NGHIÊN CỨU ĐỊNH GIÁ RỪNG Ở VIỆT NAM
Vũ Tấn Phương
Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các hệ sinh thái rừng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với con người và đặc biệt là duy trì môi trường
sống, đóng góp vào sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia và sự tồn tại của trái đất. Rừng không chỉ cung
cấp nguyên liệu như gỗ, củi, lâm sản ngoài gỗ cho một số ngành sản xuất mà quan trọng hơn là các lợi ích
của rừng trong việc duy trì và bảo vệ môi trường như điều hoà khí hậu, hạn chế xói mòn và bồi lắng, bảo vệ
bờ biển, điều tiết nguồn nước và hạn chế lũ lụt.
Sự suy giảm về tài nguyên rừng, đặc biệt là sự thu hẹp nhanh chóng diện tích rừng đang được coi là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi khí hậu toàn cầu và suy thoái môi trường. Trong những năm
gần đây, chúng ta đã và đang chứng kiến hiện tượng ấm lên toàn cầu, sự gia tăng và xuất hiện bất thường
của những trận bão và lũ lụt có cường độ và sức tàn phá lớn, suy thoái đất đai và nguy cơ sa mạc hóa trên
diện rộng đã và đang gây ra những lo ngại lớn trên phạm vi toàn cầu và ở nhiều quốc gia.
Trên phương diện quốc tế, việc xem xét đánh giá giá trị của rừng được nhìn nhận theo quan điểm “Tổng
giá trị kinh tế”. Nghĩa là giá trị của rừng bao gồm các lợi ích trực tiếp như gỗ, củi, lâm sản và môi trường như
các chức năng sinh thái của rừng trong việc điều hòa khí hậu, kiểm soát xói mòn và lũ lụt, bảo tồn đa dạng
sinh học, vẻ đẹp cảnh quan, v.v (Pear 1990).
Ở Việt Nam, trước đây việc xem xét vai trò và giá trị của rừng thường chỉ đề cập đến các lợi ích kinh tế
có được từ việc khai thác gỗ, củi. Tuy nhiên, quan niệm này đang được thay đổi và giá trị của rừng đang
ngày càng được nhìn nhận một cách đầy đủ và toàn diện hơn. Điều này thể hiện là giá rừng lần đầu tiên
được đề cập trong Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004. Theo đó, giá trị của rừng được hiểu là giá trị các lợi
ích về lâm sản và môi trường.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội nhanh chóng và hội nhập quốc tế sâu
rộng, quản lý lâm nghiệp ở Việt Nam đang đặt ra các nhu cầu khách quan và cấp bách về định giá rừng cho
các mục đích như: cho thuê rừng, giao rừng, tính tiền sử dụng rừng, giá trị góp vốn của doanh nghiệp, tiền
bồi thường do chuyển đổi mục đích, phá hoại rừng và xây dựng các cơ chế chính sách chi trả dịch vụ môi
trường. Tuy nhiên, việc xem xét đánh giá và xác định giá rừng còn nhiều khó khăn và bất cập bởi các lý do
sau:
Quan điểm về giá trị rừng còn hạn chế, do chưa coi giá trị và dịch vụ môi trường của rừng là một
loại sản phẩm “đặc biệt” của rừng;
Chưa có phương pháp định giá rừng và cơ sở cho xây dựng khung giá rừng;
Thiếu cơ sở cho việc xây dựng khung pháp lý về tiền tệ hóa giá trị rừng, đánh giá thành quả lao
động của ngành lâm nghiệp, điều chỉnh cơ chế phân phối lợi ích do rừng tạo ra, tạo nguồn tài chính bền
vững cho quản lý.
