Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng của đảng ta trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.4 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐHSP NGHỆ THUẬT TW
KHOA GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Số thứ tự......
Họ và tên ............................................................
Mã sinh viên: ……………............................................………
Lớp: ……………

Khoa ......................................

Lớp tín chỉ: .......................................

HÀ NỘI, THÁNG

NĂM 2023

TRƯỜNG ĐHSP NGHỆ THUẬT TW


KHOA GIÁO DỤC ĐẠI CƯƠNG

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Tên đề tài:

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng của Đảng ta trong xây


dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Họ và tên:.............................................................................................................

Số
thoại:...................................................................................................
Thời gian học: Sáng/ Chiều - Thứ .........

điện


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa..................................................................2
1.1. Quan niệm về dân chủ..........................................................................2
1.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.........................................3
1.3. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.....................................................5
II. Nhà nước xã hội chủ nghĩa.....................................................................5
2.1.Quan niệm về nhà nước xã hội chủ nghĩa.............................................5
2.2. Bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa..........6
III. Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam..........................................................................................7
3.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ xã hội chủ
nghĩa............................................................................................................7
3.2. Thực tiễn vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam...............................................................................14
IV. Một số giải pháp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam..............................................................................................................17
KẾT LUẬN....................................................................................................19

TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển đất nước. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với
chủ nghĩa tư bản khơng chỉ ở chỗ xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xóa
bỏ phân hóa giai cấp, mà về chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải vượt qua
dân chủ tư sản, thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân.
Xuất phát từ thực tiễn trên em đã chọn đề tài: “Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống các quan điểm triết học trước Mác về vật chất và đánh giá các
giá chị cũng như hạn chế của quan điểm đó.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nội dung các quan điểm về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
- Về không gian: Các tài liệu tiếng Việt trong sách, báo cũng như internet
- Về thời gian: Tháng 10/2023.

1


NỘI DUNG
I. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.1. Quan niệm về dân chủ
a) Khái lược lịch sử của vấn đề dân chủ

Từ trước Công nguyên, cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết hợp
lực với nhau để sản xuất, để chống lại thiên tai, thú dữ và tự tổ chức những hoạt
động chung mang tính xã hội, trong đó có việc cử ra những người đứng đầu các
cộng đồng người để thực thi những quy định chung và phế bỏ những người đó
nếu họ khơng thực hiện những quy định chung theo ý nguyện, lợi ích chung của
cộng đồng . Từ thời Hy Lạp cổ đại, khi có ngơn ngữ, chữ viết thơng dụng thì
việc" cử ra và phế bỏ những người đứng đầu " là quyền và sức lực của dân.
Khi xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời, giai cấp chủ nô đã lập ra Nhà nước, và
lấy tên là Nhà nước dân chủ – tức là Nhà nước dân chủ chủ nô thống trị đại đa
số người lao động là giai cấp nô lệ. Và khi đó thì Nhà nước chủ nơ mới chính
thức sử dụng danh từ "dân chủ ".Có nghĩa là Nhà nước dân chủ chủ nơ có
“quyền lực của nhân dân.” Nhưng dân ở đây theo quy định vủa Luật pháp do
giai cấp chủ nô quy định gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số tri
thức và người tự do, cịn đại đa số nhân dân trở thành nơ lệ thì khơng được gọi
là dân.Về thực chất, đây là giai cấp tư hữu, áp bức bóc lột đầu tiên lập ra Nhà
nước đã dùng Pháp luật và Nhà nước của nó lạm dụng khái niệm dân chủ để
chiếm mất quyền lực thực sự của nhân dân lao động.Sau hàng ngàn năm, đã có
nhiều Nhà nước và nhiều giai cấp được hình thành nhưng bản chất vẫn là những
giai cấp chiếm mất quyền lực của nhân dân lao động ( vd: g/c phong kiến, tư
sản, chế độ dân chủ tư sản).
Đến khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi,
đã bắt đầu 1 thời đại mới - một thời đại thực sự của nhân dân lao động. Họ
giành chính quyền, tư liệu sản xuất...Họ đã có được quyền dân chủ một cách
thực sự và đã lập ra Nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, thiết lập một nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa để thực hiện quyền lực của nhân dân.
2


