Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND huyện và đại biểu HĐND cấp xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.32 KB, 22 trang )

1
PHẦN MỞ ĐẦU
I. BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI

Thực hiện Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa
phương 2019, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 và các
văn bản pháp lý có liên quan, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp nói chung và tiếp xúc cử tri của đại biểu
HĐND nói riêng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Đây là yêu cầu tất yếu
của công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát của bộ máy nhà nước
các cấp; là thực tế bức thiết của cuộc sống, nhằm ngày càng hoàn thiện thiết chế dân
chủ, bảo đảm cho Nhân dân thực hiện được quyền lực của mình theo Hiến pháp và
pháp luật. Nâng cao năng lực hoạt động của HĐND các cấp cũng chính là điều kiện
quan trọng để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội cũng như bảo đảm
thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Trong những năm qua, hoạt động tiếp xúc cử tri của HĐND các cấp đã ngày
càng đi vào chiều sâu, có tính hiệu quả cao, phát huy tối đa quyền làm chủ của người
dân. Cùng với đó, vai trò của đại biểu HĐND các cấp đang ngày được nâng lên, tạo
được uy tín trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu, quy định trong Luật Tổ chức chính
quyền địa phương 2015 và các văn bản pháp luật liên quan. Song bên cạnh đó, hoạt
động của HĐND các cấp nói chung và công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND
nói riêng vẫn cịn bộc lộ khơng ít tờn tại, khó khăn, vướng mắc cần khác phục. Nhiều
đại biểu HĐND, nhất là cấp xã chưa phát huy tốt vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của người dịa biểu dân cử, nhất là trong hoạt động tiếp xúc cử tri theo quy
định của luật. Do vậy, chủ trương của Đảng, Nhà nước hiện nay là cần tăng cường
hơn nữa vị trí, vai trò của người đại biểu dân cử, phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt
động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND các cấp, góp phần giữ vững ổn định chính
trị, phát triển kinh tế - xã hội là một yêu cầu tất yếu.
II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI


Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho
ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Ngày nay, Hội đồng nhân dân
các cấp đang ngày càng khơng ngừng hồn thiện để phát huy được vai trị và sứ
mệnh lịch sử của mình, để đảm đương được sự tín nhiệm mà nhân dân giao phó.


2

Việc nâng cao chất lượng công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp là một yêu cầu bức thiết đặt ra nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ
của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, việc tiếp tục nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND các cấp đang là
một yêu cầu đặt ra trong thực tiễn.
Việc thực hiện công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND có ý nghĩa hết sức
quan trọng thể hiện vai trò của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, cơ quan
đại biểu của nhân dân địa phương góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của các cơ quan Nhà nước ở địa phương, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân địa
phương. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tạo điều kiện pháp lý để đại biểu HĐND
thực hiện tốt chức năng này.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay thì vấn đề nâng cao hơn nữa chất
lượng công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu của HĐND càng được chú trọng hơn
nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong
sạch, vững mạnh. Thời gian qua hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND huyện
và đại biểu HĐND cấp xã trên địa bàn huyện Lộc Hà có nhiều chuyển biến tích cực,
đã có sự đổi mới cả về tổ chức, nội dung và phương thức giám sát nên đã đạt được
kết quả đáng ghi nhận: Nhiều vấn đề bức xúc của cử tri được quan tâm giải quyết,
niềm tin của nhân dân đối với HĐND được nâng lên, nhân dân ngày càng gắn bó,
quan tâm, theo dõi và tích cực tham gia vào các hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu
của HĐND, làm cho vị thế của HĐND ngày càng được đề cao, góp phần quan trọng
vào việc xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh và hiệu quả. Xuất phát từ

thực tiễn trên, tôi chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động
tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND huyện và đại biểu HĐND cấp xã trên địa bàn
huyện Lộc Hà”.
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đại biểu HĐND cấp huyện và cấp xã. Đề
tài nghiên cứu sâu hơn khái niệm về người đại biểu HĐND, về vị trí, vai trò, trách
nhiệm, quyền hạn của đại biểu HĐND và công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu
HĐND. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động tiếp cúc cử tri của đại biểu
HĐND cấp huyện và cấp xã trên địa bàn huyện Lộc Hà. Thông qua việc nghiên cứu
đề tài góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động công tác tiếp xúc cử tri của địa biểu
HĐND hai cấp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND huyện Lộc Hà.


3
IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Thực tế đã cho thấy hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND cấp huyện,
xã có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của HĐND. Hầu hết các đại biểu HĐND hai
cấp đều đáp ứng được yêu cầu, quy định đã được ghi trong Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan, tạo được uy tín,
vai trị của mình đối với cử tri, với nhân dân. Song bên cạnh đó vẫn còn những khó
khăn như chủ yếu là đại biểu kiêm nhiệm nên hoạt động cịn nặng về chun mơn,
chưa khẳng định và thể hiện rõ vai trò cũng như hoạt động cụ thể của người đại biểu
HĐND, kể cả trong công tác tiếp xúc cử tri…
Nghiên cứu đề tài khơng ngồi mục đích chỉ ra được những tồn tại, hạn chế
trong hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND, những vướng mắc trong cơ chế,
trong hệ thống văn bản… đối với trách nhiệm, quyền hạn, hoạt động của người đại
biểu dân cử; qua đó đề xuất được các giải pháp, nhóm giải pháp đối với các bản thân
từng đại biểu HĐND, đối với Thường trực, các Ban HĐND, các Tổ đại biểu HĐND,

với cấp ủy, cơ quan liên quan, tổ chức, cá nhân… nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND, cũng là nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND
hai cấp, đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà
nước, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
V. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngoài các phần lý luận, thực trạng về Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng
nhân dân; hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND hai cấp, đề tài đã chỉ rõ hơn
những tồn tại, hạn chế trong hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND gắn với
điều kiện cụ thể của từng địa phương, chỉ ra được nguyên nhân của những tồn tại yếu
kém đó; phân tích sâu hơn những bất cập trong cơ chế, trong hệ thống văn bản quy
định về hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND các cấp.
Đề tài cũng nghiên cứu kỹ hơn những nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND hai cấp, trong đó tập trung phân tích sâu các
nhóm giải pháp, đề xuất kiến nghị; chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
trong công tác tiếp xúc cử tri đối với đại biểu HĐND.
Đề tài dễ áp dụng đối với các địa phương, đơn vị, có tính nhân rộng cao, phạm
vi rộng, khơng địi hỏi nhiều kinh phí; khai thác tốt hơn, phát huy tốt hơn vai trò,
trách nhiệm của người đại biểu dân cử, phát huy hiệu quả hoạt động của HDNĐ các
cấp nói chung và công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND nói riêng.


