Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Phân vô cơ - phân lân docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.69 KB, 5 trang )

Phân vô cơ - phân lân

Bón quá nhiều phân lân trong nhiều trường hợp có thể
làm cho cây bị thiếu một số nguyên tố vi lượng. Vì vậy, cần bón
thêm phân vi lượng, nhất là Zn.

* Phôtphat nội địa:
Đó là loại bột mịn, màu nâu thẫm hoặc đôi khi có màu
nâu nhạt. Tỷ lệ lân nguyên chất trong phân thay đổi rất nhiều, từ
15% đến 25%. Loại phân thường có trên thị trường có tỷ lệ là 15
– 18%.
Trong phân phôtphat nội địa, phần lớn các hợp chất lân
nằm ở dạng khó tiêu đối với cây trồng. Phân có tỷ lệ vôi cao,
cho nên có khả năng khử chua.
Vì lân trong phân ở dưới dạng khó tiêu, cho nên phân chỉ
dùng có hiệu quả ở các chân đất chua. Ở các chân ruộng không
chua, hiệu lực của loại phân này thấp; ở loại đất này, loại phân
này dùng bón cho cây phân xanh có thể phát huy được hiệu lực.
Phân này chỉ nên dùng để bón lót, không dùng để bón thúc.
Khi sử dụng có thể trộn với phân đạm để bón, nhưng trộn
xong phải đem bón ngay, không được để lâu.
Phân này dùng để ủ với phân chuồng rất tốt.
Phân phôtphat nội địa ít hút ẩm, ít bị biến chất, cho nên có
thể cất giữ được lâu. Vì vậy, bảo quản tương đối dễ dàng.

* Phân apatit:
Là loại bột mịn, màu nâu đất hoặc màu xám nâu.
Tỷ lệ lân nguyên chất trong phân thay đổi nhiều. Thường
người ta chia thành 3 loại: loại apatit giàu có trên 38% lân; loại
phân apatit trung bình có 17 – 38% lân; loại phân apatit nghèo
có dưới 17% lân.


Thường loại apatit giàu được sử dụng để chế biến thành các
loại phân lân khác, còn loại trung bình và loại nghèo mới được
đem nghiền thành bột để bón cho cây.
Phần lớn lân trong phân apatit ở dưới dạng cây khó sử
dụng.
Apatit có tỷ lệ vôi cao nên có khả năng khử chua cho đất.
Phân này được sử dụng tương tự như phôtphat nội địa.
Sử dụng và bảo quản phân này tương đối dễ dàng vì phân ít
hút ẩm và ít biến chất.

* Supe lân:
Là loại bột mịn màu trắng, vàng xám hoặc màu xám thiếc.
Một số trường hợp supe lân được sản xuất dưới dạng viên.
Trong supe lân có 16 – 20% lân nguyên chất. Ngoài ra,
trong phân này có chứa một lượng lớn thạch cao. Trong phân
còn chứa một lượng khá lớn axit, vì vậy phân có phản ứng chua.
Phân dễ hoà tan trong nước cho nên cây dễ sử dụng. Phân
thường phát huy hiệu quả nhanh, ít bị rửa trôi.
Supe lân có thể dùng để bón lót hoặc bón thúc đều được.
Phân này có thể sử dụng để bón ở các loại đất trung tính,
đất kiềm, đất chua đều được. Tuy nhiên, ở các loại đất chua nên
bón vôi khử chua trước khi bón supe lân.
Supe lân có thể dùng để ủ với phân chuồng.
Nếu supe lân quá chua, cần trung hoà bớt độ chua trước khi
sử dụng. Có thể dùng phôtphat nội địa hoặc apatit. Nếu đất chua
nhiều dùng 15 – 20% apatit để trung hoà, đất chua ít dùng 10 –
15%. Nếu dùng tro bếp để trung hoà độ chua của supe lân thì
dùng 10 – 15%, nếu dùng vôi thì tỷ lệ là 5 – 10%.
Phân supe lân thường phát huy hiệu quả nhanh, cho nên để
tăng hiệu lực của phân, người ta thường bón tập trung, bón theo

hốc, hoặc sản xuất thành dạng viên để bón cho cây.
Phân này có thể dùng để hồ phân rễ mạ.
Supe lân ít hút ẩm, nhưng nếu cất giữ không cẩn thận phân
có thể bị nhão và vón thành từng cục. Phân có tính axit nên dễ
làm hỏng bao bì và dụng cụ đong đựng bằng sắt.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×