Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN Một số biện pháp giúp xây dựng nề nếp học tập cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.12 KB, 24 trang )

1
SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM XÂY DỰNG NỀ NẾP HỌC TẬP TÍCH CỰC TỰ
GIÁC CHO HỌC SINH LỚP 4 THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ
NHIỆM LỚP
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Bối cảnh của giải pháp
- Vấn đề xây dựng nề nếp học tập cho học sinh được xem là một trong
những nhiệm vụ cần thiết trong công cuộc đổi mới công tác chủ nhiệm lớp hiện
nay. Chất lượng học tập hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực, tự giác
của học sinh. Học sinh có tính tích cực, tự giác sẽ chủ động suy nghĩ, tìm tịi,
khám phá, nghiên cứu và nắm được tri thức. Khi có tinh thần tự giác, các em sẽ
có ý thức chủ động ghi nhớ các bài giảng trên lớp, dù tiếp thu một lượng kiến
thức lớn nhưng vẫn hiểu và nắm chắc bài học. Khi đã tự học nắm chắc được lí
thuyết, các em biết chủ động luyện tập thực hành, vận dụng thực tế. Do đó việc
tích cực, tự giác có thể được coi là chìa khóa đi đến kho tàng tri thức, là điều
kiện giúp HS thành công trong học tập.
- Bởi vậy, một lớp học có nề nếp học tập tốt nhất định lớp học đó sẽ có
những con người ln có tính tích cực và chủ động trong mọi hoạt động. Mặt
khác, các em học sinh đang ở lứa tuổi tiểu học, đang cịn nhỏ nên cịn hiếu động,
chưa có ý thức tự giác cao và còn chờ giáo viên nêu yêu cầu, hướng dẫn, giảng
giải nhiều mới chịu giải quyết vấn đề. Do đó vấn đề rèn nề nếp học tập cho từng
cá nhân học sinh; tạo cho học sinh hứng thú học tập cũng như tích cực, tự giác
tham gia vào các hoạt động học tập. Đây là một việc làm vô cùng quan trọng và
cần thiết trong công cuộc giáo dục hiện nay.
2. Lý do chọn giải pháp.


2
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục tiểu học được coi là nền tảng.
Các em là những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển bền vững


của giáo dục Tiểu học.
Muốn đáp ứng được mục tiêu trên, giáo viên phải có một vai trị rất quan
trọng nhất là đối với giáo viên chủ nhiệm. Vậy muốn học sinh tìm ra nội dung
kiến thức bài học dưới sự hướng dẫn của giáo viên thì điều trước tiên người giáo
viên phải làm đó là phải xây dựng tốt nề nếp lớp học. Nề nếp là những việc làm,
những thói quen tốt trong học tập, sinh hoạt… của bản thân mỗi học sinh. Là
khởi đầu của hành vi đạo đức thông qua việc chấp hành những quy định nội quy
của lớp, nội quy của trường. Nề nếp lớp học là nhân tố quyết định chất lượng
học tập của học sinh.
Lớp học mất trật tự sẽ làm giáo viên mất nhiều thời gian ổn định và khó
đảm bảo chất lượng giờ dạy. Khi các em khơng có nề nếp các em sẽ nơ đùa, nói
chuyện riêng, lúc đó bản thân các em sẽ khơng tiếp thu được bài cịn làm ảnh
hưởng đến cả lớp, làm cho các học sinh khác cũng bị lôi cuốn theo, các hoạt
động học tập không nhịp nhàng dẫn đến sẽ mất thời gian chung, gây chán nản
cho những em học tốt.
Đối với học sinh lớp 4 tôi chủ nhiệm năm học 2022- 2023 các em đang ở
lứa tuổi thích vui chơi, thích khám phá nên cần xây dựng cho các em những thói
quen, nề nếp tốt để làm tiền đề, làm nền móng vững chắc giúp cho các em học
tốt hơn ở các lớp trên.Để giúp các em phát triển tốt về mọi mặt thì người giáo
viên phải làm tốt cơng tác chủ nhiệm. Từ những điều trên, tôi đã quyết định
chọn và nghiên cứu đề tài:“Một số biện pháp xây dựng nề nếp học tập cho
học sinh lớp 4”.
3.Phạm vi, đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng : Các em học sinh lớp 4A Trường Tiểu học …
- Các biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm lớp 4
4. Mục đích nghiên cứu.


3
Mục đích của biện pháp là giúp giáo viên có một số kinh nghiệm để nâng

cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp 4. Xây dựng nề nếp lớp cũng chính là rèn
nề nếp cho từng cá nhân học sinh, giúp các em có thói quen tốt trong sinh hoạt,
học tập, biết làm chủ bản thân sau này. Ngược lại, mỗi học sinh biết điều chỉnh
mình sẽ tác động tích cực đến nề nếp lớp. Các em biết điều gì nên làm và khơng
nên làm để hịa đồng cùng các bạn. Qua đó sẽ hình thành tính tự giác, tinh thần
tập thể trong các em.
PHẦN NỘI DUNG
I.