4

PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1. Các khái niệm
1.1. Khái niệm về Hội đồng nhân dân
Theo Luật Tổ chức Chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015, Hội

đồng nhân dân là "cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương
bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên".
Điều 113 Hiến pháp năm 2013 xác định: Hội đồng nhân dân là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của
địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Hội đồng nhân dân với tính cách là cơ quan đại diện, cơ quan tập thể có
phương thức hoạt động theo kỳ họp, ra nghị quyết về các vấn đề xây dựng địa
phương và giám sát (giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước khác ở địa
phương, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân và giám sát
việc tuân theo pháp luật ở địa phương).
Theo khoản 1, 2, 3, 4 Điều 6 Luật Tổ chức chính qùn địa phương năm 2015
thì Hội đờng nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương
bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng
và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ
quan nhà nước cấp trên.
Thường trực Hội đồng nhân dân là cơ quan thường trực của Hội đồng nhân
dân, thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội
đồng nhân dân. Thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân không thể đồng thời
là thành viên của Ủy ban nhân dân cùng cấp.
Ban của Hội đồng nhân dân là cơ quan của Hội đồng nhân dân, có nhiệm vụ
thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trước khi trình Hội đờng nhân dân, giám


5


sát, kiến nghị về những vấn đề thuộc lĩnh vực Ban phụ trách; chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân.
Theo Điều 26 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định về nhiệm
vụ, quyền hạn của HĐND cấp huyện có nhiệm vụ đảm bảo việc thi hành Hiến pháp
và pháp luật trên tất cả các lĩnh vực như an ninh - quốc phòng, xây dựng chính
quyền; kinh tế, tài nguyên, môi trường, văn hóa, xã hội… Việc đảm bảo việc thực
hiện theo Hiến pháp và pháp luật của HĐND cấp huyện chính là ở việc ban hành các
Nghị quyết, tổ chức giám sát việc thực hiện các Nghị quyết đó.
Điều 33 của Luật Tổ chức chính qùn địa phương thì Hội đờng Nhân dân xã
có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Nhân dân xã. Quyết định biện pháp bảo đảm trật
tự, an tồn xã hội, đấu tranh, phịng, tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác,
phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong phạm vi được phân quyền; biện pháp bảo
vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài
sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn xã.
Thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của xã, trước khi
trình Ủy ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành
phố trực thuộc trung ương phê duyệt. Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước
trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách xã; điều chỉnh dự toán ngân sách xã trong
trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách xã. Quyết định chủ trương đầu
tư chương trình, dự án của xã trong phạm vi được phân quyền…
1.2. Khái niệm về đại biểu Hội đồng nhân dân
Điều 115 Hiến pháp năm 2013 xác định: Đại biểu Hội đồng nhân dân là người
đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương; liên hệ chặt chẽ với cử
tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt
động của mình và của Hội đờng nhân dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử
tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đại biểu Hội đồng nhân dân
có nhiệm vụ vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính sách của
Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên Nhân dân tham gia quản lý
nhà nước. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân,

các thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân. Người bị
chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền


6

kiến nghị với các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị ở địa phương. Người đứng đầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến
nghị của đại biểu.
Theo khoản 2, Điều 6, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì
Đại biểu Hội đờng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân
địa phương, chịu trách nhiệm trước cử tri địa phương và trước Hội đồng nhân dân về
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình. Đại biểu Hội đờng nhân dân
bình đẳng trong thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
Hội đồng nhân dân.
Tiêu chuẩn của đại biểu hội đồng nhân dân được quy định tại Điều 7 của Luật
này như sau:
Trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện
cơng cuộc đởi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp
hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi
biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Có
trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín
để thực hiện nhiệm vụ đại biểu; có điều kiện tham gia các hoạt động của Hội đồng
nhân dân. Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được
Nhân dân tín nhiệm.
1.3. Vị trí, vai trị, hoạt động của đại biểu HĐND trong hoạt động của
HĐND hai cấp
Sứ mệnh của người đại biểu hội đồng nhân dân được được quy định rõ qua hệ

thống các văn bản của Nhà nước: Từ Hiến pháp Việt Nam năm 1980 (Điều 119),
Hiến pháp năm 1992 (Điều 122) và được sửa đổi bổ sung năm 2001 (Điều 121); cho
đến Hiến pháp mới nhất hiện hành năm 2013 (Điều 115), đều có định nghĩa và quy
định vai trò, trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Hội đồng nhân dân. Đặc
biệt, trong Luật Tổ chức HĐND và UBHC (Ủy ban hành chính) năm 1962, cho đến
Luật Tổ chức HĐND và UBND qua các năm, ban hành mới nhất là Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 cũng dành riêng một Chương (Mục) kèm theo
quy định tại nhiều điều (khoảng 09 đến 14 điều) về các nội dung, vấn đề liên quan
trực tiếp đến đại biểu Hội đờng nhân dân. Qua rà sốt các văn bản quy phạm pháp
luật liên quan cho thấy thời gian càng về sau thì việc quy định vai trị, trách nhiệm,


7

nhiệm vụ, quyền hạn đối với đại biểu Hội đồng nhân dân ngày càng rõ ràng, cụ thể
hơn. Càng không ngẫu nhiên khi các quy định pháp luật hiện hành sớm bổ sung quy
định cụ thể liên quan đến việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc thôi làm nhiệm vụ đối
với các đại biểu không đảm bảo được các điều kiện để thực hiện nhiệm vụ của người
đại biểu nhân dân.
Trên hết, Hiến pháp, Luật và các văn bản triển khai Luật đều khẳng định sứ
mệnh của Đại biểu Hội đồng nhân dân là “Người đại diện cho ý chí, nguyện vọng
của nhân dân địa phương”. Và hiển nhiên rằng, mỗi người dân địa phương khi cầm
tấm phiếu để bầu ra đại biểu Hội đồng nhân dân đều mong muốn người đại biểu ấy
thực sự làm cầu nối hiệu quả; là người đại diện mạnh mẽ cho tiếng nói của mình
trước các cấp chính quyền ở địa phương; thiết thực góp phần giúp cho quyền lợi
chính đáng và cuộc sống của người dân được đảm bảo tốt hơn.
Về hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân được biểu hiện rõ qua các quyền
và trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân và được quy định từ Điều 93 đến
Điều 105 chương VI của Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Trong đó có quy
định rõ:

