Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tiểu luận Nghiên cứu một số vấn đề phương pháp nghiên cứu lịch sử, từ đó làm rõ ý nghĩa của vấn đề đó với việc nghiên cứu lịch sử potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 27 trang )

Tiểu luận
Nghiên cứu một số vấn đề
phương pháp nghiên cứu lịch
sử, từ đó làm rõ ý nghĩa của
vấn đề đó với việc nghiên cứu
lịch sử


LỜI NĨI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Tìm hiểu một bộ môn khoa học, cũng như bất cứ một sự kiện lịch sử nào,
bao giờ cũng xem xét theo quan điểm biện chứng mà Lênin đã nêu ra: từ đâu mà
có, đã trải qua những giai đoạn phát triển nào để trở thành như ngày nay và
tương lai sẽ đi đến đâu.
Bất cứ người nghiên cứu lịch sử nào cũng phải đặt và giải quyết những
vấn đề phương pháp luận theo quan điểm của một giai cấp nhất định. Trong ý
nghĩa và mức độ nhất định, phương pháp luận là một nhân tố quan trọng, có tính
quyết định đối với sự thành công của người nghiên cứu, học tập lịch sử, tức là
đạt được chân lý khách quan về hiểu biết một cách tương đối quá khứ.
Tuy nhiên, việc nắm vững và vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận
phải rất sáng tạo, khắc phục những sai sót, về mặt cơng thức, giáo điều, chủ
quan phiến diện. Bởi vì, chúng ta đã xác định rằng, phương pháp luận mácxít –
lêninnit được xây dựng chủ yếu trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử, song không
đồng nhất phương pháp luận lịch sử với duy vật lịch sử. Ngoài những kiến thức
cơ bản về duy vật lịch sử, phương pháp luận còn bao gồm nhiều kiến thức về
logic học, nhận thức luận… đòi hỏi sự hiểu biết sâu rộng về lịch sử. Những vấn
đề lịch sử cụ thể vừa là cơ sở để nhận thức phương pháp luận sử học, vừa là
thể hiện kết quả của việc vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận vào tìm
hiểu, nghiên cứu lịch sử.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những thập kỷ gần đây, vấn đề phương pháp luận của các khoa


học và của hoạt động con người nói chung được chú ý của đông đảo các nhà
khoa học thuộc lĩnh vực triết học, các nghành khoa học xã hội và tự nhiên.
Nhiều cuộc hội thảo khoa học được tổ chức, nhiều công trình nghiên cứu được
cơng bố. Trong phạm vi sử học nước ta, các vấn đề phương pháp luận cũng
1


được nghiên cứu sâu rộng và thảo luận sôi nổi, đặc biệt từ sau Hội thảo khoa
học đầu tiên về phương pháp luận sử học (1966)
3. Mục tiêu và nhiệm vụ.
3.1. Mục tiêu
Đề tài nghiên cứu một số vấn đề phương pháp nghiên cứu lịch sử, từ đó
làm rõ ý nghĩa của vấn đề đó với việc nghiên cứu lịch sử.
Nhiệm vụ

3.2.

­ Quá trình phát triển phương pháp luận sử học.
­ Đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của khoa
học lịch sử.
4. Phương pháp nghiên cứu.
­ Dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử.
­ Áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như tổng hợp hệ thống
hóa, phân tích từ đó rút ra kết luận về vấn đề nghiên cứu.

2


PHẦN NỘI DUNG

I.

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHƯƠNG PHÁP LUẬN SỬ HỌC
Cùng với sự phát triển của khoa học lịch sử, phương pháp luận sử học

cũng trải qua các giai đoạn phát triển và đạt tới đỉnh cao hiện nay của nó là
phương pháp luận mácxít.
1. Triết lý lịch sử trước Mác.
Khoa học lịch sử xuất hiện từ thời cổ đại, nhưng chỉ trở thành một khoa
học chân chính từ khi chủ nghĩa Mác ra đời, khi duy vật lịch sử là cơ sở lý luận
của phương pháp luận sử học.
Lịch sử là một bộ môn khoa học xã hội, tất nhiên nó có tính chất giai cấp
rõ rệt, phục vụ cho những mục đích chính trị nhất định. Mỗi thời đại mỗi giai
cấp có quan niệm, có cách nhìn khác nhau về nghiên cứu, sưu tầm và giải thích
sự kiện lịch sử. Từ trước đến nay các sử gia giải thích lịch sử lịa người đều dựa
trên những vấn đề cơ bản, chủ yếu là của triết học đang tranh cãi giữa hai
trường phái duy tâm và duy vật, đó là cơ sở phương pháp luận của họ.
a. Triết học cổ đại chưa hình thành phương pháp luận của các nghành
khoa học, nhưng đã có cơ sở triết học của phương pháp luận.
Quan niệm thần học về lịch sử được xác nhận xã hội phát triển theo
“mệnh trời”, theo “ý của Thượng đế”. Đó là cơ sở lý luận của sử học phong
kiến. Quan niệm này không những không phản ánh khoa học mà còn chứa đựng
nhiều mâu thuẫn. Nếu nói rằng Thượng đế điều khiển sự phát triển của xã hội,
bắt con người hoạt động theo ý muốn của mình thì quả con người chỉ là cái máy,
khơng có trách nhiệm gì với lịch sử. Như vậy thật vơ lý! Nếu thừa nhận con
người hoạt động theo ý mình, sáng tạo ra lịch sử thì cịn đâu là Thượng đế, là
định mệnh, cịn gì là Tơn giáo. Vì thế giới nghiên cứu sử học phong kiến để bảo
vệ quyền lợi của giai cấp thống trị vẫn bám vào quan niệm thần học về lịch sử.

