
khó khăn, thách thức.
Đại đoàn kết dân tộc trong điều kiện được thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa về mọi mặt phát huy được tính năng động của mỗi người, mỗi bộ phận của nhà nước
từ lãnh đạo, quản lí, cho đến sản xuất kinh doanh, học tập và làm việc có năng suất, chất lượng
hiệu quả ngày một cao; mặt khác phải khắc phục được những tiêu cực về kinh tế thị trường, đặc

14


biệt là tâm lí chạy theo đồng tiền thời đại phát triển hiện nay , cạnh tranh không lành mạnh, làm
mất dần truyền thống đại đồn kết, tình nghĩa tương thân tương ái của dân tộc và của Đảng.
Kinh tế thị trường tuy theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng cũng dẫn đến mặt thay đổi
trong tầng lớp xã hội. Vì vậy chúng ta chấp nhận kinh tế tư nhân nhưng khơng được tồn tại lại
giai cấp bóc lột mới, khuyến khích làm giàu một cách trong sạch khơng được phân cực hai đầu,
phát triển kinh tế đồng thời phải giải quyết thỏa đáng chính sách xã hội hiện nay và mối quan hệ
giữa ba lợi ích : xã hội, tập thể, cá nhân, đảm bảo được đời sống và lợi ích của người lao động

khơng ngừng được cải thiện và nâng cao. Dân giàu ở đây là đời sống của mỗi người dân dất
nước ta ngày càng khá hơn, giàu hơn.khơng cịn về nạn đói nghèo. Là tiền đề cơ sở kinh tế để
củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân.
Đại đoàn kết dân tộc cần phải xây dựng một đảng lãnh đạo trung thành và thật sự trong sạch ,
vững mạnh, của một chế độ do nhân dân làm chủ, do dân, vì dân, một hệ thống chính trị tiên
tiến có hiệu quả, hiệu lực.
Phải chống lại các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy, bài bạc...., nhất là các tệ nạn tham nhũng,
vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những ý nguyện chính đáng của nhân dân khơng được
lắng nghe, những oan ức của nhân dân không được kịp thời giải quyết, làm cho lịng tin dân
khơng được tin vào đảng nhà nước, dẫn đến đất nước một đi xuống.
Cấp ủy Đảng và người đứng đầu dất nước thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân
dân, phải lắng nghe những ý kiến đóng góp của nhân dân. Cán bộ, đảng viên phải đi trước làm
gương mẫu học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là về đoàn kết
và xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
Liên tiếp thay đổi, đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, đặc biệt coi trọng đổi mới,
hồn thiện các chính sách dân tộc, chính sách tơn giáo, chính sách đối với cộng đồng người Việt
ở nước ngoài, tập hợp tất cả mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Luật trên mọi mặt Tổ quốc cần phải được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, dầy đủ trên các
chính sách mà đảng nhà nước đề ra, để đảng xứng đáng là một lực lượng to lớn, mạnh mẽ của
hệ thống chính trị nhà nước. Tiếp tục đổi mới bộ máy và hoạt động của Mặt trận đảng và các
đoàn thể nhân dân, loại trừ được các loại bệnh “hành chính hóa” hoặc “hình thức chủ nghĩa”
vẫn hay làm giảm vai trị tính chất của các tổ chức này.
Đại đoàn kết dân tộc trong điều kiện thực hiện chính sách quan hệ mở rộng, hội nhập quốc tế
các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, tồn cầu hóa
kinh tế ngày càng phát triển, địi hỏi phải củng cố được sự đoàn kết tuyệt đối với phong trào
cách mạng các nước, cần phải nắm vững được bài học đồn kết quốc tế của Hồ Chí Minh:
15



“Cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược”, “ Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, luôn luôn
giương cao ngọn cờ hịa bình, độc lập,hợp tác và phát triển.
Đại đoàn kết dân tộc trước hết cần phải nhằm tạo lực và thế để vươn ra bên ngoài và cả trong
nước; ngược lại, mở cửa, hội nhập quốc tế là nhằm làm cho lực và thế trong nước ngày càng
tăng thêm
Sự vật trên thế giới luôn luôn vận động và phát triển một cách đổi mới. Hồn cảnh sẽ khơng
ngừng đổi theo các quy luật tự nhiên và khách quan. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân
tộc sẽ ngày càng phát triển, hoàn thiện từng ngày với thực tiễn hiện nay đang biến đổi nhanh
chóng của đất nước trên con đường đi vào thế kỉ XXI. Tư tưởng ấy vẫn là ngọn nguồn tạo nên
sức mạnh tuyệt đối của cách mạng Việt Nam để đi tới thắng lợi hoàn toàn và xây dựng một đất
nước độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