Đại biểu hội đồng nhân dân có trách nhiệm tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên
họp hội đồng nhân dân, tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ,
quyền hạn của Hội đồng nhân dân; Đại biểu hội đồng nhân dân có trách nhiệm tiếp
xúc cử tri trước các kỳ họp Hội đồng nhân dân để kịp thời năm bắt tâm tư, nguyện
vọng của cử tri phản ánh tới các cơ quan chức năng, có trách nhiệm liên hệ chặt chẽ
với cử tri ở đơn vị bầu cử bầu ra mình, chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm
thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri ít nhất mỗi năm
một lần, có trách nhiệm báo cáo với cử tri kết quả kỳ họp, phổ biến các nghị quyết
của Hội đồng nhân dân sau các kỳ họp của Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng
nhân dân có trách nhiệm trong việc tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị của công dân. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công
dân, đại biểu hội đồng nhân dân có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến
người có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
biết, đôn đốc, theo dõi, giám sát việc giải quyết.
Về quyền của đại biểu Hội đồng nhân dân được quy định: Đại biểu HĐND có
quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ủy viên


8

Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp. Bên cạnh đó, đại biểu hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị Hội đồng
nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu,
tổ chức phiên họp bất thường, phiên họp kín của Hội đồng nhân dân và kiến nghị về
những vấn đề khác mà đại biểu thấy cần thiết. Khi phát hiện hành vi vi phạm pháp
luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân, đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan thi
hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật. Khi
thực hiện nhiệm vụ, qùn hạn của mình, đại biểu Hội đờng nhân dân có quyền yêu

cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó…
Trong Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ trách nhiệm của đại biểu
Hội đồng nhân dân đối với cử tri và Nhân dân được thể hiện ở hai nội dung lớn:
Một là, trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri và Nhân dân
được thể hiện qua trách nhiệm chung của Hội đồng nhân dân. Như vậy, ở vai trị
thực hiện cơng vụ địa phương, Hội đờng nhân dân sẽ quyết định chính sách địa
phương về việc thực hiện công vụ địa phương, đồng thời giám sát việc thực hiện các
chính sách này.
Hai là, trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri và Nhân dân
được thể hiện qua trách nhiệm của từng đại biểu Hội đồng nhân dân. Điều 115 Hiến
pháp năm 2013 quy định rõ địa vị pháp lý của Đại biểu Hội đồng nhân dân: “Đại
biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa
phương”. Theo đó, đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm sau:
Đối với cử tri
- Đại biểu Hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra
mình, chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý
kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri với Hội đồng nhân dân và cơ quan nhà nước
hữu quan ở địa phương.
- Mỗi năm một lần vào cuối năm, kết hợp với việc tiếp xúc cử tri, đại biểu
Hội đồng nhân dân báo cáo với cử tri ở đơn vị bầu ra mình về hoạt động trong năm,
nhiệm vụ năm tới của mình và của Hội đờng nhân dân.
- Sau mỗi kỳ họp Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có trách
nhiệm báo cáo với cử tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị


9

quyết của Hội đồng nhân dân, vận động và cùng với nhân dân thực hiện các nghị
quyết đó.

Tại kỳ họp Hội đồng nhân dân
- Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ chấp hành nội quy kỳ họp, tham
dự đầy đủ kỳ họp, phiên họp của Hội đồng nhân dân, cuộc thảo luận ở Tổ đại biểu
Hội đồng nhân dân, cuộc họp Ban của Hội đồng nhân dân mà đại biểu là thành viên,
tham gia các hoạt động khác của Hội đồng nhân dân.
- Khi nhận được thông báo về thời gian, dự kiến chương trình và tài liệu kỳ
họp, đại biểu Hội đồng nhân dân phải nghiên cứu tài liệu, tiếp xúc cử tri, tham gia
các hoạt động của Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân chuẩn bị cho kỳ họp Hội đồng
nhân dân.
- Trong kỳ họp Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có những
nhiệm vụ sau đây: Tham gia thảo luận và quyết định chương trình kỳ họp; Thảo
ḷn tại phiên họp tồn thể và thảo luận ở Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân về các vấn
đề thuộc nội dung, chương trình kỳ họp; Biểu quyết thông qua những vấn đề thuộc
nội dung, chương trình kỳ họp.
Trách nhiệm tiếp xúc cử tri, tiếp công dân
- Trong thời gian giữa hai kỳ họp, đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ
tiếp xúc cử tri ở đơn vị bầu cử của mình, phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân
dân với Hội đồng nhân dân và các cơ quan Nhà nước, báo cáo kết quả kỳ họp với cử
tri, tuyên truyền thực hiện tốt pháp luật.
- Đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp công dân nhằm thu thập ý kiến, nguyện
vọng, kiến nghị của công dân; giải thích, tuyên truyền chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước cho công dân; hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo và nhận đơn thư của công dân để chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Khi nhận được ý kiến, kiến nghị của công dân, đại biểu Hội đồng nhân dân
xem xét, nghiên cứu để phản ánh tới Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc chuyển
đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
- Khi nhận được khiếu nại, tố cáo của công dân, đại biểu Hội đồng nhân dân
có trách nhiệm nghiên cứu và hướng dẫn công dân gửi khiếu nại, tố cáo đến đúng cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp cần thiết, đại



10

biểu Hội đồng nhân dân trực tiếp hoặc thông qua Thường trực Hội đồng nhân dân
chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để xem xét giải quyết. Đại
biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm đôn đốc, theo dõi cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
- Đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp công dân phải tổng hợp ý kiến, kiến nghị,
đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân để báo cáo Thường trực Hội đồng nhân dân
Cụ thể hóa hơn quy định của Hiến pháp về trách nhiệm tiếp công dân của đại
biểu dân cử, ngày 15/5/2014, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số
759/2014/UBTVQH13 quy định chi tiết về hoạt động tiếp công dân của các cơ quan
của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, HĐND và đại biểu HĐND các cấp.
Theo đó, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có trách nhiệm tiếp công dân
đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh,
Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã có
trách nhiệm tổ chức để đại biểu Hội đờng nhân dân cấp mình tiếp công dân.
Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện việc tiếp công dân
tại Trụ sở tiếp công dân cùng cấp và tại nơi tiếp công dân ở địa phương mà đại biểu
ứng cử theo sự bố trí của Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp. Trường hợp đại
biểu Hội đồng nhân dân chuyển sinh hoạt đến địa phương khác trong cùng đơn vị
hành chính cấp đại biểu được bầu thì thực hiện việc tiếp công dân ở nơi chuyển đến.
Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện
thực hiện việc tiếp công dân theo sự bố trí của Thường trực Hội đồng nhân dân cùng
cấp; đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã tiếp công dân theo sự bố trí của Chủ tịch Hội
đồng nhân dân cấp xã.
Tóm lại, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân không chỉ phụ thuộc vào
cách thức tổ chức hoạt động chuyên nghiệp của Hội đồng nhân dân mà điều quan
trọng hơn là phụ thuộc vào chính năng lực, trách nhiệm của các đại biểu Hội đồng

