Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Bệnh viêm dạ dày ruột truyền nhiễm trên heo docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.33 KB, 3 trang )

Bệnh viêm dạ dày ruột truyền nhiễm trên
heo
Bệnh viêm dạ dày ruột truyền nhiễm trên heo hay còn gọi là
bệnh TGE (Transmissible Gastroenteritis) là bệnh truyền nhiễm
do Coronavirus gây ra.
Virút này đề kháng yếu với các tác động của nhiệt độ, dễ dàng bị
tiêu diệt bởi ánh sáng mặt trời trong vòng vài giờ và rất nhạy
cảm với các chất sát trùng, tuy nhiên lại rất ổn định ở nhiệt độ
lạnh. Heo nhà với mọi lứa tuổi đều mắc bệnh nhưng cảm thụ
mạnh nhất và tử vong cao nhất là heo con theo mẹ từ 1 – 10
ngày tuổi.
Virút TGE xâm nhập vào cơ thể heo qua đường miệng – mũi,
sau đó virút nhân lên ở niêm mạc ruột non, sự nhân lên này làm
phá hủy nhung mao ruột, dẫn đến rối loạn hấp thu cấp tính và
hậu quả là heo tiêu chảy dữ dội, mất nhiều nước, chất điện giải
và chết nhanh. Thời gian nung bệnh ngắn có thể từ 18 giờ đến 3
ngày. Triệu chứng lâm sàng, thời gian bệnh và tỉ lệ chết tỉ lệ
nghịch với lứa tuổi heo.
Triệu chứng trên heo con theo mẹ: Biếng bú, heo có vẻ lạnh tụ
quanh mẹ, tiêu chảy cùng lúc với ói mửa, phân rất lỏng, tanh,
màu vàng có sữa không tiêu, khát nhiều nước, heo con gầy sút
rất nhanh trong vài ngày, tỉ lệ tử vong rất cao, hầu hết heo dưới
7 ngày tuổi sẽ chết sau 2-7 ngày với biểu hiện của sự mất nước,
hôn mê. Trên heo con còn bú trên 3 tuần tuổi sẽ sống sót nhưng
bị còi cọc.
Trên heo cai sữa và heo lứa: Tỷ lệ bệnh và chết thấp, triệu chứng
không rõ rệt, heo tiêu chảy, ăn ít, chậm tăng trưởng.
Trên heo nái: Triệu chứng thường không rõ ràng. Heo nái cho
sữa có thể sốt, ói mửa, mất sữa, gầy sút. Heo nái khô thì không
có triệu chứng rõ nét.
Bệnh tích: Dạ dày chứa sữa không tiêu, có thể xuất huyết hoặc


xung huyết niêm mạc dạ dày hầu hết là vùng hạ vị. Viêm ruột,
ruột non căng phồng, chứa nhiều chất lỏng màu vàng có nhiều
bọt và sữa không tiêu đóng cục, thành ruột rất mỏng do bất
dưỡng nhung mao ruột đặc biệt là không tràng và hồi tràng.
Chẩn đoán cần dựa vào đặc điểm tiêu chảy nặng trên heo từ 1-2
tuần tuổi và tỷ lệ tử vong rất cao ở tuổi này. Hoại tử và bất
dưỡng nhung mao ruột đặc biệt là vùng không tràng và hồi
tràng. Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm bằng phương pháp
ELISA phát hiện kháng nguyên virút trong mẫu phân, phương
pháp RT-PCR từ mẫu phân và tế bào nhiễm.
Điều trị: Chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, việc kiểm soát vệ sinh
và chữa trị triệu chứng trên heo trưởng thành có thể giới hạn
thiệt hại. Có thể dùng Interferon alpha (NAVET-
INTERFERON) như là một chất tăng cường tác dụng của hệ
miễn dịch không đặc hiệu để phòng và trị bệnh. Đồng thời tích
cực cung cấp những loại nước có chất điện giải như VITA-
ELECTROLYTES, cung cấp nước sinh lý mặn hay ngọt bằng
đường phúc mạc. Có thể dùng kháng sinh để ngăn ngừa và giảm
bệnh thứ phát.
Vệ sinh phòng bệnh: Việc vệ sinh trong khu vực chăn nuôi là
yếu tố rất quan trọng trong việc ngăn ngừa và diệt trừ mầm
bệnh. Khi có triệu chứng nghi ngờ phải lập tức bằng mọi cách
cách ly triệt để heo bệnh. Sát trùng liên tục trong khu vực nuôi
bằng các thuốc sát trùng như Navetkon-S, dung dịch Benkocid
chuồng trại, BKA chuồng trại Hạn chế khách tham quan, riêng
đối với những người bắt buộc vào trại thì phải sử dụng đồ bảo
hộ. Bằng mọi cách hạn chế mầm bệnh lây lan trong khu vực
nuôi, đặc biệt là áp dụng các biện pháp an toàn sinh học.
Phòng bệnh bằng vắcxin: Tiêm vắcxin phòng bệnh TGE cho heo
nái 2 lần ở 6 tuần và 2 tuần trước khi nái đẻ đồng thời cho heo

con bú sữa đầu để được kháng thể từ heo mẹ. Có thể dùng
NAVET-Antidiarrhea hoặc NAVET – IgY để phòng và trị

×