Nhằm góp phần giải quyết các thiếu hụt trên, đề tài “Nghiên cứu định giá rừng ở Việt Nam” được đề xuất
thực hiện. Kết quả thực hiện đề tài là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng các khung pháp lý liên quan đến
định giá rừng và thực hiện Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng tại một số điểm
điển hình đại diện cho 3 miền Bắc, Trung và Nam. Với rừng sản xuất, nghiên cứu tiến hành tại Phú Thọ, Yên
Bái, Bắc Giang, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Bình Định và Gia Lai trên các đối tượng rừng
sản xuất là rừng tự nhiên (theo các trạng thái giàu, trung bình, nghèo và phục hồi) và rừng sản xuất là rừng
trồng với các loài cây trồng chủ yếu hiện nay là các loài keo, bạch đàn urophylla, thông nhựa và thông mã
vĩ. Với rừng phòng hộ, nghiên cứu tập trung vào rừng phòng hộ đầu nguồn tại lưu vực sông Cầu, sông Bồ
và sông Ba. Rừng đặc dụng được nghiên cứu tại Khu Bảo tồn Chế tạo – Nà Khẩu, vườn quốc gia Bạch Mã
và vườn quốc gia Kon Ka Kinh. Với các loại rừng ở các địa điểm nghiên cứu, tiến hành nghiên cứu xác định
giá tài sản lâm sản (cây đứng); giá quyền sử dụng rừng với rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất
là rừng tự nhiên và giá quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng. Một số giá trị môi trường cũng được
nghiên cứu gồm giá trị phòng hộ đầu nguồn (bảo vệ đất và điều tiết nước); cảnh quan và hấp thụ các bon.
Quan điểm và phương pháp tiếp cận của đề tài là kế thừa và vận dụng hệ thống phương pháp luận quốc
tế và các kết quả nghiên cứu đã có; tiếp cận theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực (lâm nghiệp, kinh tế môi
trường, thủy văn) trong việc xác định giá trị và giá rừng; phù hợp với nhận thức, trình độ phát triển kinh tế xã
hội và chế độ quản lý của Nhà nước; và giá rừng không bao gồm giá đất.
Các phương pháp sử dụng để thu thập số liệu là phương pháp điều tra theo ô tiêu chuẩn điển hình để
thu thập số liệu về đường kính và chiều cao cây nhằm tính trữ lượng rừng và xác định trữ lượng gỗ, củi.
Phương pháp kế thừa, phỏng vấn điều tra bổ sung được sử dụng để thu thập các số liệu về chi phí tạo
rừng, khai thác, các loại thuế phí, giá lâm sản, v.v. Mô hình đánh giá đất và nước (SWAT) được sử dụng để
xác định tác động của rừng đến dòng chảy (mùa lũ và mùa kiệt) và xói mòn trên toàn lưu vực. Tính toán trữ
lượng các bon của rừng tự nhiên được thực hiện theo phương pháp của FAO (FAO, FRA 2005) và của
rừng trồng thực hiện theo IPCC 2003.
Các phương pháp lượng giá sử dụng là phương pháp thu nhập, phương pháp so sánh và phương pháp
chi phí để tính giá quyền sử dụng và quyền sở hữu rừng; giá tài sản lâm sản (cây đứng) được tính theo
phương pháp thu nhập một lần. Phương pháp chi phí thay thế, phương pháp dựa vào giá thị trường và
phương pháp chi phí du lịch (TCM) được áp dụng để tính giá trị phòng hộ đầu nguồn (bảo vệ đất chống xói
mòn và điều tiết nước), hấp thụ các bon và vẻ đẹp cảnh quan.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Cơ sở khoa học về xác định giá rừng
Hai cách tiếp cận về giá trị rừng là tiếp cận theo sử dụng và tiếp cận theo tổng lợi ích. Tiếp cận theo sử
dụng, giá trị rừng được hiểu là tổng thể những lợi ích mà rừng trực tiếp hoặc gián tiếp mang lại. Xem xét về
khía cạnh lợi ích, lợi ích kinh tế tổng thể của khu rừng được phân chia thành những bộ phận gắn liền với
quyền đại diện hoặc sở hữu của một chủ thể nhất định là Nhà nước hoặc chủ rừng khi những chủ thể này
tham gia vào các quan hệ pháp lý về rừng. Hay nói một cách khác, giá trị toàn bộ của rừng là tổng thể
những lợi ích mà rừng mang lại cho xã hội, bao gồm giá trị nội tại của rừng và giá trị ngoại tác.