nhân dân trước cử tri và Nhân dân. Do đó, trong thời gian tới, mỗi Đại biểu dân cử
nói riêng và cơ quan dân cử nói chung cần phải tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực,
hiệu quả hoạt động của mình trong việc thực hiện các nhiệm vụ cơ bản được Nhân
dân ủy quyền. Đó chính là việc làm thiết thực nhất thể hiện trách nhiệm của từng đại
biểu, của cơ quan dân cử với sự tín nhiệm của cử tri và Nhân dân.
2. Hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân


11

Trong nhiệm kỳ qua, các đại biểu Hội đồng nhân dân hai cấp đã tham gia đầy
đủ các hoạt động của Hội đồng nhân dân như hoạt động giám sát, tiếp xúc cử tri, các
kỳ họp, phiên họp của Hội đồng nhân dân và dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân địa
phương nơi đại biểu ứng cử. Chủ động thu thập thông tin để tham gia phát biểu, chất
vấn trong các kỳ họp. Nắm bắt kịp thời tình hình địa phương nơi ứng cử để trực tiếp
giải thích, đối thoại với Nhân dân tại các buổi tiếp xúc cử tri. Nắm bắt các ý kiến,
kiến nghị của cử tri để đề xuất với các cơ quan liên quan giải quyết, tạo niềm tin
tưởng của cử tri vào Hội đồng nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực như trên, cũng cần nhìn nhận
khách quan hoạt động của đại biểu Hội đờng nhân dân vẫn cịn một số hạn chế nhất
định. Đó là: Đại biểu chủ yếu hoạt động kiêm nhiệm, nên thời gian dành cho hoạt
động của Hội đồng nhân dân chưa nhiều, từ đó dẫn đến việc nghiên cứu, xem xét,
đưa ra các giải pháp hiệu quả và quyết định những vấn đề quan trọng, nhất là về kinh
tế - xã hội, ngân sách nhà nước, xây dựng cơ bản còn có nội dung chưa sâu. Trong
các kỳ họp, phần nhiều các ý kiến phát biểu tập trung vào các kiến nghị cử tri, chưa
nêu được các giải pháp tháo gỡ khó khăn. Chất lượng hoạt động của đại biểu chưa
đồng đều, một số ít đại biểu chưa thật sự tích cực tham gia các hoạt động của Hội
đờng nhân dân, cịn thiếu tự tin, ngại va chạm trong hoạt động giám sát, đặc biệt là
trong chất vấn chưa quyết liệt truy đến cùng về nguyên nhân và trách nhiệm tổ chức,
cá nhân liên quan đến nội dung chất vấn. Một số đại biểu chưa sắp xếp công việc,

thời gian để tham dự đầy đủ các kỳ họp của Hội đờng nhân dân nơi mình ứng cử nên
chưa nắm bắt và chuyển tải kịp thời tình hình và những vướng mắc của địa phương
với cơ quan chức năng… Từ đó, dẫn đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân bị hạn chế, phần nào cịn hình thức và chưa thực chất. Ngồi ra, một
số hạn chế thuộc về cơ chế, chính sách cũng ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả
hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân như: chưa có quy định cụ thể đại biểu Hội
đồng nhân dân phải dành bao nhiêu thời gian trong tháng/quý cho hoạt động đại biểu
dân cử; không có chế độ sinh hoạt định kỳ để nhận xét đánh giá hoạt động của Tổ đại
biểu và đại biểu Hội đồng nhân dân, không qui định đại biểu Hội đồng nhân dân định
kỳ phải báo cáo kết quả hoạt động của mình trước cử tri nơi ứng cử...
Nguyên nhân của thực trạng trên, trước hết do lĩnh vực hoạt động của Hội
đờng nhân dân rất rộng, địi hỏi đại biểu phải có kiến thức tổng quát và kinh nghiệm
thực tiễn, trong khi đó công tác quy hoạch cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng nhằm tạo
nguồn đại biểu Hội đồng nhân dân chưa được quan tâm. Bên cạnh đó, khi thực hiện


12

hiệp thương lựa chọn ứng cử viên để bầu cử đại biểu Hội đờng nhân dân cịn nặng về
cơ cấu, khơng những thế một đại biểu cịn phải gánh nhiều cơ cấu.
Một số đại biểu nặng về nhiệm vụ chuyên môn ở cơ quan, chưa dành thời gian
nghiên cứu, cập nhật thông tin cần thiết để phục vụ hoạt động Hội đồng nhân dân, do
vậy ít có đóng góp vào các hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Một số đại biểu HĐND được bầu theo cơ cấu ít có điều kiện tiếp cận với các
nguồn thông tin nên việc tiếp thu, giải trình kiến nghị của cử tri trong tiếp xúc cử tri
cịn hạn chế. Trong việc chất vấn ngồi việc thiếu thơng tin, thiếu tự tin trong trình
bày ý kiến chất vấn, còn có tâm lý cho là gây không khí căng thẳng trong kỳ họp,
băn khoăn sau chất vấn ảnh hưởng đến bản thân hoặc cơ quan, đơn vị…
Số lượng đại biểu thiếu tính ổn định. Công tác bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng
hoạt động cho đại biểu Hội đờng nhân dân sau khi được bầu cịn hạn chế, không

thường xuyên, nặng về lý luận, thiếu những kinh nghiệm thực tiễn cụ thể trong hoạt
động của đại biểu. Do vậy, sau tập huấn trình độ đại biểu chưa được nâng lên. Đa số
đại biểu hoạt động theo kiểu vừa học vừa làm.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ

1. Tổ chức của Hội đồng nhân dân hai cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021
1.1. Cấp huyện
- Tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân huyện đầu nhiệm kỳ có 30 vị, trong
nhiệm kỳ có 08 đại biểu cho thôi làm nhiệm vụ do chuyển công tác và nghỉ chế độ
chuyển ra khỏi địa bàn; bãi nhiệm 01 đại biểu do vi phạm kỷ luật; số đại biểu Hội
đồng nhân dân huyện cuối nhiệm kỳ 21 vị.
- Cơ cấu: Đại biểu nữ, 8 vị, chiếm tỷ lệ 26,7%, ngoài đảng 02 vị, chiếm 6,7%,
tái cử 11 vị, chiếm tỷ lệ 36,7%, tôn giáo 01 vị, chiếm tỷ lệ 3,3%.
- Thành phần: Cơ quan Đảng 6 vị, chiếm tỷ lệ 20%; chính quyền 7 vị, chiếm
tỷ lệ 23,3%; MTTQ và các đoàn thể 6 vị, chiếm tỷ lệ 20%; quân sự, công an 02 vị,
chiếm tỷ lệ 6,7 %; cơ quan, đơn vị khác 9 vị, chiếm 30%.
- Số lượng đại biểu chuyên trách:
+ Thường trực Hội đồng nhân dân: Đầu nhiệm kỳ, có 02 đồng chí Phó Chủ
tịch Hội đồng nhân dân chun trách; hiện tại cịn 01 đờng chí Ủy viên Ban Thường
vụ Huyện ủy, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện chuyên trách.


13

+ Các Ban của Hội đồng nhân dân: Đầu nhiệm kỳ gồm 02 Phó trưởng Ban
chuyên trách; hiện nay không cịn đại biểu chun trách.
- Số lượng Tở đại biểu được chia thành 06 tổ ở 06 đơn vị bầu cử.
1.2. Cấp xã, thị trấn
- Đầu nhiệm kỳ 2016 - 2021, tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã được
bầu là 335 vị/13 xã. Trong đó, đại biểu nữ là 94 vị, chiếm 28%, đại biểu tôn giáo 20

vị, chiếm 6%, đại biểu ngoài đảng là 41 vị chiếm 12%. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, có
13 đại biểu miễn nhiệm, cho thôi nhiệm vụ và từ trần đã được Hội đồng nhân dân các
xã, thị trấn miễn nhiệm qua các kỳ họp Hội đồng nhân dân. Tổng số đại biểu Hội
đồng nhân dân xã, thị trấn cuối nhiệm kỳ 2016 - 2021 còn 312 người (trong đó 89
nữ, chiếm tỷ lệ 28,5%, ngoài đảng 38 vị chiếm 12%, tôn giáo 16 vị chiếm 5%).
+ Thường trực Hội đồng nhân dân: đầu nhiệm kỳ 26 đồng chí/13 đơn vị hành
chính, hiện nay 23 đồng chí/ 12 đơn vị hành chính.
+ Các Ban Hội đồng nhân dân: Đầu nhiệm kỳ 131 người, hiện nay cịn 122
người gờm: Trưởng, phó và thành viên các Ban hoạt động kiêm nhiệm.
2. Thực trạng công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND hai cấp trong
thời gian qua
2.1 Kết quả đạt được
Trong nhiệm kỳ 2016 - 2021, hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng
nhân dân hai cấp được tăng cường gắn với việc đởi mới hình thức, nâng cao chất
lượng. Thường trực Hội đồng nhân dân huyện, xã đã phối hợp chặt chẽ với Thường
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc các xã tổ chức tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp cho các Tổ đại biểu
Hội đồng nhân dân trước các kỳ họp.
Thường trực HĐND huyện tổ chức 11 đợt tiếp xúc cử tri tại 140 điểm cho đại
biểu HĐND huyện với sự tham gia của trên 22.500 lượt cư tri. Tỷ lệ đại biểu HĐND
huyện tham gia tiếp xúc với cử tri đạt trên 95%. Tại các cuộc tiếp xúc cử tri đã có
hàng ngàn lượt ý kiến, kiến nghị của tri với các cơ quan chức năng, ngoài các ý kiến
được cơ quan chức năng, đại biểu Hội đồng nhân dân huyện tiếp thu, giải trình trực
tiếp, đã có 296 lượt ý kiến được tổng hợp (bằng văn bản) gửi đến các cơ quan chức
năng xem xét, giải quyết và trả lời cho cử tri theo đúng quy định, đạt tỷ lệ trên 95%.


14

Thường trực Hội đồng nhân dân các xã, thị trấn tổ chức trên 15.000 lượt tiếp

xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã tại các thôn, xóm. Tỷ lệ đại biểu
Hội đồng nhân dân xã tham gia tiếp xúc với cử tri đạt trên 94%. Tại các cuộc tiếp
xúc cử tri đã có hàng chục ngàn lượt ý kiến, kiến nghị của tri với các cơ quan chức
năng, ngoài các ý kiến được cơ quan chức năng, đại biểu Hội đồng nhân dân xã tiếp
thu, giải trình trực tiếp, đã có 1.292 lượt ý kiến được tổng hợp (bằng văn bản) gửi
đến các cơ quan chức năng xem xét, giải quyết và trả lời cho cử tri theo đúng quy
định, đạt tỷ lệ trên 90%.
Thường trực Hội đồng nhân dân hai cấp đã phối hợp tốt với các cơ quan liên
quan trong công tác tiếp công dân; các ý kiến kiến nghị của công dân được trả lời
trực tiếp hoặc được tiếp nhận, phân loại gửi đến các cơ quan có thẩm quyền xem xét,
giải quyết và trả lời cho công dân theo thẩm quyền.
Thường trực Hội đồng nhân dân cùng với lãnh đạo Hội đồng nhân dân tham
gia tiếp công dân 01 tháng 01 lần vào ngày 20 hàng tháng đối với cấp huyện, 02 tuần
1 lần đối với cấp xã, thị trấn. Ngoài ra cịn tham gia các cuộc tiếp cơng dân đột xuất
khi có đề nghị.
Tổng số đơn thư được gửi đến Hội đồng nhân dân huyện là 19 đơn, kiến nghị
đề xuất là 19 đơn; cấp xã 82 đơn, kiến nghị đề xuất. Đến thời điểm hiện tại, hầu hết
các đơn thư kiến nghị, đề xuất, phản ánh đã được giải quyết 100%.
Tại các cuộc tiếp xúc cử tri, các vị đại biểu Hội đồng nhân dân huyện đã nêu
cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện nghiêm túc kế hoạch đề ra. Công tác tiếp xúc cử
tri ngày càng được đổi mới, hướng tới mở rộng thành phần, đối tượng cử tri, tiếp xúc
đến tại thôn, xóm đã tạo điều kiện để người dân đối thoại dân chủ, trực tiếp với đại
biểu. Hầu hết ý kiến, kiến nghị của cử tri được các đại biểu Hội đồng nhân dân
huyện và cơ quan chức năng đối thoại, giải trình trực tiếp khá đầy đủ, có phương
hướng giải quyết cụ thể. Sau hội nghị tiếp xúc cử tri, các Tổ đại biểu đã tổ chức làm
việc với lãnh đạo địa phương để thống nhất nội dung ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi
đến kỳ họp.
Nhìn chung, đại biểu Hội đờng nhân dân hai cấp đã thực hiện nhiệm vụ tiếp
xúc cử tri khá nghiêm túc, nhất là thực hiện tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp. Đây
là hình thức tiếp xúc cử tri có tính chất bắt buộc, do vậy đại biểu Hội đồng nhân dân

các cấp thực hiện từng bước đi vào nề nếp, có chiều sâu, mối quan hệ giữa đại biểu