Tóm lại, nhân loại từ lâu đã có nhu cầu và bước đầu thực hiện dân chủ và
có quan niệm về dân chủ, đó là việc thực thi quyền lực của dân.

b) Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ.
- Chủ nghĩa Mác –Lênin kế thừa những nhân tố hợp lí những hoạt động
thực tiễn
và nhận thức của nhân loại về dân chủ, đặc biệt là việc tán thành dân chủ
là quyền lực của nhân dân.
- Mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất giai cấp thống
trị xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rõ có các kiểu dân chủ : chế độ dân
chủ chủ nô, chế độ dân chủ tư sản, chế độ dân chủ vơ sản...
Do đó, từ khi có chế độ dân chủ thì dân chủ ln luôn với tư cách một
phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị.
- Từ khi có nhà nước dân chủ , thì dân chủ cịn với ý nghĩa là một hình
thức nhà nước, trong đó có chế độ bầu cử, bãi miễn các thành viên nhà nước, có
quản lí cã hội theo pháp luật nhà nước và thừa nhận nhà nước đó “ quyền lực
thuộc về nhân dân”, gắn liền với một hệ thống chuyên chính của giai cấp thống
trị xã hội.
- Với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng, đều do một giai cấp
thống trị cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của toàn xã hội, do vậy tính giai
cấp thống trị cũng gắn liền với và chi phối tính dân tộc, tính chất của chế độ
chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội... ở mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể.
Sau khi tìm hiểu về thế nào là dân chủ, có từ bao giờ... bây giờ chúng ta đi
nghiên cứu về bản chất của nền dân chủ xã hôi chủ nghĩa.
1.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
a) Bản chất chính trị
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nên dân chủ xã hội
chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp cơng nhân thơng qua đảng của nó
3


đối với tồn xã hội, nhưng khơng phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích
riêng cho giai cấp công nhân mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của

tồn thể nhân dân, trong đó có giai cấp cơng nhân. Chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa...do đó về thực chất là của nhân dân, do dân và
vì dân. Lênin đã diễn đạt một cách khái quát về bản chất và mục tiêu của dân
chủ xã hội chủ nghĩa rằng: đó là nền dân chủ"gấp triệu lần dân chủ tư sản" . Do
vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp cơng nhân vừa có tính
nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
b) Bản chất kinh tế
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất
kinh tế của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất cơng, nhưng cũng như tồn bộ
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nó khơng hình thành từ ‘hư vơ’ theo mong muốn
của bất kì ai . Kinh tế xã hôi chủ nghĩa cũng là sự kế thừa và phát triển mọi
thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc ra những nhân tố lạc
hậu, tiêu cực, kìm hãm.. của các chế độ kinh tế trước, nhất là bản chất tư hữu, áp
bức bóc lột, tấn công.. đối với đa số nhân dân.
c) Bản chất tư tưởng văn hoá
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác – Lênin – hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân làm nền tảng, chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội
khác trong xã hội mới như văn học, nghệ thuật, tôn giáo... Đồng thời, dân chủ xã
hội chủ nghĩa kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống các dân
tộc, tiếp thu những giá trị tư tưởng – văn hoá, văn minh, tiến bộ xã hội... mà
nhân loại đã tạo ra ở tất cả quốc gia, dân tộc...
Do đó đời sống tư tưởng văn hoá của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa rất
phong phú, đa dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng
hàng đầu, thành mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nền dân chủ tư sản đã hoạt động và thể hiện trên thực tế thông qua hệ
thống chính trị tư sản, chủ yếu là thực hiện quyền lực và lợi ích của giai cấp tư
4


sản. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng hoạt động và thể hiện trên thực tế