3



b. Triết học thời cận đại với Bêcơn và Đềcactơ đã sử dụng toán học làm
mẫu mực để xây dựng một hệ thống phương pháp nguyên tắc lý luận chỉ đạo
việc nghiên cứu kho học, nhưng phương pháp luận này cũng như cơ sở triết học
của nó mang nặng tính chất máy móc.
c. Triết học lịch sử của phái duy tâm cổ điển Đức xem sự phát triển xã hội
như q trình bên trong, hợp quy luật của nó. Song sự tất yếu đó khơng phải ở
bản thân lịch sử, mà từ ngoài đưa vào, bắt nguồn từ triết học. Tính chất của quy
luật lịch sử theo quan niệm của Kant, Nisso.. như một cái gì tuyện đối khơng liên
quan đến hoạt động thực tế của con người, họ phủ nhận khả năng tác động con
người một cách có ý thức vào sự phát triển lịch sử. Điều đó làm cho q trình
lịch sử trở nên hồn tồn có tính chất “định mệnh”, thần bí.
Quan điểm của Hêghen là đỉnh cao nhất của triết lý sử học tư sản, Mác và
Ăngghen bài xích chủ nghĩa duy tâm Hêghen, song rất q trong triết lý lịch sử
của ơng. Ăngnghen nói rằng cách tư duy của Hêghen khác hẳn với các nhà triết
học khác ở chỗ quan điểm lịch sử. Mặc dù hình thức của nó rất trừu tượng và
duy tâm, xong nó vạch được sự phát triển hợp quy luật lịch sử thế giới. Hêghen
là người đầu tiên đã chỉ ra sự phát triển và mối liên hệ nội tại của lịch sử. Hiện
nay chúng ta có thể rút ra trong triết lý lịch sử của Hêghen những quan điểm cơ
bản đúng đắn.
2. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác và bước ngoặt cách mạng trong
phương pháp luận sử học .
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một bước ngoặt vĩ đại, cách mạng trong
sự phát triển của khoa học xã hội nói chung và sử học nói riêng.
Quan điểm duy vật của Mác được vận dụng vào việc nghiên cứu lịch sử
đã hồn tồn thốt khỏi tư tưởng thần học, duy tâm, siêu hình và dựa vào thực
tiễn lịch sử. Duy vật lịch sử không thừa nhận “một lực lượng siêu nhân” nào,
một Thượng đế hay ý chí một vĩ nhân nào sáng tạo ra lịch sử. Chính con người
4



tạo ra lịch sử. “lịch sử không làm nên cái gì cả, lịch sử khơng có cái gì phong phú
cả, lịch sử không chiến đấu trong một trận đánh nào cả, khơng phải lịch sử mà
chính bản thân con người, con người thực là những kẻ làm ra tất cả và chiến
đấu vì tất cả”. lịch sử “khơng phải là một cá nhân đặc biệt sử dụng con người
làm phương tiên để đạt mục đích riêng của mình. lịch sử khơng phải là cái gì
khác là những hoạt động con nguời theo đuổi mục đích của mình”.
Chủ nghĩa Mác đã soi sáng cho việc nghiên cứu lịch sử một cách thực sự
khoa học, mở một triển vọng to lớn cho sự phát triển của khoa học lịch sử,
phương pháp luận sử học mácxit, phân biệt về nguyên tắc với khoa học lịch sử
và triết lý lịch sử tư sản.
Phương pháp luận sử học mácxit – lêninnit là một trong những thành tựu
to lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin đã được kiểm tra trong thực tiễn nghiên cứu và
đã có khả năng giúp khoa học lịch sử trở thành một khoa học chân chính để giải
quyết những vấn đề quan trọng do thực tại lịch sử đặt ra.
II.

ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU CỦA KHOA HỌC LỊCH SỬ.
1. Đối tượng nghiên cứu của sử học.
Vấn đề đối tượng của khoa học lịch sử, tức là khoa học lịch sử nghiên

cứu cái gì tưởng như đơn giản; bởi vì ai cũng phải thừa nhận rằng khoa học lịch
sử phải nghiên cứu quá khứ của xã hội loài người. Nhưng thực ra vấn đề này
rất phức tạp và có những kiến giải, những quan niệm khác nhau, đối địch
nhau.Việc xác định đối tượng của khoa học lịch sử, gắn liền với sự phát triển
của sử học trên con đường trở thành khoa học thực sự, chân trính và trải qua
cuộc đấu tranh giữa các quan niệm khác nhau.
a. Quan niệm về đối tượng của sử học trong thời cổ đại, phong kiến và

tư bản chủ nghĩa.

5


Việc chuyển từ xã hội không giai cấp sang xã hội có giai cấp đã làm cho
quan niệm về lịch sử nói chung về đối tượng sử học nói riêng, mang tính chất
giai cấp. Tính giai cấp này cũng biến chuyển cùng với sự phát triển của các giai
cấp trên vũ đài lịch sử.
Thấm nhuần hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, sử học phong kiến xem
hiện tượng lịch sử là kết quả sự can thiệp của sức mạnh của Trời vào đời sống
con người, quá trình lịch sử do ý Trời định đoạt. Theo thuyết thiên mệnh này, đối
tượng của sử học là vua chúa. Nếu như trung tâm của sử học cổ đại là đời sống
chính trị của giai cấp chủ nơ thì việc ghi chép về đời sống của các vua chúa, các
tầng lớp trên của giai cấp phong kiến, cuộc tranh giành của phong kiến …lại là
nội dung chủ yếu trong các cuốn biên niên sử thời trung đại. Trong các tác phẩm
sử học thời cổ đại, trung đại khó mà tìm thấy được các tài liệu về tình hình đời
sống của nơ lệ, nơng nô, về các cuộc đấu tranh của họ.
b. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về đối tượng của sử học.
Mác và Ăngghen đã hoàn thành quan niệm duy vật về lịch sử và đã thực sụ
làm một cuộc cách mạng trong khoa học lịch sử. Bởi vì, “việc phát hiện ra quan
niệm duy vật về lịch sử, hay nói đúng hơn, sụ áp dụng và mở rộng chủ nghĩa
duy vật một cách triệt để vào lĩnh vực những hiện tượng xã hội đã loại bỏ được
hai khuyết điểm cơ bản của những lý luận lịch sử trước kia. Một là, những lý
luận lịch sử này giỏi lắm thì cũng chỉ nhìn đến những động cơ tư tưởng trong
hoạt động lịch sử của người ta, chứ khơng tìm xem cái gì phát sinh ra những
động cơ ấy, không nắm lấy những quy luật khách quan chi phối sự phát triển
của hệ thống quan hệ xã hội và khơng thấy rằng trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là nguồn gốc của những quan hệ ấy. Hai là những lý luận trước
kia đã bỏ quên chính ngay hành động của quần chúng nhân dân; cịn chủ nghĩa