15

với cử tri ngày càng củng cố gắn bó chặt chẽ. Cử tri cũng có ý thức cao hơn trong
việc tham gia đóng góp ý kiến, kiến nghị xây dựng địa phương, đất nước.
Tại các kỳ họp của Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân đều phát
biểu tiếp thu ý kiến của đại biểu Hội đồng nhân dân và ý kiến, kiến nghị của cử tri,
chỉ đạo các ngành, các cấp, địa phương, đơn vị giải quyết. Hầu hết các kiến nghị của
cử tri thông báo tại các kỳ họp đã và đang được Ủy ban nhân dân các cấp chỉ đạo
giải quyết; một số nội dung tuy chưa thể giải quyết được ngay nhưng đã có kế hoạch,
lộ trình giải quyết. Kết quả đó có thể chưa đáp ứng được đầy đủ nguyện vọng của
nhân dân, nhưng so với khả năng và tình hình thực tế của tỉnh thì những nội dung đã
và đang giải quyết thể hiện rõ sự nỗ lực của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và
các cơ quan chức năng ở huyện, xã tập trung giải quyết có trọng tâm, trọng điểm
những vấn đề cử tri kiến nghị, như: đầu tư cho nông nghiệp, thôn thôn và nông dân;
công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư các dự án; cơ chế chính sách khuyến khích
phát triển sản xuất kinh doanh thuộc các lĩnh vực; giải quyết chính sách đối với
người có công; chế độ chính sách đối với giáo viên mầm non....
Các cơ quan phối hợp cũng đã thể hiện và làm khá tốt trách nhiệm theo quy
định của các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là thực hiện quy trình tở chức các đợt
tiếp xúc từ khâu lập kế hoạch cho đến khâu giải quyết các ý kiến nghị cử tri.
Q trình thực hiện cơng tác tiếp xúc cử tri các đại biểu Hội đồng nhân dân đã
cơ bản phản ánh được tâm tư, nguyện vọng của cử tri đến diễn đàn Hội đồng nhân
dân, cùng Hội đồng nhân dân đôn đốc Ủy ban nhân dân, các ngành giải quyết kiến
nghị của cử tri, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước.
Qua hoạt động tiếp xúc cử tri, đại biểu Hội đồng nhân dân đã bổ sung nhiều
kinh nghiệm thực tiễn quý báu để tham gia quyết định các vấn đề quan trọng ở địa
phương. Nhiều vấn đề cử tri nêu lên đã được Hội đồng nhân dân đưa ra bàn thảo công

khai, hoặc chất vấn tại kỳ họp, được cử tri hoan nghênh, đờng tình. Vị thế và uy tín
của Hội đờng nhân dân ngày càng được nâng lên.
2.2. Những tồn tại, hạn chế trong công tác tiếp xúc cử tri
Mặc dù đã đạt được những kết quả như trên, nhưng hoạt động tiếp xúc cử tri
của đại biểu Hội đồng nhân dân hai cấp cịn bộc lộ nhiều tờn tại cần được tập trung
khắc phục:
Một số tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và địa phương chưa quan tâm đúng
mức công tác tiếp xúc cử tri, chưa thực hiện nghiêm việc đổi mới công tác tiếp xúc


16

cử tri như mở rộng hình thức, địa điểm tiếp xúc, thành phần cử tri. Công tác tiếp xúc
cử tri nơi cư trú, nơi làm việc, tiếp xúc cử tri theo chuyên đề; gặp gỡ tiếp xúc cá
nhân, nhóm cử tri…còn hạn chế.
Một số đại biểu chưa nghiên cứu đầy đủ thông tin về kinh tế - xã hội và các
lĩnh vực liên quan đến nội dung kỳ họp để trao đởi với cử tri. Việc giải trình và tiếp
thu các ý kiến, kiến nghị của một số đại biểu tại các cuộc tiếp xúc chưa thực sự ấn
tượng, thuyết phục. Đại diện các cơ quan chuyên môn của UBND huyện, xã cùng
tham dự các cuộc tiếp xúc cử tri cịn ít. Vẫn cịn tình trạng một số đại biểu vắng mặt
tại các cuộc tiếp xúc.
Công tác tổ chức để đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp xúc cử tri cịn nhiều hạn
chế bất cập. Người chủ trì chưa làm tốt cơng tác định hướng nội dung cuộc tiếp xúc.
Tình trạng “cử tri chuyên nghiệp, đại biểu kiêm nhiệm” diễn ra cịn phở biến. Cơng
tác nắm bắt thơng tin phục vụ cho đại biểu tiếp xúc cử tri còn yếu.
Đại biểu Hội đồng nhân dân chưa tổ chức tiếp xúc cử tri một cách độc lập
(mỗi đại biểu một điểm tiếp xúc) mà chủ yếu tiếp xúc cử tri với sự tham gia của cả
tập thể tổ đại biểu. Nguyên nhân của tình trạng này là do mặc dù Luật tổ chức Chính
quyền địa phương có nêu ra vấn đề đại biểu tiếp xúc cử tri độc lập nhưng không bắt
buộc, cử tri khơng u cầu; mặt khác trình độ, năng lực, vị trí công tác, kỹ năng “nói