thông qua hệ thống chính trị của nó, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Sau đây
chúng ta sẽ nghiên cứu tiếp về hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
1.3. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
Quan niệm về hệ thống này: Đó là hệ thống các tổ chức chính trị căn bản,
có quy mơ quốc gia, có ý nghĩa chiến lược đối với sự tồn tại, ổn định và phát
triển của một nước xã hội chủ nghĩa, được hình thành và hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật chung, phù hợp với vai trò , nhiệm vụ, chức năng của mỗi tổ chức
và mối quan hệ giữa các tổ chức đó – toàn bộ hệ thống tổ chức này hoạt động là
sự thể hiện trên thực tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Về cấu trúc cơ bản của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, gắn với vai
trò, chức năng của từng tổ chức chính trị của nó, quan điểm của Đảng ta chỉ rõ:
đó là gồm có Đảng cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và các đoàn thể của
nhân dân.Đảng ta nêu rõ vai trò, chức năng cơ bản của hệ thống các tổ chức
chính trị trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa một cách khái quát, đúng thực
chất và thực tiễn, đó là : Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí và nhân dân làm chủ.
Và khi đó thì hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa phải là chế độ nhất nguyên về
chính trị – tức là chỉ có một giai cấp và một Đảng duy nhất lãnh đạo xã hội, đó
là giai cấp cơng nhân và Đảng của nó.
Trên đây chúng ta vừa nghiên cứu xong về Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Tiếp sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu những khía cạnh về Nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
II. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
2.1.Quan niệm về nhà nước xã hội chủ nghĩa
Đây là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa, một cơng cụ quản lí mà đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo nhân dân tổ chức ra để qua đó là chủ yếu, nhân dân lao động thực hiện
quyền lực và lợi ích của mình, cũng qua đó là chủ yếu mà giai cấp công nhân và
5



Đảng của nó lãnh đạo xã hội về mọi mặt trong quá trình bảo vệ và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng quan niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa là
thống nhất về căn bản với nhà nước chun chính vơ sản cả về vật chất, mục
tiêu, vai trò, chức năng và các hoạt động theo những ngun tắc, pháp luật,
chính sách của nó.
2.2. Bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Bản chất của bất kì nhà nướcnào trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng
mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội.VD : Nhà nước dân chủ chủ nô, nhà
nước quân chủ phong kiến, nhà nước dân chủ tư sản...
Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa do đó trước hết nó phải mang bản
chất giai cấp công nhân.Nhưng giai cấp công nhân lại là giai cấp thuộc nhân dân
lao động mà ra, đại biểu cho phương thức sản xuất mới , hiện đại gắn với đại
biểu cho lợi ích của tồn thể nhân dân lao động và dân tộc, do vậy nhà nước xã
hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp cơng nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi
và tính dân tộc sâu sắc.
Đảng ta và Hồ Chí Minh đã từ lâu có quan điểm rõ ràng và đúng đắn về
nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Nhà nước ta: đó là nhà nước do dân, vì
dân ...Và nhất là từ khi đổi mới, Đảng ta lại càng chú trọng vận dụng, phát triển
cụ thể hoá vấn đề nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa thể hiện tập trung ở
việc quản lí xã hội trên tất cả các lĩnh vực của tồn xã hội chủ yếu bằng pháp
luật, chính sách, pháp chế xã hội chủ nghĩa và hệ thống cơ quan nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở. Thực hiện chức năng chuyên chính đối với mọi tội phạm
và mọi kẻ thù để bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước, giữ vững ổn định chính trị,
trật tự an tồn xã hội và tạo ra những điều kiện cơ bản để ngày càng mở rộng
dân chủ trong nhân dân. Nhân dân ngày càng thể hiện được quyền lực, các
quyền dân chủ và lợi ích của mình về mọi mặt. Gắn liền với các chức năng
6



