Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận quan hệ pháp luật tranh chấp trong luật tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.3 KB, 38 trang )

Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật tố tụng dân sự quy định, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ, việc dân
sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm
vị đơn khởi kiện đơn yêu cầu đó. Căn cứ việc đương sự yêu cầu giải quyết vấn
đề gì để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp. Việc xác định đúng, đầy đủ quan
hệ pháp luật tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định vụ việc có
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án; các tài liệu chứng cứ cần thu thập; xác
định đương sự của vụ án; xác định được căn cứ pháp luật cần áp dụng để giải
quyết. Trên thực tế quan hệ pháp luật đa dạng, phức tạp nên việc xác định quan
hệ pháp luật tranh chấp dựa vào yêu cầu của đương sự trong một số trường hợp
không hề dễ dàng, xảy ra nhiều khó khăn vướng mắc cho các cơ quan tiến hành
tố tụng.
Từ ngày 1/7/2017, các bản án, quyết định của TAND các cấp theo quy
định tại Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
sẽ được cơng bố trên Cổng thơng tin điện tử của Tịa án. Để thực hiện có hiệu
quả quy định trên, ngày 25 tháng 5 năm 2017, Toà án nhân dân tối cao đã tổ
chức hội nghị tập huấn viết bản án cho toàn ngành. Nghị quyết số 01/2017/NQHĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao về việc ban hành 93 biểu mẫu kèm theo. Hoạt động này của Toà án là nhằm
nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc giải quyết trong hệ thống ngành,
trong đó có nội dung xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án.
Thực tiễn, trong thời gian qua, tác giả được tiếp cận những vụ án của Toà
án địa phương, một số Toà án trong hệ thống ngành thấy những vướng mắc, bất
cập, sai sót trong việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp. Với nhận thức là
cần làm rõ một số vấn đề về lý luận, đánh giá việc xác định quan hệ pháp luật


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn


tranh chấp trên thực tiễn từ đó chỉ ra những vướng mắc, khó khăn và giải pháp
khắc phục để rút kinh nghiệm cho bản thân và cho đồng nghiệp trong ngành.
Đó cũng là lý do tác giả chọn đề tài tiểu luận này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có nhiều bài viết, cơng trình đã nghiên cứu ở cấp độ khác nhau liên quan
đến “xác định quan hệ tranh chấp trong tố tụng dân sự lý luận và thực tiễn”. Có
thể kể đến Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: "Vị trí, vai trị và chức năng
của Tịa án nhân dân trong bộ máy nhà nước qua các thời kỳ cách mạng Việt
Nam" của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) năm 1996; Đề án: "Đổi mới tổ
chức và hoạt động của ngành Tư pháp" của Bộ Tư pháp năm 1996; Đề tài khoa
học cấp Bộ: "Những yêu cầu và giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ
Tòa án nhân dân" của TANDTC năm 1999. Đây là những cơng trình, bài viết
đề cập đến những nội dung khác nhau, ở một số khía cạnh mang tính riêng lẻ
vấn đề xác định các tranh chấp phát sinh trong tố tụng dân sự, Đề tài "xác định
quan hệ tranh chấp trong tố tụng dân sự" là quá trình phân loại các tranh chấp
trong thủ tục tố tụng dân sự, trên cơ sở đó có cái nhìn tổng quan về hoạt động
giải quyết vụ án dân sự tại hệ thống Tòa án, để giải quyết vụ án một cách triệt để
và chính xác nhất.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Là những qui định của pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật nội dung về các
loại quan hệ tranh chấp và thực tiễn giải quyết trong từng vụ án cụ thể trong Toà
án, đề tài cịn phân loại từng các loại tranh chấp có thể phát sinh trong quá trình
giải quyết vụ án, từ đó có thể đưa ra những đường lối khắc phục, hạn chế những
sai sót trong việc giải quyết tranh chấp.
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là xác định các loại tranh chấp
thường gặp trong tố tụng dân sự, đồng thời nêu lên một số khó khăn vướng mắc
trong quá trình giải quyết án và hướng giải quyết xử lý.
2



Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được triển khai trên cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nêu những điểm bất lợi và có lợi trong
việc thực hiện theo bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn xét xử, những tổng kết của
ngành Tòa án, những số liệu thống kê về tình hình xét xử, về tổ chức cán bộ của
các cơ quan chức năng, dư luận xã hội... làm cho những kiến nghị sửa đổi, bổ
sung pháp luật về việc xác định và giải quyết tranh chấp trong tố tụng dân sự
không những chỉ dựa trên cơ sở lý luận mà cịn có cơ sở thực tiễn.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của tiểu luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài là những bổ sung quan trọng về cơ sở lý
luận làm sáng tỏ về nội dung của việc xác định quan hệ tranh chấp, xác định vai
trò ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xác định quan hệ tranh chấp.
Về thực tiễn, giúp cho những người làm công tác xét xử có cái nhìn đúng
đắn, nhận thức rõ vai trò ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc xác định quan hệ
tranh chấp trong tố tụng dân sự. Đây cũng là tài liệu để cho những người nghiên
cứu pháp luật trong lĩnh vực có liên quan nghiên cứu tham khảo.

3


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÁC ĐỊNH QUAN HỆ PHÁP
LUẬT TRANH CHẤP TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm về quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự
1.1.1. Xác định quan hệ pháp luật dân sự

Quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật
điều chỉnh. Trong hệ thống pháp luật, mỗi ngành luật điều chỉnh một nhóm quan
hệ xã hội khác nhau. Quan hệ pháp luật dân sự là một dạng quan hệ pháp luật, vì
vậy, nó mang đầy đủ đặc tính của quan hệ pháp luật về bản chất xã hội, bản chất
pháp lí, tính cưỡng chế nhà nước...
Do tác động của các quy phạm pháp luật lên các quan hệ xã hội nên các
bên tham gia vào các quan hệ đó có các quyền và nghĩa vụ pháp lí tương ứng.
Các quyền, nghĩa vụ pháp lí này được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Sự tác động
của các quy phạm pháp luật vào các quan hệ xã hội khơng làm mất đi tính xã hội
của các quan hệ đó mà làm cho các quan hệ này mang một hình thức mới "quan
hệ pháp luật". Hậu quả của nó là các quyền và nghĩa vụ của các bên được Nhà
nước bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội mang tính chất ý chí - ý chí của Nhà
nước thơng qua các quy phạm pháp luật mà nội dung của chúng được xác định
bằng các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội tồn tại trong xã hội đó vào thời điểm
lịch sử nhất định. Ngồi ra, các quan hệ pháp luật cịn mang ý chí của các chủ
thể tham gia vào quan hệ đó. Ý chí của các chủ thể phải phù hợp với ý chí của
Nhà nước và được thể hiện khác nhau trong từng quan hệ cụ thể, từng giai đoạn
của nó (phát sinh, thực hiện hoặc chấm dứt). Có thể chỉ thể hiện khi phát sinh,
lúc thực hiện hay chấm dứt một quan hệ cụ thể, song ý chí của các chủ thể tham
gia vào các quan hệ này phải phù hợp với ý chí của Nhà nước thể hiện qua các
4


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
quy phạm pháp luật dân sự và các nguyên tắc chung của luật dân sự được quy
định trong Bộ luật dân sự.
Có nhiều quan hệ pháp luật xuất hiện trong cuộc sống, trong quan hệ giữa
con người với con người, các quyền, nghĩa vụ của các bên có thể phát sinh

nhưng nếu các bên khơng có tranh chấp thì những quan hệ đó chỉ là những quan
hệ xã hội. Khi có tranh chấp, các bên có thể tự điều chỉnh các quan hệ với nhau
để một cách hồi hịa, thuận tiện (tự hoà giải, thương lượng ngoài tố tụng Toà
án) mà không cần viện dẫn đến qui định, khuôn mẫu có sẵn do Nhà nước ấn
định ban hành (pháp luật) để phân biệt bên nào đúng, bên nào sai hoặc các bên
cần có một cơ chế giải quyết, phán xét. Tịa án là cơ quan có chức năng xét xử,
các bên tranh chấp có quyền u cầu Tịa án giải quyết, phán xử nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo một trình tự thủ tục nhất định.
Từ những phân tích trên, tác giả xây dựng khái niệm xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp như sau:
"Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là hoạt động nhận thức của con
người trên cơ sở yêu cầu của đương sự, thơng tin khác có trong một tình huống
cụ thể nhằm tìm đến những qui định của pháp luật để giải quyết vấn đề được
chính xác, đúng đắn”.
1.1.2. Khái niệm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong Bộ
luật tố tụng dân sự
Theo Điều 1 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Bộ luật tố tụng
dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục
khởi kiện để Tòa án nhân dân giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và trình tự, thủ tục yêu cầu
để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động... Do đó, khi tiếp cận đến Tồ án, đầu tiên đương
sự phải nêu rõ yêu cầu để Toà án giải quyết. Trên cơ sở yêu cầu của đương sự,
Tồ án có trách nhiệm xác định quan hệ tranh chấp ban đầu. Nếu đương sự
5


