Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Những thành tựu và hạn chế về lý luận giá trị của các nhà kinh tế tư bản cổ điển, ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.23 KB, 20 trang )

Tiểu luận: Lịch sử các học thuyết kinh tế thế kỷ XVI - XIX
LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN vấn
đề phát triển cơ cấu kinh tế được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với nền kinh tế
Việt Nam. Các lý luận giá trị kinh tế của các nhà kinh tế tư bản cổ điển là một bộ
phận trong cơ cấu ấy, đã có những lý luận bị coi là đối lập với kinh tế XHCN, vì
vậy phải nằm trong diện cải tạo xoá bỏ. Song thực tiễn đã cho thấy quan niệm như
vậy là cực đoan vì các lý luận giá trị của các nhà kinh tế cổ điển tư bản đã góp một
phần không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực. Cùng
với chủ trương chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường, Đảng và
nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều Chủ trương, Chính sách để khuyến khích sự
phát triển của các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, các lý luận giá trị đó, còn nhiều
những hạn chế trong thực tế và nhiều vấn đề bất cập trong xã hội.
Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Cơ
hội phát triển rút ngắn, thực hiện thành công CNH-HĐH phấn đấu đưa Việt Nam
về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Tuy nhiên, để thực hiện
được mục tiêu này đòi hỏi phải có sự am hiểu về lý luận kinh tế, với sự giải phóng
tối đa lực lượng sản xuất xã hội. Trong bối cảnh các nguồn lực kinh tế của Việt
Nam còn đang hạn chế. Vì vậy bài viết này sẽ tập trung làm sáng tỏ những vấn đề
cơ bản sau đây:
Những thành tựu và hạn chế về lý luận giá trị của các nhà kinh tế tư bản cổ
điển, ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
Tuy nhiên, do thời gian và không gian có hạn cho nên việc thu thập số liệu
và tài liệu vẫn chưa đựơc cập nhật vì thế không tránh khỏi những thiếu sót, mong
có những ý kiến đóng góp cho tiểu luận được hoàn chỉnh hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn cùng các bạn
đã giúp đỡ tôi trong quá trình làm tiểu luận.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tiểu luận: Lịch sử các học thuyết kinh tế thế kỷ XVI - XIX
PHẦN II
HỌC THUYẾT KINH TẾ TƯ SẢN CỔ ĐIỂN


I. SỰ XUẤT HIỆN CỦA TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ CỔ ĐIỂN VÀ ĐẶC
ĐIỂM CỦA NÓ
1. Hoàn cảnh lịch sử
Kinh tế chính trị học cổ điển là một trường phái đặc biệt có vai trò và ảnh
hưởng to lớn đối với sự phát triển tư tưởng kinh tế chung của nhân loại. Nó xuất
hiện từ thế kỷ XVII, trong thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình
thành và phát triển mạnh mẽ ở phương Tây, đặc biệt là nước Anh và nước Pháp.
Trường phái này phát triển trong thời kỳ dài, trải qua nhiều dai đoạn, đạt tới đỉnh
cao rực rỡ vào thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX và sau đó dần dần xã rời những
nguyên tắc truyền thống trước khi chấm dứt thực sự thống trị tuyệt đối của mình
vào thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Đặc biệt nổi bật trong hoàn cảnh lịch sử cho sự ra đời của kinh tế học cổ điển
là sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản trong lĩnh vực sản xuất, tỏ rõ ưu thế
tất yếu của nó so với lĩnh vực lưu thông vốn là lĩnh vực chiếm ưu thế trong thời kỳ
phát triển của tư tưởng trọng thương trước đó. Phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đang trên đà phát triển, chưa bộc lộ rõ những mâu thuẫn của bản thân nó là
một cơ sở thực tiễn để các đại biểu của trường phái cổ điển tập trung nguyên cứu
các quy lụât phát triển của chủ nghĩa tư bản, cổ vũ và đề cao ưu thế của phương
thức này.
2. Những đặc điểm chung
Đặc điểm nổi bật về phương pháp luận của kinh tế cổ điển là việc chuyển đối
tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Bứơc ngoặt này đạt
được chủ yếu là nhờ vào kết quả phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tiểu luận: Lịch sử các học thuyết kinh tế thế kỷ XVI - XIX
bản chủ nghĩa đưa tới nhận thức có tính chất cách mạng rằng, toàn thể giá trị của cả
xã hội được sáng lập ra những lĩnh vực lưu thông như những người trọng thương
trước đó quan niệm.
Về phương pháp nghiên cứu kinh tế học, có thể xem những người cổ điển là
những người lần đầu tiên vận dụng phương pháp trừu tượng hoá để phân tích các