THỰC TRẠNG CỦA GIẢI PHÁP ĐÃ BIẾT.

a. Thực trạng chung: Hiện nay, việc đổi mới nội dung, chương trình sách
giáo khoa đang được triển khai rộng rãi trên khắp cả nước. Nội dung dạy học
thay đổi kéo theo sự thay đổi lớn về phương pháp dạy học. Bản chất của phương
pháp dạy học mới chính là sự tích cực hố hoạt động của người học, tức là phát
huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo tìm tịi của người học.Tuy nhiên việc phát
huy tính tích cực, tự giác của học sinh cịn nhiều vấn đề cần thảo luận khi đứng
trước tình trạng chung của một số học sinh là chưa tích cực, tự giác tham gia vào
quá trình học tập, chưa mạnh dạn tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức, chưa chủ động
tham gia vào hoạt động học tập.
b. Thực trạng của lớp hiện nay:
Ngay từ những năm học vừa qua, tôi được phân công làm công tác giảng dạy
và chủ nhiệm lớp 4/8, thông qua bước tìm hiểu đặc điểm tâm lý, hồn cảnh của
học sinh và qua thực tế giảng dạy, tôi nắm được thực trạng của lớp như sau:
+ Thuận lợi:
- Ban giám hiệu luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao đến việc rèn nề nếp học tập
cho học sinh.
- Giáo viên nhiệt huyết với nghề, u mến trẻ, ln có tình thần học hỏi và
đã vận dụng được việc đổi mới phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực.



4
- Đa số học sinh ngoan, lễ phép, được quan tâm chu đáo và trang bị đầy đủ
đồ dung học tập để phục vụ tốt cho hoạt động học tập.
+ Bên cạnh những thuận lợi đó thì lớp vẫn cịn tồn tại một số khó khăn như:
- Một số học sinh còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tự tin trong học tập.
- HĐTQ và các Nhóm trưởng chưa linh hoạt và chưa phát huy hết vai trị của
mình, làm việc đơi khi cịn rập khn, máy móc dẫn đến hiệu quả công việc
chưa cao.
- Ý thức tự học ở nhà của đa số học sinh chưa cao, diễn ra chưa đồng đều,
một số em học theo hướng đối phó hoặc học với hình thức qua loa, chiếu lệ.
- Bản thân giáo viên chưa mạnh dạn đẩy việc cho học sinh, cịn nói nhiều
trong các hoạt động giảng dạy.
Từ những thực trang nêu trên nên tôi luôn ý thức được đổi mới giáo dục hiện
nay là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Đứng trước nhiệm vụ cao cả đó,
tơi đã khơng ngừng nghiên cứu, tìm tịi những giải pháp hữu hiệu để nhằm giúp
học sinh phát huy được tính tích cực, tự giác trong học tập cho học sinh.

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Trình bày các bước/ quy trình thực hiện giải pháp mới
Giải pháp 1: Tìm hiểu đặc điểm tâm lí, hồn cảnh của học sinh và
phân loại đối tượng học sinh.
* Tìm hiểu đặc điểm tâm lí, hồn cảnh của học sinh.
+ Ngay vào buổi học đầu tiên, sau khi giới thiệu về bản thân, tôi đã tổ chức
cho các em chơi trò chơi “ Giới thiệu nhé!” các em được lần lượt giới thiệu về
mình như: tên, tuổi, sở thích, ước mơ tương lai, địa chỉ gia đình, em mong muốn
gì khi bước vào lớp, em muốn cơ giáo giúp đỡ em những gì khi em ở lớp, em
muốn các bạn trong lớp đối xử với mình thế nào.....Sau đó, tơi đã phát cho mỗi
em một phiếu điều tra và yêu cầu các em điền đầy đủ các thông tin trong phiếu.



5

GIỚI THIỆU VỀ EM NHÉ!
- Họ và tên:……………………………………………………………..
- Môn học u thích:..................................................................................
- Mơn học cảm thấy khó:...........................................................................
- Năng khiếu ( sở trưởng) của em là: ..............................................................
- Sở thích:..................................................................................................
- Ước mơ tương lai của em:...........................................................................
- Chỉ tiêu phấn đấu của em trong năm học 2020-2021
.................................................................
- Họ tên cha:.......................... Nghề nghiệp:..................... SĐT:.....................
- Họ tên mẹ:........................... Nghề nghiệp:.................... SĐT: ...................
- Em có mong muốn gì khi đến lớp học:........................................................
- Em mong muốn cơ giáo giúp đỡ em những gì:.............................................
Qua phiếu điều tra này, tôi nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về các
em và hiểu một phần về đặc điểm, tính cách của từng em, điều này rất có lợi cho
tơi trong công tác giảng dạy và giáo dục các em.
+ Một nguồn tin cũng vô cùng quan trọng nữa trong việc tìm hiểu các em, đó
chính là gia đình. Tơi chủ động liên lạc với phụ huynh trong những ngày đầu
đến lớp để trò chuyện, kết bạn ZALO để trao đổi với phụ huynh, lắng nghe


6
những nhận xét về tính tình, tính cách, sở thích về từng em học sinh. Hiện nay
lớp 4/1 đã được 46 phụ huynh tham gia trên tổng số 42 em học sinh, có những
em có cả bố và mẹ đều tham gia nhóm lớp. Đây là điều kiện rất thuận lợi để trao
đổi thơng tin với phụ huynh.


Hình ảnh: Trang nhóm zalo lớp 4/8 và những câu chuyện thân thiện giữa phụ
huynh và giáo viên
Bằng những hình thức tìm hiểu đó tơi đã nắm được những diễn biến về
tâm lý, tính cách và cả về thái độ học tập của các em. Từ đó, có thể đánh giá
hiệu quả những hành vi của các em và có thể đề ra được các phương pháp giảng
dạy và giáo dục có hiệu quả cho các em hơn.
* Phân loại đối tượng.
Sau khi tìm hiểu hồn cảnh, đặc điểm của các em học sinh, tôi tiến hành
phân loại đối tượng. Trong một lớp học tôi thường chia ra làm 3 loại đối tượng:
Đối tượng 1 ( ĐT1) : HS có tính tích cực, tự giác tốt
Đối tượng 2 ( ĐT2) : HS có tính tích cực, tự giác nhưng chưa cao
Đối tượng 3 ( ĐT3) : HS cịn thụ động, chưa tích cực
Từ việc phân loại đối tượng đó, tơi đã ghi nhận được kết quả như sau:

Sĩ số

Giai
đoạn

HS có tính tích
cực, tự giác tốt
SL

39

TL

HS có tính tích

HS cịn thụ


cực, tự giác

động, chưa tích

nhưng chưa cao

cực

SL

TL

SL

TL

Đầu
năm

Tùy từng loại đối tượng mà tơi có những biện pháp giáo dục, rèn luyện
khác nhau.