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
chưa nêu rõ u cầu của mình thì Tồ án cần phải hướng dẫn cho đương sự nêu

rõ để xác định họ có được quyền khởi kiện hay khơng, việc khởi kiện của họ có
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tồ án hay khơng vvv.. Có thể nói, hoạt động
xác định quan hệ pháp luật tranh chấp ban đầu đã xuất hiện ngay khi đương sự
đã nộp đơn khởi kiện tại Tồ án, cơng việc này thuộc về trách nhiệm của người
được phân công xử lý đơn và trách nhiệm của người thụ lý vụ án.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không qui định cụ thể thế nào là xác định
quan hệ tranh chấp mà chỉ liệt kê một số điều luật nói về tranh chấp thuộc thẩm
quyền của Toà án là những tranh chấp về dân sự, về hơn nhân và gia đình, về
kinh doanh thương mại, về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án tại
các Điều 26, Điều 28, Điều 30 và Điều 32. Trong Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 tại Điều 188 qui định về phạm vi khởi kiện có qui định: “Cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một
quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải
quyết trong cùng một vụ án; Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể cùng khởi
kiện một cơ quan, một tổ chức, một cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc
nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ
án; Cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có thể khởi
kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một quan hệ pháp luật
hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một
vụ án.”
Việc giải quyết nhiều yêu cầu (nhiều quan hệ tranh chấp) trong cùng một
vụ án đòi hỏi người giải quyết cần xác định được tranh hệ tranh chấp cần giải
quyết là những quan hệ tranh chấp nào, từ đó xác định thẩm quyền giải quyết và
điều luật áp dụng, nên xiệc xác định tranh chấp là một vấn đề quan trọng để giải
quyết vụ án.
Ví dụ: A khởi kiện u cầu Tồ án buộc B phải trả lại quyền sử dụng đất.
Đồng thời A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc C phải tháo dỡ cơng trình mà C đã
6



Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
xây dựng trên đất đó. Việc giải quyết các quan hệ pháp luật có cùng đương sự và
về cùng loại tranh chấp quy định trong một điều luật tương ứng tại một trong các
Điều 26, 28, 30, 32 và 34 của BLTTDS.
Ví dụ: A khởi kiện u cầu Tồ án buộc B phải trả nợ 100 triệu đồng.
Đồng thời A cịn khởi kiện u cầu Tồ án buộc B phải trả lại chiếc xe ôtô mà B
thuê của A do đã hết thời hạn cho thuê.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc ban hành một số biểu mẫu
trong tố tụng dân sự, tại Mẫu số 52-DS Bản án dân sự sơ thẩm hướng dẫn “ghi
quan hệ tranh chấp mà Tòa án giải quyết: Cần xác định tranh chấp mà Tòa án
thụ lý giải quyết được quy định tại Điều, khoản nào của Bộ luật tố tụng dân sự,
để ghi vào phần trích yếu của bản án (ví dụ: Tranh chấp mà Tịa án thụ lý giải
quyết là tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân được quy
định tại khoản 1 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự thì ghi: “tranh chấp về
quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân”).”
Trong trường hợp tại khoản tương ứng của điều luật quy định nhóm tranh
chấp thì ghi cụ thể tranh chấp được giải quyết. Ví dụ: Nhóm tranh chấp là hợp
đồng dân sự quy định tương ứng tại khoản 3 Điều 26 của BLTTDS thì phải ghi
cụ thể tranh chấp đó là hợp đồng dân sự nào, giao dịch dân sự nào. Nếu là hợp
đồng thuê nhà ở thì ghi là “V/v tranh chấp về hợp đồng dân sự thuê nhà ở”; nếu
là hợp đồng vận chuyển hành khách thì ghi là “V/v tranh chấp hợp đồng dân sự
vận chuyển hành khách”… Nếu là tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản thì
ghi là “V/v tranh chấp về hợp đồng dân sự mua bán tài sản”; nếu là tranh chấp
về mua bán nhà thì ghi là “V/v tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán nhà ở”.
Nếu là tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì cũng phải ghi rõ hợp đồng kinh
doanh thương mại đó là gì. Ví dụ: nếu tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng
hóa thì ghi là “V/v tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại mua bán hàng
7



Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
hóa” vv… (Theo Điều 39 của Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán số 05/2012/NQHĐTP ngày 03/12/2012)
Các loại tranh chấp dân sự phổ biến như: Tranh chấp về dân sự về quyền
sử dụng đất, ranh đất, hợp đồng vay tài sản, đồi tài sản …; Tranh chấp kinh
doanh, thương mại về hợp đồng tín dụn, hợp đồng mua bán hàng hóa; hợp đồng
dịc vụ vận chuyển…; Tranh chấp lao động như về xử lý kỷ luật lao động theo
hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động, Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
Tranh chấp hơn nhân và gia đình như ly hơn, ni con, chia tài sản chung của vợ
chồng hoặc tranh chấp về cấp dưỡng….
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, việc đề cao quyền con người, quyền
được. Điều 45 của Bộ luật tố tụng qui định nguyên tắc áp dụng pháp luật khi
chưa có khi chưa có điều luật áp dụng. Đầu tiên Tòa án áp dụng tập quán để giải
quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên khơng có thỏa thuận và pháp luật
khơng quy định. Tịa án áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự
trong trường hợp các bên khơng có thỏa thuận, pháp luật khơng có quy định và
khơng có tập qn được áp dụng. Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể
áp dụng tập quán, tương tự pháp luật và Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng
trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tịa án nhân dân tối cao cơng bố. Lẽ
công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa
nhận, phù hợp với ngun tắc nhân đạo, khơng thiên vị và bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó.
Như vậy, địi hỏi chúng ta phải có cái nhìn một cách rõ ràng hơn về nhận
thức xác định quan hệ tranh chấp trong tố tụng dân sự. Nghĩa là, chúng ta không
chỉ căn cứ vào những qui định cụ thể của pháp luật tố tụng dấn sự, căn cứ vào

luật nội dung chuyên nghành mà còn phải căn cứ vào yêu cầu cụ thể của đương
8


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
sự để tuỳ nghi xác định tên gọi của quan hệ đang tranh chấp mà chưa có pháp
luật điều chỉnh, hoặc xét xử theo nguyên tắc cơ bản của Luật dân sự, án lệ, lẽ
công bằng. Bên cạnh vụ án dân sự là vụ án có tranh chấp về quyền lợi, nghĩa vụ
giữa cá nhân, tổ chức với nhau còn có việc dân sự là việc khơng có tranh chấp
về quyền và lợi ích nhưng có u cầu của cá nhân, tổ chức đề nghị Tịa án cơng
nhận một sự kiện pháp lý mà phát sinh quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ
chức này. Có các việc yêu cầu về dân sự, các việc yêu cầu về hôn nhân và gia
đình, các việc yêu cầu về kinh doanh và thương mại, các việc yêu cầu về lao
động. Trong tiểu luận này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp nghĩa là tiếp cận ở góc độ vụ án, nên khơng đề cập đến việc
dân sự.
Việc đưa ra một khái niệm khoa học về “Xác định quan hệ pháp luật tranh
chấp trong tố tụng dân sự” có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nhận dạng quan
hệ pháp luật cần giải quyết cho vụ án, xác định từng các quan hệ tranh chấp của
các đương sự, cách thức lựa chọn áp dụng pháp luật nội dung và hướng giải
quyết một vụ án.
Từ những phân tích trên, trên cơ sở “Khái niệm xác định quan hệ pháp
luật tranh chấp” được xây dựng ở mục 1.1.1, tác giả xây dựng khái niệm “Xác
định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân” như sau:
"Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng là hoạt động nhận
thức của thẩm phán được phân công thụ lý đơn, thụ lý vụ án và của Hội đồng
xét xử khi quyết định giải quyết vụ án trên cơ sở u cầu của đương sự, thơng
tin khác có trong một tình huống cụ thể nhằm tìm đến những thoả thuận, qui
định của pháp luật, tập quán, áp dụng pháp luật tương tự, nguyên tắc cơ bản

của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết yêu cầu của đương sự
được chính xác”.