cho cử tri nghe và nghe cử tri nói” của đại biểu chưa đờng đều, nhiều đại biểu cịn
yếu nên chưa đủ tự tin để tổ chức tiếp xúc độc lập với cử tri.
Việc phân loại, giải trình và tiếp thu của đại biểu Hội đồng nhân dân tại các
cuộc tiếp xúc một số tổ đại biểu làm chưa tốt, nhiều ý kiến đã được các cơ quan chức
năng giải trình đầy đủ, hoặc chưa đủ điều kiện để giải quyết vẫn tiếp thu tổng hợp;
chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa tổ đại biểu với Thường trực Hội đồng nhân dân
xã, và cơ quan tham mưu trong việc tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri, nhiều tổ
đại biểu cịn khốn trắng việc tởng hợp cho Thường trực, Ủy ban MTTQ cấp xã.
Chất lượng giải quyết một số ý kiến, kiến nghị của cử tri chưa cao, thiếu kịp
thời; một số nội dung còn có sự khác nhau giữa báo cáo trả lời của UBND tại hội
nghị tiếp xúc cử tri và việc thực hiện của các cơ quan chức năng. Việc theo dõi, đôn
đốc, giám sát UBND, các ngành, địa phương, đơn vị giải quyết ý kiến, kiến nghị cử
tri chưa thường xuyên, có lúc còn bỏ ngõ, chưa thực sự đáp ứng được nguyện vọng
của nhân dân.


17

Tóm lại, hoạt động tiếp xúc cử tri đến nay vẫn là khâu yếu, cịn mang tính hình
thức, chủ yếu là tiếp xúc theo định kỳ, tiếp xúc theo chuyên đề còn hạn chế; số điểm
tiếp xúc cử tri chưa nhiều; việc tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri ở một số cụm xã cịn
bị động, cơng tác chuẩn bị sơ sài, chưa thông báo rộng rãi nên chưa thu hút được
đông đảo thành phần cử tri tham dự. Sự phối hợp giữa Ủy ban MTTQ với Thường
trực Hội đồng nhân dân các cấp trong việc chuẩn bị kế hoạch, tập hợp, tổng hợp ý
kiến, kiến nghị của cử tri có lúc còn thiếu khoa học và chưa chặt chẽ. Việc trả lời ý
kiến, kiến nghị của cử tri chưa được quan tâm đúng mức…
2.3 Nguyên nhân
Nguyên nhân của kết quả đạt được
Thứ nhất: Các văn bản quy phạm pháp luật như Luật Tổ chức chính quyền địa
phương 2015 và các văn bản có liên quan đã quy định khá đầy đủ về yêu cầu, quy

trình thủ tục của các loại hình tiếp xúc cử tri. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng đờng
thời cũng là quy trình, thủ tục nghiệp vụ tạo điều kiện cho Thường trực HĐND,
MTTQ, các cơ quan chức năng và đại biểu hội đồng thực hiện nhiệm vụ tiếp xúc cử
tri.
Thứ hai: Nhận thức của các cấp, các ngành, của đại biểu HĐND và cử tri đều
được nâng lên, nên tinh thần trách nhiệm trong việc tổ chức và thực hiện nhiệm vụ
tiếp xúc cử tri ngày càng tốt.
Thứ ba: Các điều kiện về kinh tế xã hội, cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế, thông
tin ngày càng nâng lên đã tạo điều kiện cho hoạt động tiếp xúc cử tri được tiến hành
thuận lợi.
Thứ tư: Trình độ năng lực, kỹ năng của đại biểu HĐND ngày càng cao giúp
các đại biểu thực hiện nhiệm vụ của mình tốt hơn.
Thứ năm: Bộ máy tham mưu phục vụ của cơ quan dân cử ngày càng hoàn
thiện, nhất là cấp tỉnh, tính chuyên nghiệp ngày càng rõ, đã tham mưu, phục vụ hoạt
động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND nói riêng và các hoạt động của HĐND nói
chung đạt hiệu quả ngày càng cao.
Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất: Các văn bản pháp luật quy định về thực hiện hoạt động tiếp xúc cử
tri của đại biểu HĐND còn bất cập như: chỉ mới quy định có tính chất bắt buộc đối
với hội nghị tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp, cịn nhiều loại hình để đảm bảo mối


18

liên hệ giữa đại biểu HĐND với cử tri hiệu quả hơn chưa được quy định; trách nhiệm
của các cơ quan liên quan trong việc tổ chức hoạt động tiếp xúc cử tri cho đại biểu
không quy định cụ thể; chưa có chế tài về trách nhiệm của các cơ quan trong việc
giải quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri…
Thứ hai: Do lĩnh vực hoạt động của HĐND rất rộng, địi hỏi đại biểu phải có
kiến thức tởng quát và kinh nghiệm thực tiễn. Trong khi đó, quy định về tiêu chuẩn

đại biểu rất khái quát, chung chung. Mặt khác công tác quy hoạch cán bộ để đào tạo,
bồi dưỡng nhằm tạo nguồn đại biểu HĐND chưa được quan tâm. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng để nâng cao kỹ năng hoạt động cho đại biểu cũng còn nhiều hạn chế; nội
dung, phương pháp chậm đổi mới… do đó trình độ, kỹ năng hoạt động của một số
đại biểu chưa đáp ứng yêu cầu. Đa số đại biểu hoạt động theo hình thức vừa học vừa
làm, đảm trách cơng việc chuyên môn là chính nên chất lượng hoạt động hạn chế.
Thứ ba: Số đại biểu hoạt động chuyên trách của HĐND các cấp rất ít: (HĐND
huyện 4/29 đại biểu chiếm 13,8%) những đại biểu kiêm nhiệm có trình độ, nắm bắt
nhiều thông tin thường giữ những vị trí quan trọng trong các cơ quan hành pháp nên
thời gian dành cho hoạt động HĐND có hạn, lại nể nang, né tránh nên ít khi phản
biện, chất vấn để làm rõ trách nhiệm của cá nhân, đơn vị liên quan.
Một số đại biểu được bầu theo cơ cấu ít có điều kiện tiếp cận, cập nhật thông
tin, trong khi việc cung cấp thông tin cho các đại biểu HĐND cũng chưa được quy
định cụ thể, đại biểu cũng ít đặt ra yêu cầu nên cơ quan tham mưu phục vụ chưa
cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin cho đại biểu. Từ đó đại biểu HĐND gặp nhiều
trở ngại trong việc báo cáo, giải trình tiếp thu trong các hội nghị tiếp xúc cử tri cũng
như tham gia ý kiến tại diễn đàn kỳ họp .
Thứ tư: Trong khi đại đa số đại biểu HĐND hoạt động kiêm nhiệm, thì cơ cấu
tổ chức bộ máy, số lượng cán bộ công chức, viên chức và các quy định về chức năng
nhiệm vụ của cơ quan tham mưu phục vụ còn nhiều bất cập, chậm được bở sung sửa
đởi. Trình độ năng lực đội ngũ cán bộ cơng chức, viên chức cịn nhiều hạn chế chưa
đáp ứng yêu cầu.
3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tiếp xúc cử tri của đại
biểu Hội đồng nhân dân hai cấp
Trên cơ sở những trình bày, phân tích, nhận định, đánh giá nêu trên, có thể
rút ra một số nhóm giải pháp, giải pháp để phát huy những kết quả đã đạt được,
từng bước khắc phục những tồn tại, hạn chế còn gặp phải và đề ra các giải pháp