7
Ví dụ: Đối với ĐT1 ngồi việc thường xun nêu gương, khen ngợi trước
lớp tơi cịn thường xun giao nhiệm vụ cho các em quản lý, giám sát, theo dõi
các thành viên trong lớp. Đối với ĐT2 tôi thường xuyên động viên khen ngợi
kịp thời khi các em có những biểu hiện tốt, đồng thời theo dõi uốn nắn chấn
chỉnh kịp thời khi các em mắc sai lầm. Còn đối với ĐT3, tôi đặc biệt quan tâm,

chia sẻ nhiều hơn, tạo điều kiện để trò chuyện, gần gũi với các em nhiều hơn,
bên cạnh đó cùng phối hợp với HĐTQ, các nhóm trưởng, đơi bạn để giám sát
theo dõi uốn nắn các em liên tục hàng ngày, liên hệ ba mẹ các em thường xuyên
và kịp thời về những biểu hiện của các em trên lớp.
Giải pháp 2: Đổi mới phương pháp dạy học.
- Để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh thì địi hỏi
người giáo viên phải đẩy mạnh thực hiện đổi mới cách soạn và cách giảng tức là
thay đổi cách dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một chiều
sang cách dạy lấy học sinh làm trung tâm (tiếp cận năng lực người học) hay còn
được gọi là dạy và học tích cực. Trong cách dạy này học sinh là chủ thể hoạt
động, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích
cực giữa người dạy và người học. Từ những nhận thức đó, tơi đã vận dụng
những biện pháp cũng như những hình thức tổ chức lớp dạy cho phù hợp, như
sau:
a. Đẩy mạnh vai trò của Hội đồng tự quản ( HĐTQ) và nhóm trưởng.
- Năm học 2022 – 2023 tiếp tục đẩy mạnh vai trò đội ngũ HĐTQ năng
động nhiệt huyết và tràn đầy trách nhiệm. Để làm được điều đó thì ngay từ đầu
năm học, bên cạnh việc tổ chức cho học sinh bình bầu HĐTQ; thành lập các
nhóm trưởng, các ban của lớp dưới hình thức ứng cử, đề cử một cách dân chủ,
khách quan và việc định hướng những nhiệm vụ cho HĐTQ, các nhóm trưởng
để các em có thể quản lý, điều hành, giám sát việc thái độ học của từng thành
viên trong nhóm và trong lớp của mình thì giáo viên cần phài đề ra các giải pháp
cụ thể rõ ràng như:


8
+ Phải thường xuyên uốn nắn huấn luyện, bồi dưỡng cho đội ngũ HĐTQ,
nhóm trưởng, trưởng các ban,… một phong thái tự tin, năng nổ, hoạt bát, chăm
ngoan, học giỏi, có tinh thần trách nhiệm, ln nghiêm túc hồn thành nhiệm vụ
giáo viên giao cho. Việc huấn luyện thì phải cụ thể, rõ ràng để các em hiểu vai

trò của mình chứ khơng thể giao nhiệm vụ chung chung.
+ Phải luân phiên thay đổi HĐTQ 2 đến 3 lần/ 1 năm, nhóm trưởng 2 tháng/
1 lần). Để đảm bảo cho tất cả những em có nguyện vọng, có năng lực đều có thể
được thể hiện hết khả năng của mình.
+ Đầu năm HĐTQ, trưởng các ban, các tổ trưởng đều phải có một cuốn sổ
tay ghi chép cá nhân. Lưu ý các em theo dõi sát sao hơn đối với những em thuộc
ĐT2 và ĐT3. Các em sẽ ghi lại những biểu hiện tích cực, tiêu cực của các bạn
thành viên trong nhóm mình, sau đó sẽ bàn giao lại cho HĐTQ. HĐTQ có
nhiệm vụ nhắc nhở và báo cáo kịp thời lại với giáo viên để giải quyết và cùng đề
ra những biện pháp khắc phục.
+ Từ những buổi đầu đi học, vào những tiết truy bài đầu giờ, tơi thường vào
vai “mình là HĐTQ và bắt đầu thể hiện cách bao quát lớp, cách tổ chức chia sẻ
kiến thức, cách tổ chức để các bạn tương tác, trao đổi với nhau”. Hay vào vai
Nhóm trưởng tổ chức cho các bạn làm việc cá nhân, đôn đốc, nhắc nhở các cá
nhân, tổ chức trao đổi kết quả, chất vấn kết quả và thống nhất kết quả chung.
Lúc đó HĐTQ và các nhóm trưởng sẽ “dự giờ” quan sát tơi làm việc, bước đầu
bắt chước theo cô và dần dần hình thành được thói quen, nhiệm vụ cơng việc
của mình.
+ Thường xuyên tạo điều kiện để HĐTQ và các nhóm trưởng cùng “ngồi
lại” để đề ra các giải pháp giúp đỡ những bạn chưa tích cực hoặc cịn vi phạm.
+ Một việc cũng vô cùng quan trọng nữa là giáo viên phải biết kịp thời động
viên, khen ngợi, biểu dương trước lớp đối với những “cán bộ” hoàn thành tốt
nhiệm vụ của mình.
b. Tăng cường đổi mới phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực


9
- Bản thân tôi đã mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng linh
hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học tích cực , dạy học lấy học sinh làm
trung tâm, sử dụng các hình thức dạy học tích cực như: Khăn trải bàn, sơ đồ tư

duy, bàn tay nặn bột, nhóm cộng tác... nhằm rèn cho học sinh kỹ năng phân
tích, tổng hợp, kỹ năng diễn đạt, trình bày ý kiến trước tập thể.
- Trong quá trình dạy học tôi luôn ý thức được giáo viên chỉ là người định
hướng, tổ chức cho học sinh hoạt động học tập cịn học sinh phải tự tìm tịi,
chiếm lĩnh tri thức. Vì vậy trước khi soạn một kế hoạch dạy học tôi luôn
nghiên cứu lựa chọn các phương pháp, kỹ thuật dạy hoc tích cực phù hợp để
giúp học sinh phát triển tối đa năng lực và phẩm chất.
Ví dụ 1: Hay khi dạy bài Quả - Tự nhiên xã hội 3. Để phát huy tính tích cực,
tự giác cho học sinh và để giờ học có hiệu quả thì khi đi vào hoạt động tìm hiểu
các bộ phận của quả tôi tiến hành sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột. Trước
tiên cho học sinh dự đoán về các bộ phận của quả, sau đó các em sẽ bổ sẻ quả
để tự tìm tịi và khám phá trên thực tế các loại quả mà các em mang đi.
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Chia số có ba chữ số cho số có một chữ số” – Tốn 3/
tập 2. Ở hoạt động hướng dẫn học sinh thực hiện phép chia 648 : 3. Tôi vận
dụng phương pháp thực hành và kỹ thuật khăn trải bàn để học sinh tìm cách đặt
tính và thực hiện phép tính chia 648 : 3. Cụ thể:
Giáo viên chuẩn bị mỗi nhóm một tờ giấy A1 hoặc A3 sau đó chia lớp ngồi
thành nhóm 4. Học sinh sẽ làm việc cá nhân, suy nghĩ cách đặt tính và thực
hiện tính vào mỗi góc của tờ giấy. Sau thời gian làm việc cá nhân, các thành
viên chia sẻ ý kiến của mình và nhóm thống nhất ý kiến chung vào ô giữa của
khổ giấy. Sau khi hồn tất, đại diện một nhóm sẽ lên trình bày, các nhóm cịn
lại sẽ nhận xét, bổ sung và chất vấn kiến thức xoay quanh kết quả của nhóm.

Hình ảnh: Các em vận dụng phương pháp học tập tích cực tại lớp 4/8


10
-> Qua vận dụng những phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực đó tơi
nhận thấy các em có tinh thần tự học, tự khám phá kiến thức mới chủ động và
hứng thú hơn.

- Tuy nhiên việc lựa chọn phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực phải
ln bám sát nội dung kiến thức, mục tiêu bài học, phải phù hợp với đối tượng
học sinh và tình hình thực tế lớp học.
c. Dạy học theo hình thức cá nhân phối hợp học tập hợp tác.
- Để phát huy được tính tích cực, tự giác cho học sinh địi hỏi người giáo
viên phải linh hoạt khi sử dụng các hình thức dạy học, các hình thức dạy học
bao giờ cũng phải đi từ hình thức dạy học cá nhân, nhóm nhỏ, nhóm lớn rồi mới
đến tập thể lớp.
- Khi thiết kế các hoạt động giáo viên cần chú trọng đến hoạt động của cá
nhân, phải tạo điều kiện để tất cả các cá nhân đều được hoạt động, được chia sẻ
và hợp tác giao lưu kiến thức và nếu hoạt động cá nhân hiệu quả thì hoạt động
nhóm cũng sẽ đạt hiệu quả cao.
- Đối với hoạt động nhóm, giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh hợp tác
với nhiều đối tượng khác nhau. Hợp tác giữa học sinh – học sinh; học sinh –
giáo viên; học sinh trong lớp – học sinh lớp bạn. Với sự hợp tác qua lại giúp học
sinh vừa học tập lẫn nhau, vừa biết trao đổi với giáo viên những điều các em cịn
vướng mắc. Từ đó sẽ giúp các em định hướng được mục đích học tập đúng đắn
và lĩnh hội vốn kiến thức phong phú hơn.
Hình ảnh: Các hoạt động học tập hợp tác trong nhóm tại lớp 4/8
- Mặt khác khi các em được hợp tác với bạn các em sẽ được thoải mái bộc lộ suy
nghĩ của mình, biết lắng nghe lựa chọn, tiếp nhận ý kiến của người khác để bổ
sung vào sự hiểu biết của mình. Bên cạnh đó các em sẽ được rèn luyện tinh thần
thi đua, ý thức trách nhiệm, đánh giá và tự đánh giá. Ngồi ra các em cịn được
rèn luyện kĩ năng diễn đạt nêu ý kiến của mình cho bạn nghe tạo hứng thú học
tập, tạo động lực thi đua cho các thành viên…


11
- Ở mỗi hoạt động cá nhân hay hợp tác nhóm tơi ln duy trì thường xun
và rèn trở thành thói quen cho học sinh việc tương tác đánh giá lẫn nhau nhưng

với hình thức nhẹ nhàng, chân thật và đầy khích lệ để các em tự ý thức và tự
nhận ra những khuyết điểm của mình từ đó các em sẽ tự cân bằng và tự sửa chửa
hành vi khuyết điểm của bản thân. Tơi ln khuyến khích học sinh tự đánh giá
bản thân, đánh giá bạn của mình. Từ những nhận xét đánh giá đó học sinh sẽ tự
hồn thiện bản thân mình, tự điều chỉnh dần những hạn chế của bản thân hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài Tiếng ru, môn Tập đọc tiết 24, ở hoạt động Tìm hiểu
bài tơi thiết kế theo hình thức cho học sinh thực hiện vào phiếu giao việc, học
sinh sẽ được làm việc cá nhân trước, sau đó sẽ tìm bạn cùng tiến độ trao đổi kết
quả và bày tỏ suy nghĩ của mình về câu hỏi số 2