9


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
1.2. Đặc điểm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng
dân sự
- Là hoạt động có tính bắt buộc khơng thể thiếu trong q trình giải quyết
vụ án
Về nguyên tắc, khi thụ lý vụ án dân sự thì thẩm phán được phân cơng xem
xét đơn khởi kiện đã xem xét, kiểm tra nội dung đơn khởi kiện của đương sự để
xác định quan hệ phát sinh tranh chấp. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất
định để đảm bảo tính chính xác thì nhiệm vụ của Thẩm phán được phân công
giải quyết vụ án cần phải xác định lại quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các
đương sự và pháp luật cần áp dụng để xây dựng hồ sơ vụ án. Đây là hoạt động
thường xuyên của thẩm phán, cùng với những hoạt động tố tụng khác.
- Là hoạt động phức tạp, được chi phối trong suốt quá trình giải quyết vụ
án
Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án dân sự là một
công việc khó khăn, phức tạp nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà các tranh
chấp phát sinh ngày càng đa dạng trong khi đó Bộ luật dân sự hay các luật
chuyên ngành khác chưa kịp thời điều chỉnh. Bộ luật dân sự năm 2015 đã có
nhiều quy định sửa đổi, bổ sung so với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về
quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản, song cũng không thể quy định bao trùm
hết các tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai, trong khi Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015 quy định Tịa án có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự ngay
cả trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng.

Không những vậy, việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp cịn có một
khó khăn nữa là trong một vụ án dân sự có thể chỉ có một quan hệ tranh chấp
nhưng cũng có thể có nhiều mối quan hệ tranh chấp đan xen. Vì theo quy định
của Điều 188 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân về một quan hệ pháp
luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng
10


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
một vụ án và ngược lại. Do vậy, để xác định chính xác các quan hệ phát sinh
tranh chấp thì thẩm phán phải căn cứ vào nội dung yêu cầu của đương sự được
thể hiện trong đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập
của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, và căn cứ vào quy định của pháp
luật nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội mà đương sự tham gia có tranh chấp
để từ đó xác định pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án.
- Hoạt động xác định quan hệ pháp luật tranh chấp phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của thẩm phán, Hội đồng xét xử
Trong trường hợp mà vụ việc tranh chấp chưa có điều luật áp dụng để giải
quyết thì Thẩm phán phải căn cứ vào tập qn, khi các bên khơng có thỏa thuận,
pháp luật khơng quy định và khơng có tập quán để áp dụng thì thẩm phán áp
dụng tương tự pháp luật và nếu không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật
thì Thẩm phán phải áp dụng án lệ và lẽ công bằng để giải quyết vụ án.
Quy định áp dụng lẽ công bằng hiện nay cũng tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau. Nhưng quan điểm chung nhất thì lẽ cơng bằng chính là quyền tự
nhiên, là một trong những quyền con người. Trong tuyên ngôn độc lập của nước
Mỹ năm 1776 cũng thừa nhận “khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi
người sinh ra đều bình đẳng...” và trong tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhắc lại quan điểm này.

Ngồi ra, Điều 14 Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị,
năm 1966 có hiệu lực ngày 23/3/1976 mà Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982
cũng khẳng định một điều: “Mọi người đều bình đẳng trước Tịa án và cơ quan
tài phán, mọi người đều có quyền xét xử cơng bằng và cơng khai bởi một Tịa án
có thẩm quyền, độc lập khơng thiên vị”.
Do đó, khi áp dụng lẽ cơng bằng trong xét xử thì lẽ công bằng ở đây
không chỉ là lương tâm hay nhận thức của người thẩm phán mà nó cịn được quy
định dạng theo quy định tại Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 “Lẽ công
bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận,
11


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và sự bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó” và đây cũng chính là mục
mà cơng cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hướng tới.
Việc xác định quan hệ tranh pháp luật tranh chấp này phụ thuộc vào ý chí
chủ quan nhận định của thẩm phán khi chưa có điều luật áp dụng.
Khi xác định quan hệ tranh chấp Thẩm phán không chỉ dựa vào yêu cầu
của các đương sự, mà còn căn cứ vào cách vận dụng pháp luật của mỗi thẩm
phán đã đúng hay chưa, dựa vào kinh nghiệm, trình độ chun mơn của mỗi
người để có thể áp dụng giống nhau về cách giải quyết nếu vụ việc đó diễn ra
tương tự đối với vụ án mà chúng ta đã giải quyết.
Việc xác định quan hệ tranh chấp đúng hay sai ảnh hưởng rất lớn đến quá
trình giải quyết vụ án hay là các khâu áp dụng pháp luật nội dung cho từng vụ
việc xảy ra.
1.3. Các loại quan hệ pháp luật tranh chấp phát sinh trong tố tụng
dân sự
1.3.1. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của

Tòa án
Căn cứ vào quy định tại Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì
tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án mười bốn khoản,
trong đó có mười ba khoản thể hiện cho mười ba loại dạng tranh chấp. Đó là các
tranh chấp:
1- Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân.
2- Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
3- Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.
4- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 30 của Bộ luật này.
5- Tranh chấp về thừa kế tài sản.
6- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
12


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
7- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn
hành chính khơng đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường
hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính.
8- Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn
nước theo quy định của Luật tài nguyên nước.
9- Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp
về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát
triển rừng.
10- Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định
của pháp luật về báo chí.
11- Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
12- Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy
định của pháp luật về thi hành án dân sự.

13- Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh tốn phí tổn đăng ký
mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Từ các quan hệ tranh chấp đó chúng ta xác định được pháp luật nội dung
để áp dụng cho từng vụ việc.
Riêng đối với khoản 14 của Điều 26 qui định: Các tranh chấp khác về dân
sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo
quy định của pháp luật. Các tranh chấp khác về dân sự trong khoản 14 này được
hiểu sẽ còn những dạng tranh chấp khác không thuộc mười ba dạng tranh chấp
đã được liệt kê, cũng có thể có những dạng tranh chấp mà chưa có pháp luật
điều chỉnh mà Tồ án sẽ xét xử theo lẽ công bằng chẳng hạn.
Như vậy, với cách qui định tại Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015,
chúng ta không thể biết được có chính xác bao nhiêu quan hệ pháp luật có tranh
chấp.
1.3.2. Những tranh chấp về hơn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án
13


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
Căn cứ vào quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì
tranh chấp về hơn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án, có
các dạng tranh chấp như: Ly hơn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;
chia tài sản sau khi ly hôn; tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân; tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;
tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ; tranh
chấp về cấp dưỡng; tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo; tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết
hôn trái pháp luật.

So với Luật hơn nhân và gia đình năm 2000, Luật hơn nhân và gia đình
2014 quy định rõ hơn các quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình cụ thể tại
Khoản 1, 6,7 và 8 Điều 28. Theo đó Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 đã
chính thức thừa nhận và cho phép mang thai hộ với mục đích nhân đạo (cụ thể
từ Điều 93 đến Điều 98) cũng đồng nghĩa có thêm loại quan hệ xã hội được
pháp luật điều chỉnh và thẩm quyền giải quyết tranh chấp này thuộc về Tòa án
nhân dân.
Trong điều luật này, có bảy dạng tranh chấp được qui định tại bảy khoản
tương ứng, riêng đối với khoản 8 cũng là một khoản tuỳ nghi mà ở đó ngồi bảy
dạng tranh chấp nêu trên thì cịn có những dạng tranh chấp khác có pháp luật nội
dung qui định hoặc chưa có pháp pháp luật nội dung qui định.
Trong vụ án hơn nhân và gia đình phức tạp nhất là về phân chia tài sản và
xác định quan hệ tranh chấp của nó. Tài sản chung của vợ chồng theo quy định
tại Điều 33 luật hơn nhân và gia đình năm 2014:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp
được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được
14


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa
thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng
để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ,
chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là
tài sản chung”.
Theo qui định của pháp luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn liên
quan, việc chia tài sản chung trong vụ án hôn nhân và gia đình hiện nay được
xác định theo hai dạng. Dạng thứ nhất là chia tài sản chung của vợ chồng và
dạng thứ hai là chia tài sản chung của những người bị Tịa án tun bố “khơng
cơng nhận là vợ chồng hoặc hủy hôn nhân trái pháp luật”. Khi phân chia tài sản
chung của vợ chồng, Hội đồng xét xử phải căn cứ vào Điều 217, 219 của Bộ luật
dân sự năm 2005 và các qui định từ Điều 59 đến Điều 61 của Luật Hôn nhân &
Gia đình năm 2014 để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên đối với tài sản
chung hợp nhất (quyền ngang nhau). Nhưng khi phân chia tài sản của những
người bị “không công nhận là vợ, chồng hoặc hủy hôn nhân trái pháp luật” thì
quyền và nghĩa vụ của các bên đối với tài sản chung được chia trên cơ sở căn cứ
vào các qui định tại Điều 216 của Bộ luật dân sự năm 2005 (sở hữu chung theo
phần), xác định phần, cơng sức đóng góp của các bên đối với khối tài sản
(không ngang nhau về quyền và nghĩa vụ đối với tài sản). Thực tiễn xét xử cho
thấy, rất nhiều trường hợp khi thụ lý vụ án yêu cầu chia tài sản chung sau khi
các bên đã ly hơn, khơng những Tịa án cấp sơ thẩm xác định không đúng quan
hệ tranh chấp và loại án đã giải quyết (như đã phân tích ở phần trên), mà cịn
phân tích khơng rõ cơ sở pháp lý hình thành khối tài sản chung. Cụ thể, các bản
15