duy vật lịch sử thì lần đầu tiên đã giúp chúng ta có thể nghiên cứu với sự chính

6


xác của khoa học tự nhiên những điều kiện xã hội của đời sống quần chúng và
những biến đổi của điều kiện ấy.
Quan niệm duy vật về lịch sử cho chúng ta thấy rằng, lịch sử xã hội bắt
đầu khi con người và tập đoàn người lần đầu tiên xuất hiện trên quả đất và
cũng từ đó lịch sử xã hội là lịch sử con người. Nội dung của lịch sử xã hội là
hoạt động của con người. Nội dung của lịch sử xã hội là hoạt động của con
người theo đuổi một mục đích nhất định.
Con người là chủ thể của lịch sử.Từ khi xã hội xuất hiện thì cũng bắt đầu
sự sáng tạo lịch sử của con người. Sự sáng tạo đó là nội dung của lịch sử. Con
người tạo ra mọi giá trị tinh thần và vật chất, đấu tranh, chinh phục và cải tạo
thiên nhiên, đấu tranh chống mọi áp bức bất công trong xã hội. Vì vậy các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin nhiều lần chỉ rõ, lịch sử xã hội loài người là
lịch sử của quần chúng nhân dân, lịch sử của những phương thức sản xuất kế
tiếp nhau và từ khi xã hội phân chia thành giai cấp thì lịch sử cịn là lịch sử đấu
tranh giai cấp.
Xã hội loài người tiến không ngừng theo con đường đi lên thể hiện ở trình
độ, tính chất của việc sản xuất, ở những thay đổi các chế độ xã hội, ở sự phát
triển khoa học, văn hóa…Con đường đi lên này khơng phải là con đường thẳng
mà là con đường khúc khuỷu, có lúc tạm thời thụt lùi, nhưng nói chung phát triển
đi lên không ngừng. Sự phát triển ấy phong phú, phức tạp, toàn diện và tuân theo
những quy luật khách quan.
Những quan điểm mácxit về lịch sử như vậy đã vạch ra con đường nghiên
cứu lịch sử một cách khoa học, đã khai sinh một nền sử học thật sự khoa học, và
đối tượng của nó là lịch sử xã hội lồi người được xem là một quá trình thống
nhất và bị những quy luật chi phối, mặc dầu q trình đó cực kỳ phức tạp và có

rất nhiều mâu thuẫn.

7


Vậy đối tượng của khoa học lịch sử, theo quan điểm mácxít khơng phải là
những hiện tượng riêng rẽ về một cá nhân nào, dù là lỗi lạc, không phải là
những sự kiện tách rời khỏi sự phát triển chung, hợp quy luật của xã hội loài
người. Đối tượng của khoa học lịch sử là quá trình phát triển thực tế của xã hội
loài người, cũng như từng nước, từng dân tộc trong tồn bộ tính thống nhất, tính
phức tạp, tính mn màu mn vẻ của nó, nói khác đi là sự chuyển biến cụ thể
của các phương thức sản xuất trong lịch sử thế giới, lịch sử từng dân tộc, là sự
biểu hiện cụ thể, phong phú cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử, là sự thể hiện
một cách sinh động vai trò sáng tạo, quyết định của quần chúng nhân dân lao
động đối với lịch sử.
Trên cơ sở quan niệm mácxít về đối tượng sử học như vậy, chúng ta phải
tìm hiểu sâu hơn, chi tiết hơn một số vấn đề thuộc về phạm vi đối tượng, mà
trong thực tế nhiều nhà nghiên cứu, lý luận lịch sử chưa hồn tồn nhất trí.
* Quy luật phát triển xã hội có phải là đối tượng của sử học không?Mối
quan hẹ giữa khoa học lịch sử với duy vật lịch sử và các bộ môn khoa học xã hội
khác.
Chung quanh vấn đề này trong giới sử học và xã hội mácxít có những cuộc
tranh luận về: quy luật lịch sử có phải là đối tượng của sử học hay không?. Một
số nhà sử học cho rằng việc nghiên cứu và phát hiện quy luật sử học cũng là
nhiệm vụ đối tượng sử học. Phản đối quan niệm này một số nhà sử học khác
cho rằng: toàn bộ lịch sử của khoa học lịch sử chứng tỏ rằng, những chuyên gia
về sử học không hề phát hiện các quy luật kinh tế, xã hội hoặc bất cứ quy luật
nào khác của sự phát triển và vận động của các hình thái khác nhau hoặc thuộc
phạm vi của đời sống xã hội. Nếu khoa học lịch sử đã đi theo con đường đó thì
nó đã lặp lại những điều mà tất cả các nhà khoa học khác đã làm, nghĩa là nó đã

khơng thực hiện chức năng riêng của mình. Cũng như các khoa học xã hội
khác,sử học nghiên cứu quá trình lịch sử phát triển theo quy luật, khi nêu những
8


biểu hiện và tác động của các quy luật xã hội trong quá trình này và nêu việc
thực hiện các quy luật.
Giải quyết vấn đề này, triết học mácxít đã khẳng định, khoa học lịch sử
cũng như các bộ môn khoa học xã hội khác đều nghiên cứu một khách thể là xã
hội loài người.Điều này làm cho các bộ môn khoa học xã hội gần gũi nhau. Song
mỗi bộ mơn khoa học xã hội phải có đối tượng riêng của mình. Nếu đối tượng
của mỗi bộ mơn khoa học xã hội là một mặt cụ thể, riêng lẻ nào đấy của đời
sống xã hội, thì đối tượng của khoa học lịch sử là quá trình phát triển xã hội nói
chung, là tồn bộ những hiện tượng của đời sống xã hội, là tất cả các mặt của
đời sống xã hội trong mối liên hệ và tác động lẫn nhau của chúng. Trong một ý
nghĩa nhất định, các bộ môn lịch sử kỹ thuật, lịch sử kinh tế, lịch sử văn học,
lịch sử chính trị, lịch sử ngơn ngữ …có thể xem là những bộ phận của khoa học
lịch sử.
Trong mối quan hệ giữa sử học và các bộ môn khoa học xã hội khác,
chúng ta càng đặc biệt lưu ý mối quan hệ giữa sử học và các nghành của khoa
học lịch sử. Trong định nghĩa thông thường, thuật ngữ khoa học lịch sử dùng để
chỉ khoa học nghiên cứu về quá khứ của xã hội loài người, ngoài lịch sử dân tộc
và thế giới cịn có lịch sử Đảng, dân tộc học, khảo cổ học…Các bộ môn này
giúp rất nhiều cho việc nghiên cứu sử học. Về mối quan hệ giữa lịch sử, dân tộc
học, khảo cổ học chúng ta dễ nhận thấy, song chúng ta lại thường nhẫm lẫn đối
tượng của lịch sử dân tộc từ ngày có Đảng với lịch sử Đảng. Vì vậy cần phân
biệt rõ mối quan hệ giữa hai ngành lịch sử này.
Lịch sử Đảng là một ngành khoa học lịch sử tổng kết đường lối, chính
sách, kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân, phát hiện quy
luật phát triển của cách mạng ở một nước. Đối tượng nghiên cứu chính của lịch

sử Đảng là q trình ra đời, hoạt động và phát triển của Đảng, đường lối và
chính sách của Đảng trong các giai đoạn cách mạng. Tất nhiên sự ra đời và phát
9