PHIẾU GIAO VIỆC
+ Cá nhân thực hiện trả lời nội dung hai yêu cầu sau:
1. Con ong yêu................................. Con cá yêu............................... Con
chim yêu............................ Vì sao? (Chọn đáp án đúng nhất)
a) Con ong yêu hoa vì hoa đẹp. Con cá yêu nước vì nước cung cấp thức ăn nước
uống cho cá. Con chim yêu trời vì nó sống trên trời.
b) Con ong u hoa vì hoa có màu sắc sặc sỡ. Con cá u nước vì cá sống dưới
nước. Con chim yêu trời vì nó sống trên trời.
c) Con ong yêu hoa có nhiều mật ngọt, giúp ong tạo ra những giọt mật thơm cho
đời. Con cá u nước vì nhờ có nước cá mới sống và tung tăng bơi lội được. Con
chim yêu trời vì nhờ có bầu trời bao la chim mới thỏa thích bay lượn, hót ca.
2. Theo em con người muốn sống phải yêu những gì?
.................................................................................................................................
+ Trao đổi kết quả trong nhóm đơi, sau đó nhóm trưởng tổ chức nêu ý kiến,
thống nhất kết quả trong nhóm 4.


12
- Trong q trình làm việc GV đóng vai trị là người tổ chức, định hướng
cho HS, đưa ra kết luận cuối cùng về nội dung, cách trình bày và diễn đạt của

HS.
d. Dạy học theo hướng phát triển năng khiếu và theo nhóm đối tượng
học sinh.
* Dạy học theo hướng phát triển năng khiếu cho học sinh.
- Nhà bác học vĩ đại Albert Einstein đã từng nói rằng: Mỗi người đều là
một thiên tài. Nhưng nếu bạn đánh giá một con cá bằng khả năng trèo cây, cả
đời nó sẽ tin rằng mình thật là ngu ngốc. Đúng vậy, mỗi một con người sinh ra
đều là một thiên tài và mỗi người đều có một điểm nội trội cho riêng mình. Hiểu
được giá trị đó nên ngay từ đầu năm học tơi đã tìm hiểu năng khiếu, sở trường
của từng thành viên trong lớp, sau đó dần dần khơi gợi và phát huy hết những
năng khiếu nổi bật của các em, để các em thấy được mình ln được đề cao từ
đó sẽ có ý thức chủ động, sẽ tích cực hơn.
Ví dụ: Đối với những em có năng khiếu mơn Tốn, ngồi bồi dưỡng kiến
thức nâng cao cho các em tơi cịn ln phân cơng em đi giúp đỡ, hỗ trợ những
bạn cịn chưa tốt mơn Tốn. Hay những em có năng khiếu về hát, tơi ln tạo
điều kiện để em được thể hiện giọng hát của mình ( khơng chỉ trong giờ âm nhạc
mà có thể là giờ nghỉ giải lao giữa tiết mời em hát tặng cơ và các bạn bài hát em
u thích) và khơng quên khen ngợi về năng khiếu của em.
- Tôi nhận thấy thông qua dạy học theo hướng phát triển năng khiếu sẽ tạo
có các em được cảm giác tự tin hơn trong học tập, hiệu quả học tập cũng cao
hơn.
* Dạy học theo nhóm đối tượng học sinh.
- Bên cạnh điều chỉnh nội dung bài thì việc dạy học theo sự phân hóa đối
tượng học sinh cũng rất cần thiết, một kế hoạch bày dạy giáo viên phải biết bám
sát theo từng đối từng học sinh để có những hình thức dạy học phù hợp với từng
đối tượng học sinh đó nhưng vẫn đảm bảo được lượng kiến thức, mục tiêu của
mỗi bài dạy.


13

- Do tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập của HS khác nhau nên trong
quá trình tổ chức hoạt động học GV linh động, chuẩn bị nội dung kiến thức cho
HS nhanh nhẹn hoàn thành trước để các em được rèn luyện, luyện tập ... tránh
sự ngồi không chờ bạn, gây nhàm chán,......
Ví dụ: Khi dạy bài Tìm số chia, mơn Tốn tiết 39, ở bài tập 2, tơi thiết kế
cho học sinh làm bài tập vào phiếu bài tập, bên cạnh đó tơi cịn bổ sung thêm hai
bài nâng cao hơn, để khuyến khích những bạn vận dụng nhanh( trong khi chờ
các bạn chậm hơn hồn thành thì bản thân có thể thử sức giải quyết được bài
tốn nâng cao này). Qua hoạt động này, không chỉ dành cho học sinh trung bình
và khá mà cịn có bài lựa chọn cho học sinh có năng khiếu.

PHIẾU BÀI TẬP
(Trong thời gian 4 phút)
+ Cá nhân thực hiện yêu cầu sau: Tìm x
a) 12 : x = 2
b) 42 : x = 6
c) 27 : x = 3
........................................................................................................................
........................................................................................................................
d) x : 5 = 4
e) x x 7 = 70
........................................................................................................................
........................................................................................................................
+ Nếu còn thời gian thực hiện hai bài tốn này giúp cơ nhé!
a) x : 4 = 5 dư 2
b) 16 : x = 3 dư 1
........................................................................................................................
........................................................................................................................
+ Trao đổi kết quả trong nhóm đơi, sau đó nhóm trưởng tổ chức thống nhất
kết quả và sửa bài trong nhóm 4.