mối quan hệ nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, do đó có thể vạch
rõ được nhiều quy luật vận động và phát triển của phương thức này. lần đầu tiên
phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên được vận dụng đầy đủ vào việc
nghiên cứu các mối quan hệ sản xuất – xã hội vốn là đối tượng của môn kinh tế
học. Phương pháp này của những nhà cổ điển được C.Mác đánh giá rất cao và được
nhiều nhà kinh tế sau này trong đó cóa cả nhà kinh tế mácxít sử dụng như một công
cụ đặc biệt hữu hiệu để phân tích lý luận kinh tế.
Là sản phẩm của sự phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, kinh
học cổ điển cổ vũ nhiệt thành cho chủ nghĩa tụ do trong kinh tế, phản đối mọi sự
tác động từ bên ngoài vào thị trường tự do. Tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh là lý
tưởng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mà những người cổ điển ca ngợi và ủng hộ.
Đặc điểm này, hay đúng hơn – sự cổ vũ cho tự do kinh tế - đã từng là cơ sở lý luận
cho một thời kỳ dài của chính sách đứng ngoài, không can thiệp vào kinh tế của các
nước tư sản. Thái độ của các nhà kinh tế học cổ điển phủ nhận mọi sự can thiệp của
nhà nước vào đời sống kinh tế là kết quả đương nhiên của phương pháp luận
nghiên cứu xem xét sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất chỉ đơn
thuần do các quy luật tự nhiên điều tiết, tuyệt đối hoá quy luật ấy mà không tính tới
đặc điểm lịch sử, cụ thể trong sự phát triển và tác động của chúng.
Đặc điểm bao trùm của kinh tế học cổ điển là tính chất hai mặt trong phương
pháp nghiên cứu cúng như mọi quan điểm lý luận của nó. Là người chứng minh
một các khoa học cho sự phát triển khách quan không thể phủ nhận được của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đồng thời là người bảo vệ cho trường phái
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tiểu luận: Lịch sử các học thuyết kinh tế thế kỷ XVI - XIX
này, với tư cách là phương thức sản xuất vĩnh viễn, cuối cùng của xã hội loài
người.
Kinh tế học cổ điển ra đời và phát triển mạnh mẽ nhất ở nước Anh và nước
Pháp với nhiều tên tuổi nổi tiếng. ở Anh phải kể trước hết tới W.Petty, ông vẫn
được coi là người sáng lập trường phái kinh tế học cổ điển nói chung, sau đó là
A.Smith, linh hồn thực sự của kinh tế học cổ điển, người thực hiện đầu tiên trong

bước ngoặt đầu tiên trong lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại và đặc biệt là
D.Ricácdo, người phát triển các tư tưởng kinh tế học cổ điển tới đỉnh cao rược rõ
nhất trước khi trường phái này bước vào thời kỳ khủng hoảng. Với nước pháp, kinh
tế học cổ điển xuất hiện và gắn liền với tên tuổi của các nhà trọng nông nổi tiếng
như P.Boisguilebert, A.Turgot và nhất là F.Quesney. Đại biểu cuối cùng của kinh
tế học cổ điển ở Pháp là Sismondi, người được C.Mác đánh giá là “kết thúc trường
phái cổ điển ở Pháp” và là đại biểu nổi tiếng của trường phái kinh tế học tiểu tư sản
sau này.
II. MỘT SỐ LÝ THUYẾT CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ TƯ BẢN CỔ ĐIỂN
1. Lý luận giá trị của WILLIAM PETTY
* Lý luận giá trị lao động:
- W.Petty phân biệt giá trị lao động dưới ba hình thức. Giá trị của tự nhiên
hay tỷ lệ trao đổi của một hàng hoá với khối lượng bạc nhất định, khối lượng này
thay đổi tuỳ theo điều kiện khai thác bạc trong tự nhiên và quyết định sự thay đổi
giá trị tự nhiên của các hàng hoá khác. Theo quan niện này, giá cả tự nhiên chính là
giá trị của hàng hoá do lao động sản xuất tạo ra và được đo đường qua lao động của
lĩnh vực khai thác bạc. giá cả nhân tạo hay giá cả thị trường của hàng hoá phụ
thuộc và giá cả tự nhiên và quan hệ cung - cầu của hàng hoá. Giá cả chính trị thể
hiện tác động của các nhân tố chính trị đối với lượng chi phí lao động để sản xuất
ra hàng hoá, thường làm các chi phí này vượt lên cao hơn số lao động tự nhiên.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tiểu luận: Lịch sử các học thuyết kinh tế thế kỷ XVI - XIX
Việc phân biệt ba loại giá cả nói trên thể hiện cố gắng của W.Petty tìm hiểu
bản chất và nguồn gốc thật sự của giá trị hàng hoá ở lao động sản xuất ra nó mà các
hình thức thể hiện bên ngoài thường che lấp đi. Ông cũng đưa ra luận điểm nổi
tiếng “Lao động là cha, còn đất là mẹ của mọi của cải” – một quan niệm thường
được coi là chỉ đúng một nửa song lại rất có nghĩa khi khẳng định lao động là
nguồn gốc tạo ra mọi giá trị.
Ngoài ra, W.Petty còn đặt vấn đề nghiên cứu lao động phức tạp, so sánh cách
lao động với nhau nhờ vào phương pháp đánh giá năng xuất lao động trung bình