chung nhất đó là những nhiệm vụ cụ thể hơn của nhà nước xã hội chủ nghĩa
như: quản lí kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế , nhất là xây dựng cơ sở vật
chất – kĩ thuật cao của chủ nghĩa xã hội gắn liền với việc cải thiện không ngừng
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Quản lí văn hố - xã hội, xây dựng
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hố dân tộc. Giáo dục và đào tạo
chăm sóc sức khoẻ nhân dân ... Ngoài những chức năng nhiệm vụ đối nội đó,
nhiệm vụ đối ngoại cũng khơng thể thiếu được, đó là mở rộng quan hệ hợp tác
hữu nghị, bình đẳng, tin cậy lẫn nhau, tơn trọng lẫn nhau và phát triển các bên
cùng có lợi , vì sự phát triển và tiến bộ xã hội đối với nhân dân tất cả các nước,
các dân tộc trên thế giới.
Sau khi đã tìm hiểu và nghiên cứu về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà
nước xã hội chủ nghĩa chúng ta đã hiểu được nó, nắm được bản chất, chức năng
nhiệm vụcủa từng vấn đề một nhưng đó chỉ là những tiền đề, những cái chung
cho toàn thể giới, cho mọi dân tộc, vấn đề sau đây sẽ được nhắc đến là những
cải cách nhà nước trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện
nay.
III. Sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam.
3.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ xã hội chủ nghĩa
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ của nhan dân được cụ thể hóa trong các nội dung chủ yếu sau:
1. Bản chất và nội hàm của nền dân chủ xã hội nghĩa; quyền làm chủ của
nhân dân ở Việt Nam được thể hiện qua cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân làm chủ”
Cơ chế này được đề ra từ Đại hội lần thứ V của Đảng và được Đại hội VI
xác định là phương thức vận hành tổng thể của hệ thống chính trị Việt Nam Cơ
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” thể hiện mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân trong quá trính xây dựng và thực

hành dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo đó sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
7


Nhà nước là những điều kiện tiên quyết đảm bảo quyền làm chủ của Nhân dân.
Trong mối quan hệ này, Đảng xác định, Nhân dân ln ở vị trí trung tâm, ý chí,
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân là trước hết, trên hết, là mục
tiêu hướng tới của mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước. Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi
ích của nhân dân; cán bộ, cơng chức phải hồn thành tốt chức trách, nhiệm vụ
được giao, tơn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Có cơ chế cụ thể để
nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thơng
qua các cơ quan đại diện của mình”. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ được xác định là “một trong 10 mối quan hệ lớn,
phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về
đường lối đổi mới của Đảng… cần được nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt
sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả”.
2. Nhiệm vụ trọng tâm trong q trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đảng cộng sản Việt Nam xác định “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà
nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn
bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn

trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ
chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, vơ trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân;
8


giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của
Tổ quốc và nhân dân”[9].
Thể chế hóa quan điểm của Đảng về trách nhiệm của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp 2013 đã quy định: “Nhà nước bảo đảm và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân… Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt
chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân, kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách
dịch, cửa quyền (Điều 3 và Điều 8 Hiến pháp 2013).
3. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân là quan
điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa.
Một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp cách mạng do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là giải phóng con người khỏi mọi hình thức bóc
lột, bất cơng, xây dựng một xã hội nơi con người được tự do, ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc đúng với phẩm
giá con người. Do vậy vấn đề tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng ta quan niệm: “quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu
dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới
và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ tự nhiên; qua
đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại… Giải phóng con
người gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.
Chỉ dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới có

điều kiện được đảm bảo rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất. Trong chủ nghĩa xã hội,
có sự kết hợp hài hịa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội.
Chúng ta coi trọng bảo đảm lợi ích của cá nhân, của con người vì đó là mục tiêu,
là động lực của sự phát triển xã hội. Đồng thời bảo đảm lợi ích của tập thể, của
cả cộng đồng xã hội”[10].
9


Bước vào công cuộc đổi mới vấn đề tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con
người luôn được khẳng định trong các văn kiện đại hội Đảng, trong Hiến pháp
và pháp luật của Nhà nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội [1991 Bổ sung, phát triển năm 2011] nhấn mạnh: “Con
người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của
dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”.
Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần Hiến pháp 2013…hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ
của công dân… Bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng thành quả của
công cuộc đổi mới”.
Đại hội XIII đã xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong tôn trọng,
bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân. Theo đó Quốc hội tiếp tục
đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hòa thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân… Xây dựng nền hành chính phục vụ nhân
dân, dân chủ, pháp quyền… Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ cơng
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
4. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng để
xây dựng, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân
Trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam “Kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là
một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường;
một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường,