14

e. Dạy học kết hợp các trò chơi học tập.
- Như chúng ta đã biết trò chơi học tập là một hoạt động mà các em hứng
thú nhất. Thông qua các trò chơi, các em sẽ lĩnh hội những tri thức một cách dễ
dàng; kiến thức sẽ được củng cố, khắc sâu một cách vững chắc, tạo cho các em
niềm say mê, hứng thú trong học tập. Và khi chúng ta đưa ra được các trò chơi
học tập một cách thường xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng dạy học sẽ
ngày một nâng cao hơn.
- Để các trò chơi góp phần mang lại hiệu quả cao trong giờ học, khi tổ chức
và thiết kế trò chơi phải đảm bảo những nội dung ý nghĩa sau:
+ Thiết kế trò chơi để củng cố bài học thì phải dựa vào nội dung bài học,
điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho phù hợp.
+ Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục; phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu
nội dung bài học; trị chơi khởi động, thư giãn tạo tâm thế cho giờ học,…hình
thức tổ chức trị chơi phải đa dạng, phong phú; trị chơi phải có thưởng - phạt
phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp nhận thoải mái và tự giác
làm trò chơi thêm hấp dẫn, sinh động hơn lôi kéo được các em tham gia các hoạt
động học có hiệu quả.
Ví dụ: Khi dạy bài “Mở rộng vốn từ Thiếu nhi”, môn Luyện từ và câu, sau
khi cho cá nhân tìm hiểu các từ ngữ nói về trẻ em, tính nết của trẻ em, tình cảm
dành cho trẻ em thì tơi tổ chức cho học sinh chơi trị chơi tiếp sức. Qua trò chơi
này học sinh sẽ hứng thú và tích cực tham gia vào hoạt động học tập hơn.
Hay khi dạy bài Tiền Việt Nam, mơn Tốn: Để học sinh có kĩ năng tính tốn,
nắm vững một số đơn vị (tờ) tiền Việt Nam hiện nay. Biết ứng dụng để trao đổi
hàng hố khi cần thiết. Tơi đã tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Đi chợ”. Giáo
viên chia lớp thành hai đội chơi, và chuẩn bị cho mỗi đội khoảng 50 nghìn đồng,
gồm các mệnh giá 2 nghìn, 5 nghìn, 10 nghìn và 20 nghìn. Tiếp tục giáo viên

bày ra một số đồ dung học tập (bút, thước, sách, vở, truyện) có ghi sẳn giá tiền.
Sau đó giáo viên tổ chức chơi. Khi giáo viên hơ: “Bắt đầu” và tính giờ thì 2 bạn


15
của 2 đội sẽ được vào “quầy” chọn mua các đồ thích hợp, mua tới đâu bỏ tiền
vào hộp tới đó. Tiếp theo đó, giáo viên hơ: “đóng cửa” thì 2 bạn phải lập tức rời
quầy, bàn giao số tiền còn lại cho 2 bạn tiếp theo, giáo viên lại hô: “Mở cửa” và
2 bạn tiếp lại vào chọn mua hàng cho tới hết giờ, các bạn phải nộp giỏ hàng cho
giáo viên cùng các bạn kiểm tra. Nếu số mặt hàng mua đủ và vừa hết tiền là
người “Khéo mua”, nếu thừa tiền mà khơng mua được hàng thì sẽ thua cuộc.
Căn cứ vào kết quả trên mà giáo viên và lớp công nhận đội thắng cuộc.
 Tôi nhận thấy rằng trò chơi này thật là mới mẻ đối với các em, thơng
qua trị chơi này các em đã được tiếp xúc với cuộc sống hàng ngày và các em
vận dụng được những kĩ năng tính tốn đã học của mình vào thực tế cuộc sống.
Đúng theo tinh thần đổi mới của chương trình GDPT 2018. “Mang cuộc sống
vào bài học, đưa bài học vào cuộc sống”.Chính điều đó đã lơi cuốn các em
tham gia trị chơi và nắm kiến thức bài học thật nhanh chóng.
g. Dạy học kết hợp sử dụng đồ dùng dạy học và Ứng dụng cơng nghệ
thơng tin
- Trong q trình cơng tác giảng dạy, trong những năm qua, tôi nhận thấy
rằng việc truyền thụ kiến thức cho các em dễ hiểu, dễ nhớ và tiếp thu bài một
cách nhanh chóng và tự giác thì thiết đòi hỏi giáo viên phải sử dụng đồ dùng dạy
học để minh họa cho học sinh. Từ đó, học sinh chú ý làm việc một cách cao độ
mạnh dạn đưa ra nhiều vấn đề để tư duy, trao đổi, thảo luận làm cho học sinh
linh hoạt hơn, hứng thú hơn, khắc sâu kiến thức hơn và có thái độ tìm tịi sáng
tạo. Hơn.
- Nhận thức được điều đó nên ngay từ đầu năm học, trong q trình dạy học
tơi luôn định hướng, tổ chức cho học sinh sưu tầm tranh ảnh có ở các loại báo,
tạp chí, bìa lịch. Chọn các loại vật liệu sẵn có ở địa phương như trái cây, hoa,

gỗ, lá, thân cây. Hay làm các thanh hình chữ nhật (bằng gỗ, bìa), có các chấm
trịn để học bảng nhân nhân, bảng chia.