trong nhiều năm.
Những hạn chế của W.Petty trong vấn đề lý luận giá trị là kết quả của
phương pháp luận mang tính chất hai mặt của ông. Ông chưa phân biệt được lao
động trừu tượng và lao động cụ thể, bởi vậy chưa thể chỉ rõ được nguồn gốc của
giá trị. Ông vẫn lẫn lộn giữa giá trị và giá trị trao đổi, giá trị và giá trị sử dụng, do
đó không nhất quán trong việc định nghĩa giá trị của hàng hoá.
Giá cả tự nhiên do hao phí lao động quy định và năng suất lao động có ảnh
hưởng đến mức hao phí đó. Giá cả tự nhiên là giá trị của hàng hoá. Như vậy ông là
người đầu tiên tìm thấy cơ sở của giá cả tự nhiên là lao động , thấy được quan hệ
giữa lượng giá trị và năng suất lao động .
* Kết luận: Số lượng lao động = nhau bỏ vào sản xuất là cơ sở để so sánh
giá trị hàng hóa, giá cả tự nhiên (giá trị), tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai
thác vàng và bạc
Giá cả chính trị chính là giá cả thị trường của hàng hoá phụ thuộc vào nhiều
yếu tố ngẫu nhiên và khó xác định. Chi phí lao động trong giá cả chính trị thường
cao hơn chi phí lao động trong giá cả tự nhiên .
Tuy nhiên lí thuyết gt lao động của ông chịu ảnh hưởng của CNTT. Ông chỉ
tập chung nghiên cứu mặt lượng , nghĩa là nghiên cứu về giá cả một bên là hàng
hóa, một bên là tiền tệ. Ông giới hạn giả thiết đào tạo giá trị trọng lao động khai
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tiểu luận: Lịch sử các học thuyết kinh tế thế kỷ XVI - XIX
thác vàng và bạc. Các loại lao động khác chỉ so sánh với lao động tạo ra tiền tệ.
Giá trị hàng hoá là sự phản ánh giá trị tiền tệ .
Mặc dù bị ảnh hưởng của phái TT nhưng trong trường phái thị trường chỉ
thoả mãn với việc đơn thuần đưa ra những biện pháp kinh tế hay chỉ mưu tả lại
những hiện tượng kinh tế theo kinh nghiệm như W.Petty đã tiếp cận với các quy
luật khách quan  nghiên cứu lĩnh vực sản xuất .
Trong những t/y đầu tiên W.Petty còn mang nặng tư tưởng TT nhưng trong
t/y cuối cùng của ông thì không còn dấu vết của CNTT. Ông là người đầu tiên nhấn
mạnh tính chất khách quan của những quy luật tác động trong XHTB.

2. Lý luận thuần tuý của F.QUESNEY
* Lý luận sản phẩm thuần tuý.
F.Quesney quan niệm sản phẩm thuần tuý là sự chênh lệch giữa tổng sản
phẩm xã hội và các chi phí sản xuất, tức là sản phẩm dư thừa sau khi đã bù đắp các
chi phí sản xuất. Nết độc đáo, điển hình cho quan điểm trọng nông của F.Quesney
là:
Sản phẩm thuần tuý chỉ được tạo ra trong lĩnh vực nông nghiệp mà không có
trong công nghiệp (lĩnh vực này chỉ làm biến đổi hình thức giá trị sản phẩm mà
không làm tăng thêm khối lượng của chúng).
Sản phẩm thuần tuý được quy chỉ về lao động thặng dư trong nông nghiệp.
Sản phẩm thuần tuý vẫn chỉ là tăng vật của tư nhân và tồn tại vĩnh viễn.
Hình thái duy nhất của sản phẩm thuần tuý chỉ có thể là đia tô, còn lợi nhuận
được coi là một bộ phận của chi phí sản xuất - đó là tiền công - thu nhập của các
nhà tư bản.
Từ quan niệm về sản phẩm thuần tuý, F.Quesney đề ra một căn cứ để phân
chia các loại lao động sản xuất và lao động không sản xuất. Theo ông, chỉ có lao
động nào tạo ra sản phẩm thuần tuý mới là lao động sản xuất và rõ ràng với con
mắt của người trọng nông, ông chỉ thừa nhận lao động trong lĩnh vực nông nghiệp
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tiểu luận: Lịch sử các học thuyết kinh tế thế kỷ XVI - XIX
mới là lao động sản xuất, còn tất cả các loại lao động khác, kể cả lao động trong
công nghiệp, đều là lao động không sản xuất.
3. Lý luận giá trị của A.SMIITH
* Lí luận giá trị của Adam. Smith.
AdamSmith (1723- 1790) đã mở ra giai đoạn phát triển mới của sự phát
triển các học thuyết kinh tế. Ông đi sâu phân tích bản chất để tìm ra các quy luật sự
vận động của các hiện tượng và các quá trình kinh tế .
So với W.Petty và trường phái trọng nông, lý thuyết giả thiết lao động của
A.Smith có bước tiến đáng kể .
Cũng chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, lao động