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
án ban hành phần lớn không xác định rõ các bên trước đây được Tịa án xử cho
ly hơn hay là bị Tịa án tun bố “khơng cơng nhận là vợ chồng hoặc hủy hôn
nhân trái pháp luật”. Trong khi đó, nội dung này và các chứng cứ liên quan đến
nội dung này là cơ sở pháp lý đặc biệt quan trọng để xác định quyền lợi của các

bên khi phân chia tài sản chung. Sai sót do xác định, phân định không đúng khối
tài sản chung:Một số Hội đồng xét xử khi xem xét yêu cầu của đương sự đã
không phân định được đâu là tài sản chung của vợ chồng, đâu là tài sản riêng
của từng người, đâu là tài sản có liên quan đến người thứ ba, nhất là những
trường hợp trước khi kết hôn một bên đã được cơ quan thẩm quyền cấp hoặc
công nhận quyền sử dụng tài sản riêng hoặc sau khi kết hôn vợ, chồng được cha,
mẹ cho đất để làm nhà ở nhưng chưa làm thủ tục đầy đủ.... Theo đó, Hội đồng
xét xử chỉ dựa trên tình hình thực tế của q trình sử dụng tài sản đó để xác định
ý chí của các bên về nhập tài sản riêng vào tài sản chung.
1.3.3. Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án
Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ quen
thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này được
sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây cùng với sự
nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen thuộc của
cơ chế kế hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của người Việt
Nam.
Tại Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hành hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác”.
Theo quy định trên, có thể hiều: Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn
(bất đồng hoặc xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực
hiện các hoạt động thương mại.
Các tranh chấp thương mại nhìn chung có những đặc điểm sau đây:
16


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
Thứ nhất, Chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại là thương nhân:

Quan hệ thương mại có thể được thiết lập giữa các thương nhân với nhau hoặc
giữa thương nhân với bên không phải là thương nhân. Một tranh chấp được coi
là tranh chấp thương mại khi có ít nhất một bên là thương nhân. Ngồi ra cũng
có một số trường hợp, các cá nhân tổ chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh
chấp thương mại: tranh chấp giữa công ty – thành viên công ty; tranh chấp giữa
các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, hợp
nhất, giải thể, chia, tách…công ty;
Thứ hai,căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp
đồng hoặc vi phạm pháp luật:Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại
phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy
nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không
làm phát sinh tranh chấp. Nội dung của tranh chấp thương mại là những xung
đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên trong hoạt động thương mại. Các
quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản, nên nội dung tranh chấp
thương liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Ngồi ra, tranh chấp
thương mại cịn chịu chi phối của các yếu tố cơ bản của hoạt động này như: mục
đích sinh lợi, các yêu cầu về thời cơ kinh doanh và u cầu giữ bí mật thơng tin
liên quan đến hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại:Tranh chấp
thương mại đòi hỏi được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền lợi của các
bên, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của cơng dân, góp phần ngăn ngừa sự vi
phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương
xã hội. Hiện nay tranh chấp thương mại được giải quyết bằng các phương thực:
thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. Mỗi phương thức có sự
khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành. Các bên
có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp, phụ thuộc vào lợi thế mà mỗi
17


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự

Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
phương thức có thể mang lại, mức độ phù hợp của phương thức so với nội dung
tính chất của tranh chấp và thiện chí của các bên.
- Hình thức giải quyết tranh chấp thương mại: Điều 317 Luật thương mại
2005 quy định về các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bao gồm:
+ Thương lượng giữa các bên.
+ Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các
bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.
+ Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài, Toà án được
tiến hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Toà án do pháp luật quy định.
Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 những tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm 5 loại tranh
chấp.
1- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
2- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3- Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên cơng ty nhưng có giao
dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với cơng ty, thành viên công ty.
4- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp
giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành
viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của cơng ty, chuyển đổi hình
thức tổ chức của công ty.
5- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
18



Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã kế thừa quy định về thẩm
quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại
tại Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Tuy nhiên, quy định tại khoản 1
Điều này đã không đi theo hướng liệt kê cụ thể các tranh chấp phát sinh hoạt
động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với
nhau và đều có mục đích lợi nhuận như quy định tại khoản 1 Điều 29 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004 nữa. Khoản 1 Điều 30 BLTTDS 2015 đã thiết lập một
quy tắc có tính khái qt trong việc xác định các tranh chấp kinh doanh, thương
mại thuộc thẩm quyền của Tòa án, được phân định thẩm quyền của Tòa án trong
giải quyết các tranh chấp dân sự tại Điều 26 BLTTDS năm 2015 trên 3 dấu hiệu
là: tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại; giữa các chủ
thể có đăng ký kinh doanh; các chủ thể này đều có mục đích lợi nhuận. do vậy,
tranh chấp khơng thỏa mãn 03 dấu hiệu này có thể được coi là tranh chấp dân
sự.
Khoản 2 Điều 30 BLTTDS 2015 tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
chuyển giao cơng nghệ được phân biệt với khoản 1 của Điều luật này ở chỗ
khơng địi hỏi dấu hiệu về đăng ký kinh doanh của các chủ thể có tranh chấp
đồng thời phân biệt với thẩm quyền của Tòa án đối với tranh chấp dân sự quy
định tại Khoản 4 Điều 26 của Bộ luật này là ở dấu hiệu lợi nhuận. các tranh chấp
về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ thong tin giữa các chủ thể đều
có mục đích lợi nhuận thì được coi là tranh chấp về kinh doanh, thương mại, nếu
không thỏa mãn dấu hiệu này thì được coi là tranh chấp dân sự.
Khoản 3 Điều 30 BLTTDS năm 2015 mở rộng thêm một dạng tranh chấp
nảy sinh từ thực tiễn là tranh chấp về giao dịch về chuyển nhương phần vốn góp
giữa người chưa phải là thành viên công ty với công ty, thành viên công ty.
1.3.4. Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án

19


Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựnh quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sựt tranh chấp trong tố tụng dân sựp trong tố tụng dân sự tụng dân sựng dân sự
Lý luật tranh chấp trong tố tụng dân sựn và thực tiễnn
Theo Điều 3 khoản 7 Bộ luật lao động năm 2012 “Tranh chấp lao động
là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan
hệ lao động. Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa
người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa
tập thể lao động với người sử dụng lao động."
Những đặc điểm của tranh chấp lao động :
- Tranh chấp lao động phát sinh tồn tại gắn liền với quan hệ lao động.
Mối quan hệ này thể hiện ở hai điểm cơ bản: Các bên tranh chấp bao giờ cũng là
chủ thể của quan hệ lao động và đối tượng tranh chấp chính là nội dung của
quan hệ lao động đó. Trong q trình thực hiện quan hệ lao động, có nhiều lý do
để các bên khơng thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đã được
thống nhất ban đầu. Ví dụ, một trong hai bên chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của
mình, hoặc điều kiện thực hiện hợp đồng, thoả ước đã thay đổi làm cho những
quyền và nghĩa vụ đã xác định không cịn phù hợp, hoặc cũng có thể do trình độ
xây dựng hợp đồng và sự hiểu biết về pháp luật cịn hạn chế dẫn đến các bên
khơng hiểu đúng các qui định của pháp luật, các thoả thuận trong hợp đồng.
- Tranh chấp lao động không chỉ là những tranh chấp về quyền mà còn
bao gồm cả những tranh chấp về lợi ích của các bên trong quan hệ lao động.
Thực tế, hầu hết các tranh chấp khác (như tranh chấp dân sự) thường xuất phát
từ sự vi phạm pháp luật, vi phạm hợp đồng hoặc do không hiểu đúng quyền và
nghĩa vụ đã được xác lập mà dẫn đến tranh chấp. Riêng tranh chấp lao động có
thể phát sinh trong trường hợp khơng có vi phạm pháp luật. Đặc điểm này bị chi
phối bởi bản chất quan hệ lao động và cơ chế điều chỉnh của pháp luật. Trong
nền kinh tế thị trường các bên của quan hệ lao động được tự do thương lượng,
thoả thuận hợp đồng, thoả ước phù hợp với quy luật của pháp luật cũng như khả

năng đáp ứng của mỗi bên. Quá trình thoả thuận thương lượng đó khơng phải
bao giờ cũng đạt kết quả. Ngay cả khi đạt kết quả thì những nội dung đã thoả
20



×