triển của Đảng diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước; đường lối
chính sách của Đảng là sự vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ấy, hoặc nói cách khác đó là sự thể
hiện chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin ở những hoàn cảnh lịch sử cụ
thể nhất định. Vì vậy, khi nghiên cứu lịch sử Đảng cần phải nghiên cứu lịch sử
dân tộc trong giai đoạn lịch sử nhất định ở các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa, tư tưởng ….Nhưng không nên đồng nhất lịch sử Đảng và lịch sử dân tộc.
lịch sử Đảng nghiên cứu các mặt của lịch sử xã hội là để tìm hiểu bối cảnh lịch
sử cụ thể về sự ra đời, hoạt động và phát triển của Đảng, đồng thời cũng xem
xét kết quả thực tiễn về mọi mặt của đường lối, chính sách của Đảng và trên cở
sở nghiên cứu đó đúc rút kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, phát hiện quy luật
phát triển của cách mạng. Vì vậy, những kết quả nghiên cứu về lịch sử dân tộc
trực tiếp giúp ích cho việc nghiên cứu lịch sử Đảng, và kết quả nghiên cứu về
lịch sử Đảng lại soi sáng cho việc nghiên cứu lịch sử dân tộc trong giai đoạn
Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng, trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Ở
đây, lịch sử duy tâm không đi sâu vào những vấn đề của lịch sử Đảng mà trình
bày một cách tồn diện lịch sử phát triển của xã hội từ ngày có Đảng lãnh đạo.
*. Mối quan hệ giữa quá khứ – hiện tại và tương lai trong nghiên cứu lịch
sử. Những vấn đề thời sự có phải là đối tượng của sử học khơng?
vấn đề mối quan hệ giữa lịch sử, hiện tại và tương lai là một trong những
vấn đề quan trọng nhất trong phương pháp luận của nhận thức xã hội. Cách giải
thích về vấn đề này tùy thuộc vào quan điểm của nhà sử học đối với quy luật
của quá trình lịch sử và về những vấn đề khác của phương pháp luận, như vấn
đề chức năng xã hội của sử học, tính khách quan, tính đảng của việc nhận thức
lịch sử – xã hội, tính chất thời sự của việc nghiên cứu lịch sử, việc tiên đoán một

cách khoa học sự phát triển của xã hội.

10


Theo lý luận mácxít về sự phản ánh – cơ sơ của phương pháp luận khoa
học – thì khi nói lịch sử là nói về lĩnh vực nhận thức, cần phải phân biệt với
hiện thực lịch sử khách quan.lịch sử trong ý nghĩa này làm nhiệm vụ phản ánh
hiện thực khách quan, phản ánh đời sống xã hội và đang tồn tại thực.
Cũng như vậy mà quá khứ được xem là quá trình xã hội đã xảy ra và là
khái niệm về q trình này, cịn hiện tại được xem là quá trình xã hội đang tồn
tại, đang tiếp diễn và là khái niệm khoa học về quá trình này.
Quá khứ và hiện tại ở đây là những phạm trù có quan hệ với nhau, phản
ánh khuynh hướng phát triển và trong một mức nào đó là nội dung của quá trình
xã hội. Lênin nhấn mạnh rằng:Hiện tại là một bộ phận cấu thành của lịch sử,
cái gì đang diễn ra trước mắt chúng ta với một tốc độ ngày càng to lớn cũng là
lịch sử mặt khác, chủ nghĩa Mác lại khẳng định rằng quá trình lịch sử phát triển
đi lên không ngừng cho nên cái tương lai nảy sinh từ hiện tại tất yếu sẽ xảy đến
và là khái niệm khoa học về quá trình xã hội sẽ xảy ra.
Quá khứ, hiện tại, tương lai là ba giai đoạn kế tiếp hợp quy luật của quá
trình phát triển của xã hội, nhưng cần phải khẳng định rằng 3 giai đoạn ấy
không đồng nhất với nhau. Trước hết, nội dung khách quan của các hiện tượng
xã hội ở mỗi thời đại lịch sử “ngay cả trong khuân khổ một thời kỳ của 1 thời
đại” rất khác nhau về số lượng và chất lượng.Về mặt nhận thức cần phải chú ý
rằng trong kiến thức lịch sử về quá khứ “và ngay trong bản thân quá khứ” cũng
có những nhân tố mà bây giờ khơng có ý nghĩa thực tiễn trực tiếp gì, song có thể
có ý nghĩa cấp thiết trong tương lai, trái lại, hiện tại cũng không phải lúc nào
cũng có thể thực hiện được những khả nằng mà lịch sử đề ra khi nhấn mạnh
nguyên lý về sự thống nhất biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai.Lênin đã nêu lên hai vấn đề: thứ nhất,hiện tại khơng phải là cái gì khác là

hiện thực lịch sử đang phát triển cho nên, việc nghiên cứu quá khứ lịch sử từ
đỉnh cao của hiện tại giúp cho việc hiểu quá khứ được tập trung hơn, đầy đủ
11


hơn. Thứ hai, tri thức lịch sử quá khứ giúp cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn khuynh
hướng phát triển của xã hội trong hiện tại và tương lai.
Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã vạch rõ
mối quan hệ của ba giai đoạn kế tiếp nhau, phù hợp với quy luật phát triển của
xã hội. Người viết: Giai đoạn này dính líu với giai đoạn trước và nó gây những
mầm mống cho giai đoạn sau.Đồng thời Người vạch rõ sự khác nhau về số
lượng và chất lượng của các giai đoạn. Có nhiều sự biến đổi mới sinh ra từ một
giai đoạn này đến một giai đoạn khác. Tuy mỗi giai đoạn cũng có những sự biến
đổi của nó.
Tóm lại, mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại, và tương lai giúp ta hiểu tính
chất biện chứng, mối quan hệ của giữa các hiện tượng xã hội của đời sống xã
hội trong những giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển chung. Sự vận động
từ quá khứ đến hiện tại và từ hiện tại đến tương lai trong hiện tại lịch sử luôn
luôn là một quá trình mâu thuẫn. Một mặt, hiện tại sinh ra từ quá khứ và hiện tại
lại tạo ra những tiền đề cho sự xuất hiện tương lai. Mặt khác, sự vận động này
là sự phủ định biện chứng lẫn nhau, giai đoạn sau vượt lên và sẽ thay thế cho
giai đoạn đang tồn tại trong hiện thực. Nói một cách khác, vấn đề tương quan
giữa quá khứ, hiện tại và tương lai trong một mức nào đồng nhất với vấn đề
tương quan giữa cũ và mới, cái lỗi thời và cái nảy sinh, cái đi qua và cái sắp tới
trong sự phát triển xã hội.Do đó, mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại, tương lai
không những là vấn đề phương pháp luận chung mà trong một ý nghĩa nhất định
còn là vấn đề thế giới quan nữa.
Từ quan niệm như trên chúng ta có thể khẳng định rằng khoa học lịch sử
không chỉ nghiên cứu quá khứ mà hiện tại, những sự kiện đang sảy ra, những
vấn đề thời sự cũng là đối tượng sử học.Vấn đề này đã được các nhà kinh điển

của chủ nghĩa Mác-Lênin chứng minh và thực tiễn xác nhất.