là thước đo cuối cùng của giá trị.
- Phân biệt rõ ràng giá trị sử dụng và giá trị trao đổi và khẳng định. Giá trị sử
dụng không quy định giá trị trao đổi. Ông bác bỏ quan điểm ích lợi quyết định giá
trị trao đổi.
- Khi phân tích giá trị hàng hoá: Giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi của
hàng hoá trong mối quan hệ với số lượng hàng hoá khác, còn trong nền sản xuất
hàng hoá phát triển nó được biểu hiện ở tiền.
- Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hoá do lao động hao phí lao động trung bình
cần thiết quy định. Lao động giản đơn và lao động phức tạp ảnh hưởng khác nhau
đến lượng giá trị hàng hoá. Trong cùng một thời gian, lao động chuyên môn, phức
tạp xẽ tạo ra một lượng giá trị nhiều hơn so với lao động có chuyên môn hay lao
động giản đơn.
- Phân biệt giá cả tự nhiên và giá cả thị trường: giá cả tự nhiên là biểu hiện =
tiền của giá trị. Ông khảng định hàng hoá được bán theo giá cả tự nhiên, nếu giá cả
đó ngang với mức cần thiết để trả cho tiền lương, địa tô, và lợi nhuận . Theo ông
giá cả tự nhiên là Truy tâm, giá cả thị trường là giá bán thực tế của hàng hoá giá cả
này nhất trí với giá cả tự nhiên khi được đưa ra thị trường với số lượng đủ “thoả
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tiểu luận: Lịch sử các học thuyết kinh tế thế kỷ XVI - XIX
mãn lượng cầu thực tế’’. Giá cả tự nhiên có tính chất khách quan còn giá cả thị
trường phụ thuộc vào những yếu tố như quan hệ cung cầu và các loại quan hệ
đường khác .
* Mâu thuẫn và sai lầm :
- Đưa ra hai định nghĩa :+ “giá trị toàn điểm là do lao động quy định, giá trị
là do hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá quy định”.
+ Giá trị của một hàng hóa = số lượng lao động mà nhờ hàng hoá đó có thể
mua được .
 Đây là điều sai lầm, luẩn quẩn của A.Smith. Ông đã đưa vào hiện tượng,
một bên là chủ nghĩa lao động cho nhà tư bản, một bên là nhà tư bản trả lương cho
công nhân.

- Về cấu thành lượng giá trị hàng hoá : Theo ông trong sản xuất tư bản chủ
nghĩa, tiền lương, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập,
cũng như của mọi giá trị tác động. A. Smith coi tiền lương, lợi nhuận và địa tô là
nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, đó là quan điểm đúng đắn. Song ông lại lầm
ở chỗ coi các khoản thu nhập là nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị tác động. Ông
đã lẫn lộn hai vấn đề hình thành giá trị và phân phối giá trị, hơn nữa, ông cũng xem
thường tư bản bất biến â; coi giá trị có (v+m) công lao to lớn của A.Smith trong
việc nghiên cứu lý luận giá trị là ở chỗ ông dứt khoát xác định giá trị bằng lao động
chi phí trong việc sản xuất hàng hoá nhất thiết phải tương ứng với lượng lao động
chứa đựng trong nó.
Hơn tất cả các nhà nghiên cứu trước đó, A.Smith phân biệt một cáh rõ rành
và tỉ mỉ hai thuộc tính của hàng hoá: giá trị sử dung và giá trị. ông cũng nêu nên là
người ta thường nhầm lẫn khi dùng phạm trù giá trị để chỉ công dụng một loại hàng
hoá nào đó. Chính ông đề nghị gọi đã là giá trị sử dụng, còn “khả năng một vật mà
giá trị của nó có thể đổi lấy được những vật khác” thì được ông gọi là giá trị trao
đổi. Nguồn gốc tạo ra giá trị trao đổi là lao động vật hoá của công nhân và chỉ có
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×