PHẦN IV:
SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỒN KẾT DÂN TỘC CỦA
ĐẢNG TA VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN.
1. Thực trạng chung.
Nước ta hiện nay đã đạt được những thành tựu cơ bản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt
Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ, do nhân dân quản lý và vì nhân dân. Việt Nam đang
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa và sẵn sàng trở thành đối tác tin cậy của cộng đồng
quốc tế vì hịa bình, độc lập và phát triển.
Trong những ngày đầu thành lập, nền kinh tế đất nước liên tục tăng trưởng với tốc độ cao
so với các nước trong khu vực. Tình hình chính trị trong nước ln ổn định. Tình hình xã hội
có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị
thế của đất nước trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Thế và lực của nước ta
mạnh hơn nhiều so với phong trào đổi mới của những năm trước, cho phép nước ta tiếp tục
đẩy mạnh kết hợp nội lực và sử dụng ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu đến
năm 2020 cơ bản đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; Mặt khác, Việt
Nam đứng trước tình hình đan xen giữa cơ hội lớn và thách thức lớn. doanh nghiệp đổi mới
sáng tạo của đất nước tôi trong vài năm tới, cũng như các cơ hội phát triển của đất nước. Sự

phát huy lợi thế so sánh do nhiều yếu tố quyết định, trong đó nội lực có ý nghĩa rất quan trọng.
16


Cơ hội cho phép nước ta đi tắt, đón đầu, tiếp thu nhanh những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ thế giới.
Mặt khác, chúng ta đã rút ra nhiều bài học từ những thành công và bất cập trong quá trình
đổi mới, thúc đẩy mạnh cách mạng trong hai thập kỷ qua, nhất là trong thời kỳ thúc đẩy cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thành vật và cơ hội cho phép nước ta tiếp tục thúc đẩy cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa Việt Nam trở thành nước công
nghiệp, tiếp tục tiên phong phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
vừa phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa để khơi dậy hơn nữa nội lực
Tuy vậy, chúng ta cũng phải đối mặt với những thách thức, rủi ro hay khó khăn lớn trên
con đường phát triển đất nước. Ví dụ như những nạn tham nhũng, quan liêu, sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, tác phong cơng tác của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên cản
trở việc thực hiện có hiệu quả của các nguyên tắc của đảng và nhà nước đưa ra, làm cho niềm
tin trong nhân dân giảm dần đi. Một mặt, các thế lực phản động không ngừng ra sức thực hiện
âm mưu “diễn biến hịa bình” chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức chống phá khối đại đồn kết tồn
dân ta, ln kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, Tơn giáo
nhằm mục đích chia rẽ, chia rẽ trong Đảng và đất nước ta.
Sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước với mục “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh ”Địi hỏi tồn đảng, tồn qn và nhân dân cả nước phải thực hiện
chiến lược Đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, Liên minh Đại đoàn kết dân tộc dựa trên Liên
minh Công nông và nền tảng tri thức rộng lớn hơn là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Nhiệm vụ và yêu cầu:
Cách đây 64 năm, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tun ngơn Độc lập, khai
sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 64 năm sau, bài học đại đoàn kết toàn dân tộc trong
Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn cịn ngun giá trị. Hơn 20 năm qua, kể từ khi thực hiện “cải cách,

mở cửa”, nhiều chủ trương lớn của Đảng, của Nhà nước đã thực hiện theo ý dân, mở rộng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giai cấp cấp cơng nhân, nơng dân và đội ngũ trí
thức. Các hình thức tập hợp quần chúng ta ngày càng phong phú và phát triển lên một tầm cao
mới, dân chủ xã hội được phát huy,bước đầu thành bầu không khí xã hội dân chủ, cởi mở.
Điều chắc chắn là chính sách liên đồn dân tộc của đảng đã thực sự trở thành một bộ phận
của con đường đổi mới và có đóng góp lớn cho những thành tựu của đất nước.
17


Tuy nhiên, hệ thống đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân đang đứng trước các thức thức mới. Một bộ phận quần chúng nhân dân còn chưa
dám tin vào Đảng, vào đất nước, vào chính quyền, tâm tư phức tạp, lo lắng về khoảng cách
giàu nghèo, việc làm, đời sống. Người dân bất bình trước xã hội bất cơng, tham lam, lãng
đãng, lãng phí, quan liêu….
Nguyên nhân của những điểm yếu, yếu kém nêu trên là: Đảng ta chưa phân tích, dự báo
đầy đủ những biến đổi về cơ cấu giai cấp xã hội và những mâu thuẩn trong nhân dân trong q
trình đổi mới đất hóa nước, để kịp thời những chủ trương phù hợp. Một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên suy thối, sa đọa, khơng nêu gương được trong vai trò tiên phong.
Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết tồn dân ta, lợi dụng kích
động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, Tơn giáo, gây nứt nẻ, chia rẽ
trong nội bộ, trong nội bộ, đảng và trong nhân dân.
Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: củng cố, tăng cường đoàn kết toàn
dân tộc, phát huy khối đoàn kết tồn dân, hồn thành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
vì thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội.Cụ thể:
Trước hết, Đảng ta phải luôn coi cách mạng Việt Nam là bộ phận đột phá, không thể thiếu
của cách mạng vơ sản thế giới, Việt Nam tiếp tục đồn kết, ủng hộ, giúp đỡ phong trào cách
mạng và xu thế tiến bộ của thời đại, phấn đấu vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Thứ hai, kiên định nguyên tắc độc lập dân tộc, tự chủ tự cường, chủ trương phát huy sức
mạnh dân tộc… trên cơ sở đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ lực lượng bên ngoài, nhằm

thực hiện thắng lợi mục tiêu mỗi thời kỳ.
3. Những chú ý khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh:
Lý luận gắn liền với thực tiễn:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với
thực tiễn cách mạng các thời kỳ. Hồ Chí Minh chỉ rõ lý luận mà khơng áp dụng vào thực tiễn
chỉ là lý thuyết, thực tiễn mà không làm rõ lý luận là thực hành mù quáng. Trong tình hình
hiện nay, vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng, củng cố và mở rộng khối Đại đoàn
kết toàn dân tộc, chúng ta cần lưu ý những vấn đề sau:
Trước hết, cần nhận thức đúng đắn rằng đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và
động lực chủ yếu thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
18