12


Ăngghen đã dùng các thuật ngữ lịch sử của những sự biến trước mắt, lịch
sử đang diễn ra trước mắt, lịch sử sinh động hàng ngày để chỉ những sự kiện
đang sảy ra, những vấn đề thời sự, trở thành đối tượng của sử học. Trong thực
tế Mác-Lênin không chỉ nghiên cứu những sự kiện của lịch sử mà nghiên cứu
ngay những sự kiện vừa xảy ra hay đang tiếp diễn lúc bấy giờ. Những năm 5060 của thế kỷ XIX, trong các bài báo của mình Mác và Ăngghen đã lấy các sự
kiện vừa xảy ra còn đang tiếp diễn để làm đề tài nghiên cứu. Những bài báo ấy
thực chất là những tài liệu lịch sử rất giá trị. Trong thế giới này, lần đầu tiên 2
ông xuất hiện như nhà sử học nghiên cứu về những vấn đề quan hệ quốc tế.
Di sản báo chí của các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, của chủ
tịch Hồ Chí Minh và nhiều vị lãnh tụ cách mạng khác ở nhiều nước hoàn toàn
xác nhận tư tưởng đúng đắn của Lênin về luận điểm “báo chí chính luận chinhs
là lịch sử hiện đại”. Mác, Ăngghen, Lênin và các vị lãnh đạo cách mạng các
nước đã chứng minh rằng khoa học lịch sử cần thiết và có thể làm được việc
lấy những sự kiện hiện đại, những vấn đề thời sự làm đối tượng nghiên cứu.
Điều này không những phục vụ có hiệu quả trực tiếp cho sự thắng lợi của cuộc
cách mạng trước mắt, cho sự tiến bộ xã hội, mà còn cho sự phát triển của bản
thân khoa học lịch sử. Chỉ có nghiên cứu lịch sử cho đến ngày nay, thời gian
chúng ta đang sống và hoạt động mới hiểu được hồn chỉnh q trình phát triển
lịch sử, mới nhận thức được tất cả những khuynh hướng và động lực của xã
hội, mới có khả năng theo dõi được tất cả những mối liên hệ và quan hệ của
mọi hiện tượng lịch sử. Đồng thời việc hiểu biết những quá trình lịch sử phức
tạp ngày nay giúp ta hiểu tốt hơn lịch sử quá khứ, kể cả thời đại xa xưa nhất; ý
nghĩa thực tế về nội dung khách quan của quá khứ chỉ được hiểu rõ khi ta hiểu
sâu sắc hiện tại.
Ngày nay, trong nghiên cứu lịch sử hiện đại, cuộc đấu tranh cho hòa bình

tiến bộ, văn minh của nhân loại, sự phát triển của khoa học công nghệ, văn học
13


nghệ thuật, sự vươn lên mạnh mẽ của các nước độc lập dân tộc, công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, những vấn đề về đổi mới, về giai cấp công
nhân… là những tài liệu quan trọng và cấp thiết của giới sử học Việt Nam.
Vấn đề đối tượng nghiên cứu là vấn đề quan trọng đầu tiên của phương
pháp luận sử học, nó là điều kiện không thể thiếu để khẳng định lịch sử là một
khoa học.
Nhận thức về đối tượng của sử học không chỉ dừng lại câu trả lời chung
về “nghiên cứu quá khứ, những gì đã xảy ra” mà cần đi sâu tìm hiểu các vấn đề
chủ yếu sau:
Thứ nhất, phân biệt khách thể và đối tượng nghiên cứu để thấy tính độc
lập và mối quan hệ giữa sử học với các khoa học khác.
Thứ hai, đối tượng nghiên cứu lịch sử không chỉ là sự kiện lịch sử cụ thể
mà còn là quy luật.
Thứ ba, đối tượng nghiên cứu lịch sử mang tính tồn diện, những sự kiện
xảy ra trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ tư, nhận thấy sự khác biệt và mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố
cấu thành lịch sử: quá khứ, hiện tại và tương lai.
2. Chức năng và nhiệm vụ của khoa học lịch sử
a. Chức năng của lịch sử.
- Chức năng của lịch sử là một khoa học, giống như các bộ mơn khác có
chức năng của mình, đó là những cơng việc phải làm xuất phát từ bản thân sự
tồn tại, đặc trưng của nó, mà khơng một khoa học nào có thể thay thế được.
Thủ tiêu chức năng của mình tức là thủ tiêu bản thân khoa học ấy.
Nghiên cứu quá khứ không phải và không bao giờ là mục đích cuối cùng
của khoa học lịch sử, bởi vì nếu chỉ ghi chép một cách đơn giản và máy móc
những gì đã xảy ra trong xã hội lồi người trước đây thì sẽ làm cho người ta mất

thú vị và chẳng có ích gì cả. Chính các sử gia tư sản dựa vào quan niệm “lịch sử
14


chỉ là những câu chuyện về quá khứ” để phủ nhận sự tồn tại của nó, vì theo họ
sử học khơng có ý nghĩa thực tiễn, khơng có ảnh hưởng gì đến đời sống. Luận
điểm này khơng có căn cứ, chỉ nhằm hạ thấp chức năng của khoa học lịch sử để
phủ nhận sự tồn tại của bản thân nó.
Khoa học lịch sử không trực tiếp liên quan đến quá trình sản xuất và phục
vụ sản xuất như khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, cũng không giống như
các chính trị kinh tế học, nhà nước và pháp quyền có ảnh hưởng trực tiếp đến
cơ sở và thượng tầng kiến trúc. Nhưng khoa học lịch sử có tác dụng quan trọng
đến sự phát triển xã hội, cho nên, nó là cơ sở duy nhất đáng tin cậy để phát hiện
những quy luật chung vận động trong xã hội và sự nhận thức những quy luật
này lại có ý nghĩa thiết thực đối với sự tiến bộ xã hội.
Vì vậy, chức năng của khoa học lịch sử là miêu tả một cách khoa học hiện
thực khách quan và trên cơ sở sự miêu tả này mà phân tích, giải thích tính phong
phú và đa dạng của hình thức cụ thể của các quá trình lịch sử đã phát hiện được
quy luật chung về sự phát triển xã hội loài người.
Trên cơ sở sự miêu tả và phân tích hiện thực khách quan, khoa học lịch sử
nêu ra những quy luật nào?trước hết khoa học lịch sử có thể phát hiện những
quy luật chung của sự phát triển của xã hội, những quy luật cá biệt và đặc thù
của một giai đoạn lịch sử, một hình thái kinh tế – xã hội. Nhận thức các quy luật
chung để hiểu sự phát triển của toàn bộ xã hội loài người. Nghiên cứu những
quy luật cá biệt và đặc thù sẽ giúp chúng ta nhận thức được sâu sắc hơn quy
luật phát triển chung nhất, nhận thức quy luật chung sẽ giúp chúng ta nghiên cứu
những quy luật đặc thù và cá biệt.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác đã dựa trên cơ sở của sự phát triển khoa học lịch
sử và các khoa học xã hội khác trong những thế kỷ trước đây đã xác định đúng
chức năng của khoa học lịch sử.