16
- Khi dạy các bài trong môn Tiếng Việt, môn Tự Nhiên Xã Hội, môn Đạo
Đức, tôi hướng dẫn học sinh sưu tầm các loại tranh ảnh theo các chủ đề về
quê hương đất nước, rừng, núi, biển, con người, con vật, những đồ vật phù hợp
với thành thị hoặc nông thôn.
Qua việc sử dụng đồ dùng trực quan trong các tiết dạy làm cho giờ học sinh
động, sôi nổi hẳn lên, lôi cuốn được tất cả học sinh cùng làm việc và suy nghĩ.
- Trong quá trình dạy học, có những bài giảng nội dung kiến thức khó địi
hỏi phải có hình ảnh trực quan sinh động và chính xác, giáo viên lại khơng có
điều kiện cho học sinh đi tham quan thực tế thì việc khai thác các tư liệu hình
ảnh, nội dung, tư liệu bài giảng giới thiệu cho học sinh mang tính chân thực,
phong phú là vô cùng quan trọng. Trong bài giảng điện tử các em cịn có thể làm
quen với những hiện tượng tự nhiên, về thế giới xung quanh mà các em ít có thể
tự bắt gặp trong thực tế. Thơng qua những giờ học có áp dụng cơng nghệ thơng
tin thì học sinh sẽ cảm thấy hứng thú hơn, tích cực, chủ động hơn khi tham gia
các hoạt động hoạt động học tập từ đó chất lượng học của các em sẽ đạt hiệu quả
cao hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài Cơ quan tuần hồn – tiết, mơn Tự nhiên xã hội. Tơi
Ứng dụng công nghệ thông tin bằng cách cho các em xem đoạn video về sự vận
chuyển của máu đi khắp cơ thể. Qua đoạn video này học sinh sẽ thấy rõ cơ quan
tuần hoàn bao gồm những bộ phận nào và sự di chuyển của máu như thế nào
trong cơ thể mình. Và một điều đặc biệt nữa đó là học sinh rất vui thích và hứng
thú.
Hay khi dạy bài Nói, viết về cảnh đẹp đất nước, mơn Tập làm văn, Tôi Ứng
dụng công nghệ thông tin bằng cách cắt ghép các video về một số danh lam
thắng cảnh của đất nước Việt Nam, của tỉnh Đồng Nai. Để học sinh có cái nhìn

trực quan hơn. Nhờ vậy mà học sinh hứng thú, cảm hứng để nói về những cảnh
đẹp một cách chi tiết và sinh động.
h. Dạy học hết hợp tổ chức các hình thức thi đua, khen thưởng.


17
- Tâm lý con người chúng ta ai cũng thích được khen và với trẻ em thì điều
đó lại càng có ý nghĩa hơn. Nếu được khen lịng sẽ vui vẻ, cởi mở hơn, ý thức về
công việc sẽ hiệu quả hơn. Nhận thấy được điều đó nên ngay từ đầu năm học tơi
đã thường xun tổ chức các hình thức thi đua khen thưởng cho các em để các
em ln biết phấn đấu đạt nhiều thành tích. Và các hình thức thi đua bao giờ
cũng phải đi từ hình thức cá nhân đến nhóm, tổ và lớp.
- Ở lớp tơi, cụ thể tơi đã tổ chức các hình thức thi đua cho các em học sinh
thông qua các công cụ hỗ trợ như sau:
+ Đầu năm học, tôi cùng các em học sinh thực hiện làm một mơ hình với tên gọi
“ Vườn hoa thi đua”, kết hợp với những lá cờ đỏ. Sau mỗi lần được đánh giá
xuất sắc, tiến bộ hoặc có những biểu hiện tích cực hơn các em lại được cô tặng
một lá cờ để cắm vào vị trí trên bảng ứng với số thứ tự của mình. Cuối tuần vào
tiết sinh hoạt, các bạn sẽ cùng nhau tổng kết xem thử bạn nào được cờ và bạn
nào nhiều cờ nhất. Tất cả những bạn đó sẽ được một phần q. Qua hình thức
này tơi thấy các em rất thích thú, em nào cũng mong muốn được nhận cờ của cô
và mỗi lần được nhận cờ thì tâm trạng của các em rất vui vẻ, phấn khởi hẳn lên.
Từ đó cũng phần nào rèn được ý thức tự giác tham gia các hoạt động được tốt
hơn.

Hình ảnh: Bảng Vườn hoa thi đua và các bạn được nhận cờ tuyên dương.
+ Xây dựng góc học tập – là nơi tôi thường trưng bày các sản phẩm tốt của
các em và kể cả những sản phẩm chưa tốt lắm nhưng sản phẩm đó là sự tiến bộ
rõ rệt của học sinh, để các em thấy mình được quan tâm, thấy được sự nỗ lực
của bản thân cũng được cô ghi nhận kết quả tốt.

- Việc tổ chức thi đua giữa đơi bạn, giữa các nhóm và các tổ với nhau cũng
vơ cùng cần thiết. Nếu nhóm nào có tinh thần hợp tác tốt, hồn thành kế hoạch
tốt thì nhóm đó sẽ được tun dương và khen thưởng. Và ngược lại nếu nhóm


18
nào làm mất trật tự thì sẽ bị trừ điểm thi đua. Đây là các hình thức tơi sử dụng
xun suốt trong các quá trình học tập của các em.
-> Bên cạnh hình thức tổ chức thi đua, khen thưởng thì việc tạo cho học
sinh một mơi trường học tập hạnh phúc và an tồn cũng vơ cùng quan trọng
đối với một giáo viên hiện nay. Nhận thức được điều này nên mỗi khi bước vào
lớp tôi luôn tạo cho các em một cảm giác học tập thoải mái, không gị bó, ép
buộc học sinh phải nhất nhất theo quan điểm của mình. Để các em thoải mái bộc
lộ cảm xúc của mình, trả lời theo ý kiến của cá nhân mình. Ln động viên
khích lệ các em sau mỗi câu trả lời và đặc biệt không chê bai, phê bình hay coi
thường các em. Có như vậy các em mới mạnh dạn và tự tin, chủ động hơn trong
học tập.
Biện pháp 3: Xây dựng nề nếp học tập ở nhà
Hiện nay, Nhà nước đã có chủ trương xã hội hố giáo dục vì vậy gia đình,
nhà trường và xã hội cùng kết hợp giáo dục các em giúp các em có một nề nếp
học tập tốt. Vì thế gia đình cũng là mơi trường giúp các em có thể học tập ngoài
những giờ học ở trên lớp. Tuy học sinh lớp 4 được học 5 buổi/ tuần, toàn bộ
phần bài tập, bài học được giáo viên hướng dẫn học sinh về nhà hồn thành vì
vậy cần rèn cho các em có nề nếp buổi tối về nhà biết ngồi vào góc học tập của
mình, để học bài và cùng với sự hướng dẫn của bố mẹ tự soạn sách vở, đồ dùng
học tập cho ngày hôm sau. Để thực hiện tốt nề nếp học tập ở nhà thì mỗi học
sinh phải có góc học tập riêng.
Biện pháp 4: Phối hợp giáo viên bộ mơn và gia đình để xây dựng tốt
nề nếp của lớp
Ở lớp 4 ngoài giáo viên chủ nhiệm thì các em cịn được học các thầy cô