10


vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
chủ nghĩa xã hội thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu; tổ chức quản lý và phân phối.
Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội
chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội,
thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách
và trong suốt q trình phát triển… Mỗi chính sách kinh tế phải đều hướng tới
mục tiêu phát triển xã hội, mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế, khuyến khích làm giầu hợp pháp, phải đi đơi với xóa đói,
giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có cơng, những người có hồn
cảnh khó khăn[14].
Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam đang tạo ra nhiều điều kiện để các tầng lớp nhân dân vươn lên làm chủ
trong đời sống kinh tế; phát huy các nguồn lực và khả năng sáng tạo để thực
hiện quyền “tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật khơng
cấm”.
Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá
nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh, phát triển bền vững các ngành nghề
kinh tế, góp phần xây dựng đất nước.
Trong những năm qua, bất chấp các khó khăn, thách thức nền kinh tế đất

nước tiếp tục phát triển, đạt được những thành tựu to lớn, tạo lập nền tảng vật
chất quan trọng để xây dựng, và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách
thực chất, đảm bảo cho người dân khơng chỉ bình đẳng về quyền mà cịn bình
đẳng về điều kiện, cơ hội để làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội.
5. Xây dựng, không ngừng tăng cường, cũng cố đại đoàn kết toàn dân tộc
vừa là nội dung, vừa là yêu cầu quan trọng của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.

11


Ngay từ khi mới thành lập cho đến ngày nay Đảng Cộng sản Việt Nam và
Lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, chăm lo xây dựng, tăng cường, củng cố
sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc anh em, cùng chung sống hòa
thuận trên lãnh thổ Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân
dân không phân biệt giai cấp, dân tộc, tơn giáo đã tập hợp, đồn kết trong Mặt
trận dân tộc thống nhất đấu tranh giành độc lập cho đất nước trong cuộc Cách
mạng tháng Tám năm 1945, giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống
xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng
và phát triển đất nước. Trong công cuộc đổi mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
tiếp tục được phát huy, nhân lên mạnh mẽ, góp phần quan trọng trong việc đạt
được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng
định “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ
mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của Nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, độc lập ,thống nhất
tồn vẹn lãnh thổ “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm
điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung

của Quốc gia, dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân
nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài
nước; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo
sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc.
Đề cao sự tương đồng, tôn trọng sự khác biệt, thống nhất trong đa dạng là
cách tiếp cận nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ trong xây
dựng, củng cố khối đại đồn kết dân tộc mà cịn là những ngun tắc chỉ đạo
xun suốt q trình xây dựng, hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.

12


6. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng
pháp luật và được pháp luật bảo đảm.
Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung vào các mối quan hệ lớn cần nắm vững
và xử lý tốt để thực hiện thành công các định hướng lớn, bao quát những vấn đề
quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới, đó là mối quan hệ giữa thực
hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đây là mối
quan hệ quan trọng quyết định hiệu quả của thực hành dân chủ trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo đó các thể chế dân chủ, các thiết chế dân chủ,
quy trình, thủ tục thực hiện dân chủ phải được quy định trong Hiến pháp và
được cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. Việc tuân thủ nghiêm
minh các quy định của Hiến pháp và pháp luật về dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ của nhân dân là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, của
tồn xã hội và của toàn dân. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố, kỷ
luật, kỷ cương xã hội, tạo môi trường ổn định, an toàn, thuận lợi cho thực hành
dân chủ luôn đưọc Đảng, Nhà nước quan tâm. Đảng luôn nhấn mạnh “Phát huy
dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, kỷ cương xã hội; phê phán và
nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi

lợi dụng dân chủ làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, gây mất an ninh, trật
tự, an toàn xã hội”.
7. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện thơng qua nhiều hình thức với
nhiều cơ chế phù hợp với thực tiễn Việt Nam
Cương lĩnh xây dựng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hôi [Bổ sung, phát triển năm 2011] đã xác định “Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và
các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”.
Nét đặc sắc trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hình thức
dân chủ đại diện được thực hiện bằng cả hệ thống chính trị và thơng qua hoạt
động của hệ thống chính trị bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó Đảng lãnh
13


đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm
nịng cốt để Nhân dân làm chủ.
Song song với mục tiêu tăng cường hiệu qủa dân chủ đại diện, Đảng, Nhà
nước Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm phát huy dân chủ trực tiếp của Nhân
dân.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, dân chủ trực tiếp của Nhân
dân được thực hiện thông qua các cơ chế chủ yếu sau:
- Thực hiện quyền bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp; thực hiện quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân khi họ khơng cịn xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri.
- Tham gia trưng cầu ý dân khi Nhà nước tổ chức theo quy định của pháp
luật.
- Tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị
với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước.
- Thực hiện dân chủ ở cơ sở theo phương châm: “dân biết, dân bàn, dân

làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
3.2. Thực tiễn vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Nhìn lại 35 năm thực hiện cơng cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng
định “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử… Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay”. Cùng với những thành tựu to lớn ấy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục
có những phát triển quan trọng.
Quan điểm “Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
đất nước đã và đang được quán triệt trên mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội, và
việc phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn đã tạo động

14


lực quan trọng, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đất nước đã được
xác định trong các văn kiện đại hội của Đảng.
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ tiếp tục
được hồn thiện, có nhiều đổi mới phù hợp với nhu cầu phát triển đất nước trong
thời kỳ mới. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ngày càng gắn bó,
niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước
được tăng cường và nâng cao. Thông qua việc thực hiện cơ chế này, mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường. Nhận thức,
trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị được nâng cao;
coi trọng việc lắng nghe, nắm tình hình và giải quyết nguyện vọng, kiến nghị
hợp pháp, chính đáng của nhân dân… phát huy vai trò của nhân dân tham gia
xây dựng đảng”.
Sự nghiệp “xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến
bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và

hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp”[20]. Hoạt động của bộ máy nhà nước ngày càng hiệu quả, công khai,
minh bạch, phục vụ người dân. Công tác tiếp cơng dân, trách nhiệm giải trình
được đẩy mạnh, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân ngày càng được
chú trọng, theo quy định của pháp luật. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, giải quyết ngày càng tốt hơn các công
việc của người dân và chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp
luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân.
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định
đầy đủ hơn trong Hiến pháp 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban
hành và sửa đổi. Khẳng định rõ hơn các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo đảm,

15


bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách
nhiệm đối với xã hội.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng
cường trong bối cảnh đất nước cịn nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân… phát huy ngày càng tốt hơn vai trò
tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng Đảng, Nhà nước chăm
lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia xây
dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội; thường xuyên tổ chức các cuộc
vân động, phong trào thi đua yêu nước, góp phần tích cực vào những thành tựu
chung của đất nước.
Các quy định pháp luật về dân chủ trực tiếp của nhân dân, tiếp tục được
hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để nhân dân thực hiện quyền làm chủ

của mình. Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân được đổi
mới, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân bầu ra được các đại biểu thật sự tiêu
biểu cho ý chí, nguyện vọng của mình. Luật trung cầu ý dân được Quốc hội
thơng qua 2015 đã tạo khuôn khổ pháp luật phù hợp để nhân dân thể hiện ý chí
của mình về các vấn đề Nhà nước trung cầu khi Quốc hội quyết định Hệ thống
các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước, luật ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật tạo nhiều quy trình, thủ tục thuận lợi để nhân dân tích cực tham gia
quản lý nhà nước, tham gia thảo luận và kiến nghị với các cơ quan nhà nước về
các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở và pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, trị trấn có nhiều tiến bộ
Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày
càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách tiếp tục được hoàn thiện
phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc
tế[24]. Thành tựu trong xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ bảo đảm các quyền kinh tế, dân sự của con
người mà còn tạo ra những điều kiện và khả năng to lớn cho xây dựng, thực
hành dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội.
16


Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân vẫn đang đặt ra khơng ít vấn đề cần quan tâm giải
quyết.
- Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân
còn hạn chế.
- Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp
luật còn tồn tại ở nhiều nơi.
- Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực cịn bị vi phạm.
- Có lúc, có nơi việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình
thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây

rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
- Hệ thống pháp luật, cơ chế, quy chế, tổ chức và các điều kiện để thực thi
dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ.
- Khơng ít cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa là tấm
gương về phát huy dân chủ trong xã hội
IV. Một số giải pháp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Để thực hiện thành công các định hướng liên quan đến dân chủ xã hội chủ
nghĩa, Đại hội XIII của Đảng xác định một số giải pháp chủ yếu sau:
- Tiếp tục cụ thể hóa, hồn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân
chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
- Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp ủy, tổ chức đảng, các

17



×