b. Nhiệm vụ của khoa học lịch sử.
15


Nhiệm vụ của khoa học lịch sử do chức năng của nó và tình hình nhiệm
vụ chính trị cụ thể ở mỗi giai đoạn lịch sử, của mỗi một nước quy định. Sử học
là một khoa học nên phải phục vụ lợi ích của con người. Bởi vì đặc điểm của
khoa học mácxít là khơng những giải thích thế giới mà còn còn chỉ ra con đường
để cải tạo thế giới nữa. Lênin đã nhấn mạnh ý nghĩa của chủ nghĩa Mác là ở
chỗ nó kết hợp chặt chẽ và cao độ giữa tính khoa học với tính cách mạng. Mục
đích của khoa học theo chủ nghĩa Mác là giúp cho cuộc đấu tranh của giai cấp bị
áp bức thắng lợi: “Mác cho rằng, nhiệm vụ trực tiếp của khoa học là nêu ra một
khẩu hiệu đấu tranh chân chính, nghĩa là phải biết trình bày, một cách khách
quan cuộc đấu tranh đó là sản phẩm của một hệ thống quan hệ sản xuất nhất
định, là phải biết, hiểu rõ tính tất yếu của cuộc đấu tranh đó, nội dung của nó,
tiến trình và các điều kiện phát triển của nó”.
Đối với chúng ta, nghiên cứu, học tập lịch sử không phải chỉ biết quá khứ,
mà trên cơ sở hiểu biết quá khứ, hiểu sâu sắc hiện tại, hành động tích cực trong
hiện tại, tiên đốn sự phát triển của tương lai và đấu tranh cho sự thắng lợi tất
yếu của tương lai. Ở đây có sự thống nhất giữa hành động cách mạng và nghiên
cứu học tập lịch sử. Người cách mạng phải hiểu biết quá khứ, phải sử dụng
những tri thức lịch sử làm vũ khí đấu tranh cách mạng. Người nghiên cứu lịch sử
phải tham gia hoạt động cách mạng mới hiểu sâu sắc quá khứ, và quá khứ thuộc
về những kẻ xây dựng tương lai.
Mác, Ăngghen, Lênin, các lãnh tụ của cách mạng như chủ tịch Hồ Chí
Minh trong q trình hoạt động cách mạng đều sử dụng tri thức lịch sử làm vũ
khí đấu tranh và Người am hiểu sâu sắc, đúng đắn lịch sử. Các vị ấy đã biết kết
hợp khéo léo cái quá khứ (truyền thống, kinh nghiệm lịch sử ) cái hiện tại (cuộc
đấu tranh cách mạng trước mắt) cái tương lai (sự thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội) là một khối:


16


Thứ nhất, khi nghiên cứu vạch ra chính sách và sách lược cách mạng,
Đảng của giai cấp cơng nhân tìm trong lịch sử những kinh nghiệm, những hiểu
biết cần thiết để lấy câu trả lời cho những vấn đề cấp bách của hiện tại. Trong
quyển “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh nêu rõ là phải “đem lịch sử cách mệnh
các nước làm gương cho chúng ta soi, đem phong trào cách mạng thế giới nói cho
đồng bào ta rõ”.
Thứ hai, sự hiểu biết lịch sử quá khứ một cách sâu sắc là một trong những
cơ sở để kiểm tra sự đúng đắn của chính sách, sách lược mà Đảng đã đề ra. Ví
như, nói về tính chất đúng đắn của nhà nước xô viết, Lênin đã lấy những kinh
nghiệm lịch sử để kiểm chứng: “Những thời đại cách mạng mở đầu từ thế kỷ
XIX đã làm nảy sinh một kiểu cao nhất của nhà nước dân chủ, của nhà nước mà
trong một số mặt, theo sự miêu tả của Ăngghen, khơng cịn là nhà nước nữa,
khơng phải là nhà nước theo đúng nghĩa của danh từ. Đó là nhà nước kiểu Cơng
xã Pari. Chính cách mạng Nga năm 1905 và năm 1917 đã bắt đầu xây dựng nên
một nhà nước kiểu như vậy.
Thứ ba, nếu xem xét quá trình lịch sử theo sơ đồ: quá khứ – hiện tại –
tương lai thì sử học bao giờ cũng đứng ở khâu giữa. Nhà sử học thuộc về hiện
tại, là con đẻ của thời đại mình, của giai cấp, nên phải phục vụ cho giai cấp
mình, cho nên khi sử dụng tri thức lịch sử quá khứ để biểu hiện hiện tại, là phải
rèn luyện khả năng tiên đoán một cách khoa học bước phát triển của sự kiện,
của quá trình lịch sử.
Thứ tư, chứng minh tính chất đúng đắn, tính thực tiễn khách quan của
đường lối, chính sách của Đảng là một nhiệm vụ quan trọng của khoa học lịch
sử. Như chúng ta đã biết, đường lối chính sách của Đảng là thực tiễn cách mạng
ở một nước, ở một giai đoạn nhất định và là sự tổng kết lịch sử quá khứ, cho
nên cơ sở thực tiễn của nó và nhà sử học khi dùng sự kiện lịch sử chứng minh

đường lối chính sách của Đảng khơng phải việc làm miễn cưỡng mà là công tác
17


khoa học, có ý nghĩa thiết thực nâng cao hiệu lực thực tiễn đường lối, chính
sách.
Thứ năm, Tri thức lịch sử là một phương tiện giáo dục tư tưởng Cộng sản
chủ nghĩa cho quần chúng rất tốt. Nó giáo dục cho nhân dân lịng tin vào chính
nghĩa, vào chân lý, tin vào thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa Cộng sản, tin vào khả
năng sáng tạo vô tận của quần chúng nhân dân, nó tác dụng rất tốt trong việc
giáo dục lịng u nước, tinh thần quốc tế vơ sản, lòng yêu quý lao động rèn
luyện ý thức và năng khiếu thẩm mỹ biết thưởng thức cái đẹp chân chính…
Thứ sáu, trong khi góp phần thực hiện nhiệm vụ cách mạng cơ bản trên
,những người làm công tác sử học cũng làm cho cho khoa học sử học phát triển.
Khoa học lịch sử cũng như các khoa học xã hội khác có liên quan mật thiết với
cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng ngày càng diễn
ra vô cùng gay go, phức tạp và trên trận địa này, tư tưởng xã hội chủ nghĩa chỉ
được phép thắng lợi chứ khơng thể “chung sống hịa bình” với tư tưởng tư sản
đế quốc.
Tóm lại, cũng như vấn đề đối tượng, các vấn đề chức năng, nhiệm vụ
của khoa học lịch sử là những vấn đề phương pháp luận mà người làm công tác
sử học phải nắm vững vì nó xác định những vấn đề cơ bản, chi phối mọi hoạt
động nghiên cứu khoa học lịch sử. Nó làm sáng tỏ các vấn đề “Nghiên cứu cái
gì?”, “Nghiên cứu để làm gì?”. Thực chất của vấn đề đối tượng, chức năng,
nhiệm vụ của sử học xét cho đến cùng là nhằm vào mục tiêu của cuộc đấu tranh
giai cấp, đấu tranh cách mạng, xây dựng Tổ quốc giàu mạnh, văn minh, tiến bộ.
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ, nhiệm vụ trong thời kỳ công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước: “Khoa học xã hội và nhân văn hướng vào
việc giải đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung
cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách

phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng con người, phát huy những di sản văn hóa
18


dân tộc, sáng tạo những giá trị văn hóa mới của Việt Nam”. Sử học Việt Nam
phải thực hiện các nhiệm vụ này theo chức năng của mình.
3. Một số quan điểm phương pháp luận mácxít – lêninít về nhận
thức lịch sử.
Từ một sự kiện xảy ra trong lịch sử, nhưng trong vấn đề nhận thức lại
xuất hiện nhiều vấn đề khác nhau, nhận thức khác nhau. Làm thế nào để nhận
thức được. Vì sao có hiện tượng như vậy? Làm thế nào để nhận thức được
đúng hiện thực lịch sử? Câu trả lời cho những vấn đề trên phụ thuộc nhiều vào
ý thức, quan điểm tư tưởng, động cơ hành vi, suy nghĩ của người nghiên cứu,
học tập ở những thời đại và giai cấp khác nhau.
Vởy trong nhận thức lịch sử có thể đạt được chân lý khách quan của hiện
thực quá khứ hay không? Tiêu chuẩn nào để kiểm nghiệm, đánh giá sự nhận
thức lịch sử? Câu trả lời những vấn đề như vậy cũng rất khác nhau, trái ngược
nhau.
Có thể nói rằng những vấn đề về nhận thức lịch sử đòi hỏi nhà sử học
phải đứng trên những quan điểm chủ yếu và vận dụng, quán triệt trong nghiên
cứu. Trên lĩnh vực này đã và đang diễn ra cuộc đấu tranh gay go, phức tạp. Vì
vậy, chúng ta cần nắm vững quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để củng cố quan điểm nhận thức mácxít trong nghiên cứu lịch sử. Tập
trung vào những vấn đề sau:
Thứ nhất, Tính khoa học và tính đảng trong nghiên cứu.
Thứ hai, Tính hiện thức khách quan của lịch sử, sự kiện và quy luật lịch
sử.
Thứ ba, Phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Thứ tư, Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội và sự phân kỳ lịch sử.
a. Tính khoa học và tính đảng trong nghiên cứu lịch sử.


19


Tính khoa học là gì? Tính đảng là gì? Mối quan hệ giữa chúng trong sử
học mácxít như thế nào? Nội dung cơ bản của bài xoay quanh các vấn đề chủ
yếu trên.
Khoa học phải đạt tới chân lý, phản ánh sựu tồn tại khách quan của sự
vật, hiện tượng và rút ra những khái quát, lý luận. Không đạt được khái qt lý
luận chưa thể hồn thành cơng việc nghiên cứu khoa học. Bởi vì, lý luận là sự
“tổng hợp các tri thức về tự nhiên và xã hội tích lũy được trong q trình lịch
sử”, là hệ thống tư tưởng chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức”.
Đạt tới trình độ khái qt lý luận mới có thể nắm vững mối liên hệ quy
định bản chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên và xã hội một
cách chính xác, có hệ thống. Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp, việc nghiên cứu
khoa học, nhất là khoa học xã hội và nhân văn bao giờ cũng gắn với những vấn
đề lợi ích của giai cấp, quan hệ giữa các giai cấp. Các giai cấp ấy, với chính
đảng là lực lượng tiêu biểu nhất của mình, bao giờ cũng thể hiện lợi ích giai cấp
trong việc nghiên cứu, nêu các luận điểm khoa học. Cuộc đấu tranh giai cấp
cũng diễn ra gay gắt trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận khoa
học. Trong cuộc đấu tranh này, những nhà khoa học của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động bao giờ cũng đứng vững trên lập trường quan điểm cuả chủ
nghĩa Mác-Lênin.
Nắm vững nguyên tắc tính khoa học và tính đảng trong nghiên cứu sử học
sẽ tranh các sai lầm trong nghiên cứu lịch sử, tựu trung là phủ nhận tính đảng,
hoặc thể hiện tính đảng một cách cơng thức, giáo điều mà đạt kỳ được tính khoa
học.
Tóm lại, tuy khoa học là một hình thái của ý thức xã hội, nhưng nó khơng
phải là bộ phận của một thượng tầng kiến trúc thuộc một cơ sở kinh tế, phạm
vi hoạt động của nó rộng hơn bất cứ phạm vi hoạt động của một thượng tầng

kiến trúc nào khác. Tuy nhiên nó lại mang những yếu tố thượng tầng kiến trúc,
20


những yếu tố này càng nhiều bao nhiêu thì việc nghiên cứu khoa học càng gắn
với lợi ích của giai cấp, càng phục vụ cho lợi ích trực tiếp của giai cấp ấy bấy
nhiêu.
Nội dung của tính khoa học và tính đảng Cộng sản chủ nghĩa trong sử
học mácxít. Nội dung của tính khoa học là đạt được chân lý khi nhận thức hiện
thực khách quan; nó tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của mỗi khoa học. Chúng ta
đã đề cập đến vấn đề này khi xác định đối tượng sử học, ở đây sẽ tập trung vào
nhân dân tính Đảng Cộng sản.Nội dung này rất phong phú, nó thể hiện ở các
mệnh đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, đứng trên lập trường giai cấp vơ sản. Do vị trí, sứ mệnh lịch sử
và bản chất của mình, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, đại biểu cho
quyền lợi của nhân dân lao động, chiến sĩ tiên phong và lãnh đạo cuộc đấu tranh
chống mọi hình thức áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội ấm no, hạnh phúc, tự do
bình đẳng cho mọi người. Với tinh thần, mục đích, quan điểm và trình độ của
mình, giai cấp cơng nhân có thể và cần thiết nhìn thấy sự thực lịch sử, khơng
xun tạc, bóp méo chân lý khách quan. Đó là điều kiện quan trọng giúp cho nhà
sử học có khả năng nghiên cứu đúng đắn các sự kiện lịch sử để phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động có hiệu quả.
Thứ hai, nhận thức, vận dụng đúng, linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào nghiên cứu lịch sử. Đây là cơ sở tư tưởng,
kim chỉ nam hành động của các nhà sử học. Việc nhận thức và vận dụng chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh địi hỏi chúng ta phải nắm vững những
vấn đề cơ bản, có tính chất nguyên lý, học thuyết khoa học để soi sáng những
hiện tượng, sự kiện đa dạng, phức tạp của các lĩnh vực lịch sử cần nghiên cứu.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình thành và phát
triển trong những điều kiện, bối cảnh lịch sử nhất định, nhưng lại thể hiện một
cách tổng hợp những nhận thức lịch sử, từ lúc con người xuất hiện cho đến