giáo bộ môn khác : Tiếng Anh, Âm nhạc, Thể dục, Mĩ thuật... Đây là những
thầy cô trực tiếp giảng dạy các em trong năm học nên ngay từ đầu năm học, tôi
đã kết hợp chặt chẽ với giáo viên bộ mơn. Trao đổi tình hình chung của lớp với
GV bộ môn và những quy định chung của lớp để GV nắm và thực hiện theo nề
nếp đã có.


19
Bên cạnh đó gia đình đóng vai trị quan trọng trong việc xây dựng nề nếp
lớp học và chất lượng học tập của các em, vì thế phải có sự phối hợp chặt chẽ
giữa giáo viên chủ nhiệm lớp và gia đình phụ huynh. Nắm được tầm quan trọng
đó ngay từ đầu năm học giáo viên tổ chức họp phụ huynh với nội dung thông
báo về nhiệm vụ, kế hoạch, chỉ tiêu phấn đấu của năm học, thông báo nội quy
của học sinh tiểu học, một số quy định về xây dựng nề nếp cho học sinh. Nêu
quy định về các loại sách vở, quy định về việc học của lớp, ở nhà của học sinh.
Sau khi trao đổi yêu cầu của việc giảng dạy, học tập, xây dựng nề nếp lớp, tôi đã
cùng phụ huynh phối hợp chặt chẽ để giáo dục cho các em.
Ngồi ra, tơi cịn phát cho mỗi em một phiếu điều tra và yêu cầu phụ
huynh điền thông tin vào phiếu.Qua phiếu điều tra này, tôi nắm được đầy đủ các
thông tin cần thiết về từng học sinh để ghi vào Sổ Chủ nhiệm. Và quan trọng
hơn cả là tôi đã hiểu một phần về học sinh của mình, điều đó rất có lợi cho tôi
trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh.

Phiếu điều tra thơng tin học sinh

Một số em có biểu hiện khơng chấp hành tốt nội quy của lớp thì giáo viên
trực tiếp mời phụ huynh đến để có biện pháp kết hợp giúp đỡ. Bằng những việc
làm đó tơi thấy có hiệu quả rõ rệt, phụ huynh ngày càng tin tưởng tơi hơn, đồng
tình với tơi để phối hợp giáo dục con em họ.
2. Những ưu điểm, nhược điểm của giải pháp mới.

 Ưu điểm:
- Đề tài xây dựng dựa trên cơ sở phát triển năng lực, phẩm chất cho học
sinh bằng cách tác động vào tâm lí để xây dựng nề nếp học tập tích cực tự giác
cho các em.


20
- Biện pháp mang lại hiệu quả cao mà không tốn nhiều chi phí đầu tư. Sự
thành cơng của giải pháp chủ yếu phụ thuộc vào nhiệt huyết, tình yêu nghề ucra
người thầy.
- Biện pháp hoàn toàn phù hợp với tình hình giáo dục trong bối cảnh và
thực tế lớp tôi
*Nhược điểm:
- Đầu tư nhiều thời gian và tâm huyết của giáo việc và sự hợp tác của học
sinh

3. Đánh giá về sáng kiến được tạo ra
a. Tính mới.
Các biện pháp trên có thể áp dụng cho giáo viên chủ nhiệm ở tất cả các
khối lớp trong toàn trường, đồng thời phần nào đáp ứng được yêu cầu đổi mới
phương pháp hiện nay, tạo khơng khí giờ học thật sự vui, hứng thú, phát triển
được năng lực hợp tác cho học sinh.
Với nội dung nghiên cứu trên, tôi nhận thấy khả năng áp dụng vào thực tế
là khả thi, có hiệu quả. Giáo viên tồn trường đều có thể áp dụng để thực hiện.
Chỉ cần chúng ta thực sự tâm huyết, đầu tư về thời gian chuẩn bị.
b. Hiệu quả áp dụng
- Trước khi vận dụng sáng kiến tôi thấy các em còn thụ động trong học tập rất
nhiều, còn nhiều trường hợp ỷ lại, trông chờ sự hướng dẫn và giảng giải nhiều
của giáo viên mới chịu giải quyết vấn đề. Học sinh chưa mạnh dạn tự tin trong
học tập; các nhóm trưởng và HĐTQ chưa linh hoạt khi thực hiện nhiệm vụ được

giao. Giáo viên cũng vất vả hơn khi phải vừa kết hợp giảng dạy vừa nhắc nhở
các em hoàn thành nhiệm vụ học tập. Nhưng khi sử dụng các biện pháp giáo dục
trên tôi nhận thấy, HS có nhiều chuyển biến rõ rệt, các em tích cực, chủ động
hơn, biết tự học và tự giải quyết các tình huống khi chưa có sự có mặt của giáo



×