19


để không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng công tác tiếp xúc cử tri của đại
biểu Hội đồng nhân dân hai cấp trên địa bàn huyện như sau:
Một là: Tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động
tiếp xúc cử tri
Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết các quy định của pháp luật liên quan tới công
tác tiếp xúc cử tri, đề nghị Quốc hội, Chính phủ sửa đổi, bổ sung để các quy định của
pháp luật về hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND ngày càng hoàn thiện,
thiết thực, hiệu quả.
Hai là. Tập trung khắc phục những tồn tại của hoạt động tiếp xúc cử tri
thời gian qua. Tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định về TXCT trong Luật và
quy chế hoạt động HĐND; tổ chức nhiều hình thức tiếp xúc cử tri
Trước hết, Thường trực HĐND phối hợp tốt với Ban Thường trực Mặt trận tổ
quốc Việt Nam cùng cấp xây dựng kế hoạch tiếp xúc cử tri cho đại biểu HĐND thật
sự khoa học, bám sát các yêu cầu đổi mới nâng cao hiệu quả tiếp xúc cử tri theo
Nghị quyết HĐND cùng cấp.
Nâng cao ý thức và trách nhiệm của các cơ quan có nhiệm vụ tổ chức và phối
hợp tổ chức cho đại biểu HĐND tiếp xúc cử tri, trong đó chú trọng vai trò tham gia
các cuộc tiếp xúc cử tri của chính quyền huyện và cơ sở để thực hiện nhiệm vụ tiếp
thu và giải trình các nội dung liên quan tới địa phương. Đối với các địa bàn dự kiến
có các nội dung liên quan tới các ngành cấp huyện thì mời thủ trưởng hoặc các
phòng, ban chức năng liên quan dự để giải trình. Khắc phục việc trong tiếp xúc cử tri
không đối thoại với cử tri, đại biểu tiếp thu tất cả các ý kiến, kiến nghị.
Tăng cường công tác tập huấn về kỹ năng tiếp xúc cử tri cho đại biểu HĐND,
như kỹ năng chuẩn bị báo cáo, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nói, kỹ năng lắng nghe, kỹ
năng tởng hợp giải trình, tiếp thu... để hồn thành tốt nhiệm vụ của người đại biểu
dân cử.
Tổ chức nhiều hình thức tiếp xúc cử tri phù hợp, bảo đảm để đại biểu HĐND
tiếp xúc với cử tri ở đơn vị bầu cử, nơi cư trú, nơi công tác. Tiếp xúc cử tri theo
chuyên đề, lĩnh vực, đối tượng, địa bàn mà đại biểu HĐND quan tâm. Đại biểu

HĐND dành thời gian tiếp xúc, thâm nhập đời sống Nhân dân, nắm bắt, tìm hiểu tâm
tư, nguyện vọng của cử tri ở địa bàn ứng cử. Ngoài việc tiếp xúc cử tri theo kế hoạch
của HĐND, đại biểu cần chủ động tiếp xúc, giữ mối liên hệ với cử tri bằng các hình
thức khác theo hướng đối thoại trực tiếp với nhân dân.


20

Ba là: Tăng thời gian, số điểm tiếp xúc cử tri, mở rộng tiếp xúc cử tri
Căn cứ vào thực tế của từng địa phương, các tổ đại biểu HĐND thống nhất với
Thường trực HĐND, Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ cấp xã tăng thời gian, số điểm
tiếp xúc cử tri về tận thôn xóm, hạn chế thủ tục hành chính, tiếp xúc “đại cử tri”. Bố
trí thành phần chủ trì hội nghị tiếp xúc cử tri theo quy định.
Thời gian tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri trước kỳ họp chậm nhất là 15 ngày
trước ngày khai mạc kỳ họp. Nội dung, chương trình, lịch tiếp xúc cử tri của đại biểu
HĐND phải được thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng; tạo
điều kiện thuận lợi để cử tri có thể tham dự các cuộc tiếp xúc và dành thời gian thích
đáng để cử tri nêu ý kiến, kiến nghị.
Nội dung báo cáo trước cử tri phải được các đại biểu HĐND chuẩn bị chu đáo,
kỹ lưỡng; báo cáo với cử tri những nội dung cụ thể mà kỳ họp sẽ quyết định; khắc
phục tình trạng báo cáo chung chung, khơng định hướng, gợi mở được những vấn đề
cần cử tri phát biểu ý kiến.
Sau hội nghị tiếp xúc cử tri, các tổ đại biểu HĐND tổ chức làm việc với lãnh
đạo địa phương để thống nhất các nội dung về ý kiến, kiến nghị của cử tri và lựa
chọn nội dung chất vấn gửi đến Kỳ họp. Ý kiến, kiến nghị của cử tri do Tổ đại biểu
HĐND phân loại, tổng hợp, gửi tới Thường trực HĐND cùng cấp chậm nhất là 10
ngày trước ngày khai mạc kỳ họp.
Trong thời gian diễn ra Kỳ họp, tổ chức tốt việc trực và tiếp nhận thông tin của
cử tri thông qua đường dây nóng, công bố rộng rãi địa chỉ email của Chủ tọa Kỳ họp,
Tở Thư ký kỳ họp và Văn phịng giúp việc để thu thập ý kiến, kiến nghị của cử tri

gửi tới kỳ họp.
Bốn là: Nâng cao chất lượng công tác tổng hợp, trả lời ý kiến, kiến nghị của
cử tri
Đối với báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi tới kỳ họp, Thường
trực HĐND giao cho Văn phòng (hoặc bộ phận giúp việc) tiếp nhận các báo cáo của
các tổ đại biểu và tham mưu tổng hợp. Báo cáo phải tinh gọn, chính xác, rõ. Sau khi
được kỳ họp thông qua, UBND phân công trách nhiệm cho các cơ quan hữu quan kịp
thời trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri. Báo cáo tổng hợp trả lời ý kiến, kiến nghị của
cử tri gửi tới Thường trực HĐND bằng văn bản chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày bế
mạc kỳ họp.



×