21


đương thời. Chủ nghĩa duy vật lịch sử được hình thành và phát triển trong quá
trình các tác giả kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin nghiên cứu nhiều vấn đề lịch sử
từ cổ đại đến hiện đại để tìm ra một đáp số cho tình hình và nhiệm vụ đấu tranh
trước mắt và lâu dài.
Tính khoa học và tính đảng là hai phạm trù quan trọng trong nghiên cứu
lịch sử, song trong nhận thức cũng như trong thể hiện cụ thể, chúng ta sẽ gặp
khơng ít khó khăn, phức tạp, nhất là thực hiện việc thống nhất của hai phạm trù
này. Điều này đòi hỏi ý thức, tinh thần trách nhiệm của nhà khoa học, như đồng
chí Trường Chinh đã căn dặn: “Người viết sử phải phụ trách cả quá khứ, hiện
tại và tương lai, phụ trách trước Đảng và nhân dân. Nếu chúng ta viết sai, con
cháu chúng ta sẽ phê bình ta, cũng có thể truyền cái sai cho nhân dân ta và cả thế
giới… Công tác sử học là công tác tư tưởng. Viết sử tức là tổng kết những kinh
nghiệm đúng sai, phổ biến kinh nghiệm đúng, khắc phục cái sai, ôn lại cái cũ để
chỉ đạo cái mới. Viết sử không phải để ngắm lịch sử. lịch sử cũng khơng phải là
vật để trang trí. Viết là để giáo dục đảng viên và quần chúng, làm cho họ tự hào
và tin tưởng, có thêm năng lực và kinh nghiệm để làm nên những sự nghiệp vĩ
đại hơn nữa. Qua việc nghiên cứu sử học mà giáo dục tinh thần yêu nước, tinh
thần quốc tế vô sản, tinh thần kiên cường chiến đấu, khắc phục khó khắn. Đọc
lịch sử, người ta sẽ thấm một cách tự nhiên, không cần lên lớp”.
Đây là nội dung quan trọng của tính đảng, sự kết hợp giữa tính khoa học
và tính đảng trong nghiên cứu lịch sử.
b. phương pháp lịch sử và phương pháp logic trong công tác sử học.
Việc nhận thức và vận dụng tốt phương pháp lịch sử và phương pháp
logic là một vấn đề phương pháp luận quan trọng, có tác dụng nâng cao chất
lượng cơng tác sử học của chúng ta.

22



Phương pháp lịch sử và phương pháp logic có liên quan mật thiết đến các
phạm trù logic và lịch sử mà chúng ta cần làm sáng tỏ, trước khi đi sâu tìm hiểu
nội dung và mối quan hệ giữa hai phương pháp này.
Logic và lịch sử:
Lịch sử là phạm trù dùng để chỉ quá trình phát triển của sự vật trong thế
giới khách quan, diễn ra theo trình tự thời gian và không gian nhất định, với
những biểu hiện muôn màu muôn vẻ, với những bước quanh co phức tạp bao
gồm cả những tất yếu và ngẫu nhiên, hiện tượng và bản chất, chung và riêng…
Logic là phạm trù dùng để nêu lên cái chung, cái tất yếu, cái bản chất của
quá trình phát triển lịch sử của sự vật khách quan. Logic không chỉ phản ánh cái
lịch sử của q khứ, hiện tại mà cịn nói lên khuynh hướng đi lên, vươn tới của
lịch sử.
Giữa lịch sử và logic có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Về mặt nhận
thức luận, lịch sử là bản thân hiện thực khách quan phát triển với những hiện
tượng muôn màu muôn vẻ, và logic là bản chất của hiện thực do sự nghiên cứu
lý luận vạch ra. Trong mối quan hệ giữa lịch sử và logic thì lịch sử quyết định
logic, cịn logic là phản ánh của lịch sử. Và như vậy là trong nhận thức, lịch sử
và logic là thống nhất. Khơng nắm vững được tính thống nhất này chúng ta sẽ
không nhận thức được thế giới khách quan một cách đúng đắn, không phát hiện
được bản chất, quy luật của thế giới, do đó cũng khơng có hành động đúng để
cải tạo thế giới.
Trong khi nhấn mạnh tính thống nhất giữa lịch sử và logic, triết học
mácxít khơng đồng nhất chúng mà xem đó là hai phạm trù riêng, khác nhau, có
liên quan với nhau. Sự khác nhau đó biểu hiện ở chỗ lịch sử là bản thân hiện
thực phát triển mn màu, mn vẻ, cịn logic là sự phản ánh, mà là sự phản ánh
khơng tồn bộ, khơng thụ động, đã được uốn nắn lại, những uốn nắn theo
những quy luật mà bản thân của quá trình lịch sử thực tế đem lại. Sự liên hệ đó
23



là sự liên hệ giữa hiện thực và nhận thức, giữa tồn tại và tư duy, giữa khách
quan và chủ quan.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là những biểu hiện khác nhau
của phương pháp biện chứng mácxít.
Phương pháp lịch sử là phương pháp xem xét các hiện tượng, sự vật qua
các giai đoạn cụ thể của nó với mọi tính chất cụ thể của nó.
Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng trong hình
thức tổng quát, nhằm vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung trong sự
vận động của cái khách quan được nhận thức này.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Cả hai phương pháp đó đều có ý nghĩa và vai trị quan trọng của nó, chúng
đều là phương pháp khoa học mà mọi khoa học phải sử dụng. Tùy theo nội
dung, nhiệm vụ, yêu cầu cụ thể mỗi khoa học, hoặc sự nghiên cứu, trình bày về
một vấn đề nào đó mà sử dụng phương pháp này hoặc phương pháp kia.
Tóm lại, việc vận dụng đúng đắn phương pháp lịch sử và phương pháp
logic trong cơng tác nghiên cứu lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận
và thực tiễn. Nó thể hiện sự thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về phương pháp biện chứng mà phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai
biểu hiện khác của nó. Việc vận dụng đúng hai phương pháp lịch sử và logic
bảo đảm chất lượng tồn diện của cơng tác sử học. Song việc vận dụng này đòi
hỏi chúng ta phải nỗ lực, cố gắng trau dồi tư tưởng và phương pháp học thuật,
nắm vững lý luận kết hợp với việc nâng cao nghiệp vụ công tác.

24


×