Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.2 KB, 3 trang )
Hoa đăng tiêu-Vị thuốc quí
Cả hai đều thuộc họ núc nác (bignoniaceae). Trong đó
đăng tiêu hoa to được dùng phổ biến hơn.
Campsis radicans (L.) Seem
Đó là một loại dây leo, xanh tốt quanh năm, thân mảnh
màu xám hoặc nâu nhạt, có những chùm rễ ký sinh. Lá
kép lông chim, mọc đối gồm 7 – 9 lá chét hình trứng, mép
khía răng. Cụm hoa mọc ở đầu cành thành chùm có 5-8
hoa màu đỏ da cam, thẫm dần về phía mép. Quả nang, hạt
có cánh mỏng. Mùa hoa từ tháng 5-10.
Hoa đăng tiêu được ghi trong các sách y học cổ truyền
của Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản với bộ phận
dùng chủ yếu là những bông hoa mới nở, thu hái vào mùa
hè thu, phơi hoặc sấy ở nhiệt độ khoảng 50oC để bảo đảm
màu sắc và phẩm chất của dược liệu. Về thành phần hóa
học, đăng tiêu hoa to chứa apigenin, còn đăng tiêu châu
Mỹ có capsanthin. Dược liệu có vị đắng, chua, tính hơi
lạnh, không độc, vào các kinh can và tâm, có tác dụng ích
khí, lương huyết, điều kinh, làm tan máu tụ, chủ trị các
bệnh ở phụ nữ. Liều dùng hằng ngày: 5-10g dưới dạng
thuốc sắc, thuốc hãm hoặc thuốc bột.
Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác trong những
trường hợp sau:
Chữa kinh nguyệt không đều: Hoa đăng tiêu 40g, nghệ
đen (nga truật) 20g, đương quy 20g. Tất cả thái nhỏ, phơi
khô, tán bột mịn. Ngày uống hai lần, mỗi lần 6-8g.