Thứ hai, lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm nền tảng chung, xóa bỏ mặc
cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, tầng lớp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin
cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.
Ba là, bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, hợp pháp, chính
đáng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân; thực hiện hài hịa lợi ích của cá nhân, tập thể và toàn
xã hội; thực hiện dân chủ, kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; khơng ngừng tu
dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc, đoàn kết dân tộc, tự lực, tự cường để xây
dựng đất nước; coi đó là nhân tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết, liên
minh toàn dân tộc.
Thứ tư, đại đoàn kết là sự nghiệp của tồn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, với tổ chức
Đảng làm nòng cốt, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức khác nhau, trong đó quan
trọng nhất là sự nghiệp của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. (xong)
4. Ý nghĩa tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh:
- Đại đồn kết tồn dân tộc là tư tưởng lớn có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với
cách mạng nước ta. Hệ thống tư tưởng này có rất nhiều giá trị, chủ yếu ở các điểm sau:
-


Đoàn kết là bài học đầu tiên, là sách lược, quyết định mọi thành bại. Biết đồn kết thì
vượt qua khó khăn thử thách, khơng đồn kết thì thất bại.

-

Đồn kết phải có ngun tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Khơng có đồn kết một
chiều, khơng có đồn kết hình thức, nhất thời.

-

Đoàn kết trong tổ chức và tạo nên sức mạnh thơng qua tổ chức. Đồn kết cá nhân và
đồn kết tổ chức khơng thể tách rời nhau.

-

Đồn kết phải có cái cho mọi miền, mọi tổ chức, mọi thời kỳ. Một chính sách đồn kết
các tầng lớp nhân dân.
- Đồn kết, khoan dung, nhân đạo, hướng tới tương lai.
Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của đảng và là biện pháp tăng cường
sức mạnh của đảng và dân tộc.
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì trong Đảng phải thực sự đồn kết.
- Thực hành đồng thời các đoàn kết trong Đảng - đoàn kết toàn dân - đoàn kết quốc tế.
- Trên cơ sở bảo vệ và tơn trọng lợi ích của đất nước, dân tộc và mọi thành viên trong
cộng đồng quốc tế, đoàn kết thực hiện mọi đường lối, chủ trương của Đảng, của đất
nước.
19


5. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới hiện nay :
a. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc :

Đảng và đất nước muốn thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Trong những năm gần đây, về tổng thể, khối liên minh đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở
liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức tiếp tục được mở rộng, là nhân tố
quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất
nước. Tuy nhiên, mặc dù sự nghiệp mới có u cầu cao về tính gắn kết, nhưng tính gắn kết của
các cấp chính quyền, đồn thể, tổ chức xã hội còn hạn chế, nhất là khu vực kinh tế tư nhân,
khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, một số vùng có đơng đồng bào tơn giáo, dân
tộc thiểu số...
Trong q trình đổi mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là tổ chức liên minh
chính trị, liên minh tự nguyện lớn nhất của nhân dân ta, là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của
các tầng lớp nhân dân, là nơi hiệp thương, thống nhất hành động của các thành viên, phối hợp
với chính quyền giải quyết ngày càng hiệu quả những vấn đề bức xúc của nhân dân, thực hiện
dân chủ, chăm lo lợi ích chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích chính đáng của xã hội.
Tham gia ngày càng có hiệu quả cơng tác xây dựng, kiểm tra, bảo vệ đảng, chính quyền.
Với vai trị là nền tảng chính trị của Chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
ngày càng phối hợp chặt chẽ với chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương trên các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải tích cực phối hợp với
Đảng, Nhà nước hoạch định và hồn thiện nhiều chính sách chung, lấy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc làm động lực chủ yếu, nhân tố quyết định, bảo đảm thắng lợi lâu dài của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trương “Mọi
thành phần xã hội trong và ngồi nước, khơng phân biệt giai cấp, dân tộc, tơn giáo, đồn kết
rộng rãi, chân thành vì mục tiêu chung bảo vệ độc lập, thống nhất, chủ quyền, tồn vẹn lãnh
thổ quốc gia vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Sự
đoàn kết giữa nhân dân các nước trên thế giới; việc phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trở
thành động lực chủ yếu để củng cố và bảo vệ Tổ quốc”.

Trong những năm tới, Mặt trận tập trung đẩy mạnh hơn nữa các cuộc vận động thi đua yêu
nước, nhất là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”,
20



×