Giá trị nội tại của rừng là tổng thể những lợi ích mà rừng tạo ra trong giới hạn phạm vi địa giới và không
gian khu rừng nhất định. Giá trị nội tại của rừng được biểu hiện thông qua lợi ích từ các hoạt động khai thác,
sử dụng rừng vào mục đích lâm nghiệp và phi lâm nghiệp trong phạm vi khu rừng đó, như khai thác lâm
sản, nông sản, kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng…
Giá trị ngoại tác của rừng là giá trị của rừng vượt ra ngoài phạm vi địa giới và không gian khu rừng (như
giá trị về môi trường, phòng hộ) mang lại lợi ích cho những tổ chức, cá nhân khác (sinh sống và hoạt động
kinh tế trong và ngoài phạm vi khu rừng). Trong quan hệ giao dịch về rừng, các bên tham gia vào sự trao đổi
trên thị trường không được hưởng những giá trị ngoại tác tích cực do chính hoạt động gây trồng, bảo vệ
rừng tạo ra.
Như vậy, theo cách tiếp cận này, chúng ta cần phân biệt rõ giá trị nào của rừng mang lại cho chính chủ
thể hay người sở hữu rừng, giá trị nào của rừng mang lại cho xã hội chứ không mang lại lợi ích cho chính
người tạo ra rừng. Việc làm rõ vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định giá rừng.
Với cách tiếp cận theo tổng lợi ích, giá trị rừng được hiểu là tổng các lợi ích do rừng mang lại. Một trong
những nguyên nhân cố hữu trong việc hạ thấp giá trị của rừng là theo truyền thống, khái niệm về giá trị kinh
tế được xây dựng trên định nghĩa rất hạn hẹp về lợi ích. Các nhà kinh tế học có xu hướng chỉ thấy giá trị
của các hệ sinh thái rừng thông qua nguyên liệu và các sản phẩm hữu hình tạo ra cho nhu cầu sản xuất và
tiêu thụ của con người được trao đổi trên thị trường chính thức.
Tuy nhiên, lợi ích sử dụng trực tiếp này chỉ biểu hiện một phần nhỏ trong tổng giá trị của rừng. Thực tế
các lợi ích kinh tế do rừng tạo ra vượt xa giá trị của các sản phẩm hữu hình hay buôn bán chính thức trên thị
trường. Khái niệm tổng giá trị kinh tế đã trở thành một trong những khuôn khổ để xác định và phân loại các
lợi ích của rừng (Pearce, 1990). Thay vì chỉ chú trọng đến các giá trị thương mại trực tiếp, tổng giá trị kinh tế
còn bao gồm cả các giá trị sinh kế và các giá trị phi thị trường, các chức năng sinh thái và các lợi ích chưa
được sử dụng đi kèm với rừng. Tổng giá trị kinh tế của rừng bao gồm giá trị sử dụng và giá trị chưa sử
dụng. Giá trị sử dụng: gồm giá trị sử dụng trực tiếp, giá trị sử dụng gián tiếp, giá trị lựa chọn. Giá trị chưa sử
dụng: gồm giá trị để lại, giá trị tồn tại, giá trị lựa chọn. Giá trị sử dụng được tập hợp trên cơ sở chúng được
sử dụng trực tiếp hay gián tiếp. Giá trị sử dụng trực tiếp là những giá trị gần gũi với cuộc sống hàng ngày
của con người mà rừng đem lại (gỗ, lâm sản ngoài gỗ, đồng cỏ, cây thuốc, kinh doanh cảnh quan môi
trường rừng…). Việc sử dụng trực tiếp có thể mang tính chất thương mại và phi thương mại. Giá trị sử dụng
gián tiếp là các giá trị kinh tế do các dịch vụ môi trường và chức năng sinh thái do rừng tạo ra như phòng hộ
đầu nguồn, kiểm soát xói mòn, giảm khí nhà kính, vv. Giá trị lựa chọn là giá trị sử dụng trực tiếp và gián tiếp
trong tương lai như bảo tồn đa dạng sinh học, nơi cư trú. Giá trị phi sử dụng bao gồm những giá trị liên quan
đến việc sử dụng hàng hoá môi trường hiện nay và trong tương lai (tiềm năng) như ý nghĩa về mặt văn hoá,
thẩm mỹ, di sản…
Liên quan đến giá rừng, hiện nay có hai quan điểm trên góc độ kinh tế và trên góc độ pháp lý. Dưới góc
độ kinh tế, giá rừng thực chất là giá cả của rừng, là biểu hiện bằng tiền của giá trị rừng. Giá là phạm trù giá
trị, phát sinh trong quá trình mua bán, trao đổi hàng hoá trên thị trường. Dưới góc độ pháp lý, tại khoản 11
Điều 3 Luật bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 quy định giá rừng là số tiền được tính trên một đơn vị diện
tích rừng do Nhà nước quy định hoặc được hình thành trong quá trình giao dịch về quyền sử dụng rừng,
quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng. Trên cơ sở này, giá rừng được xác định theo Luật Bảo vệ và
Phát triển rừng 2004 như sau:
Quyền sử dụng rừng là quyền của chủ rừng được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ
rừng theo quy định của pháp luật (khoản 6 Điều 3, Luật BR & PTR 2004). Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà
rừng mang lại, còn lợi tức là các khoản lợi thu được từ việc khai thác rừng.
Quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng là quyền của chủ rừng được chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt đối với cây trồng, vật nuôi, tài sản gắn liền với rừng trồng do chủ rừng tự đầu tư trong thời hạn được
giao, được thuê để trồng rừng.
Như vậy có thể thấy việc tính giá rừng trong điều kiện Việt Nam cần được dựa trên ba cơ sở chính là:
Cơ sở hình thành giá trên thị trường; đánh giá tổng giá trị kinh tế của rừng (gồm các giá trị sử dụng trực tiếp
và các giá trị sử dụng gián tiếp); và khung pháp lý về giá rừng và quản lý sử dụng rừng ở Việt Nam.
Giá tài sản lâm sản rừng tự nhiên
Giá tài sản lâm sản được phản ánh bằng tiền giá trị lâm sản (gỗ và củi) của rừng khi rừng chưa khai thác
(hay còn gọi là giá trị cây đứng). Giá tài sản lâm sản được nghiên cứu cho rừng tự nhiên tại Yên Bái, Thừa
Thiên-Huế, Quảng Bình và Gia Lai theo các trạng thái rừng (giàu, trung bình, nghèo và phục hồi). Giá tài
sản lâm sản là cơ sở để tính tiền đền bù do phá hoại hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng. Kết quả xác
định giá tài sản lâm sản được tổng hợp tại bảng 1.
Số liệu cho thấy giá tài sản lâm sản phụ thuộc vào chất lượng rừng hay trạng thái rừng (rừng giàu, trung
bình, nghèo, phục hồi) và khả năng tiếp cận. Điều này cũng có nghĩa là giá tài sản lâm sản chỉ phụ thuộc
vào trạng thái rừng và chất lượng rừng (lâm sản) chứ không phụ thuộc vào việc phân chia 3 loại
rừng.
Bảng 1. Giá tài sản lâm sản rừng tự nhiên tại các điểm nghiên cứu
Giá tài sản lâm sản (1.000 đ/ha)
Địa điểm Trạng thái rừng
Rừng đặc dụng Rừng phòng hộ Rừng sản xuất
Yên Bái
Rừng giàu 257.400-361.300
202.400-272.200
195.900-292.600
Rừng trung bình 93.500-138.800
103.100-144.500
68.300-94.700
Rừng nghèo 55.200-87.800
52.900-68.700
37.300-51.000
Rừng phục hồi 28.600-43.400
23.900-36.300
18.800-28.700
Rừng giàu 221.600-412.400
278.500-375.100
218.600-281.100
Rừng trung bình 125.200-171.500
139.400-179.900
87.800-122.500
Rừng nghèo 83.000-111.600
110.100-150.700
61.400-80.600
Thừa Thiên
-Huế và
Quảng Bình
Rừng phục hồi 31.300-46.900
41.400-56.100
19.000-27.000
Rừng giàu 200.700-338.800
327.000-449.700
190.800-335.500
Rừng trung bình 120.600-171.800
151.900-203.000
105.900-149.300
Rừng nghèo 60.900-88.600
89.000-119.900
65.400-88.900
Gia Lai
Rừng phục hồi 37.800-57.600
50.100-75.800
40.000-52.100
Kết quả cho thấy giá tài sản lâm sản rất khác nhau giữa các vùng miền do trữ lượng và chất lượng rừng
khác nhau. Tuy nhiên ở tất cả các điểm nghiên cứu, giá tài sản lâm sản cao nhất là ở rừng giàu và thấp nhất
là ở rừng phục hồi. Ở Yên Bái, giá tài sản lâm sản biến động từ khoảng 18-361 triệu đồng/ha cho các trạng
thái rừng. Giá tài sản lâm sản của rừng tự nhiên ở miền Trung (Thừa Thiên Huế và Quảng Bình) là khoảng
19–412 triệu đồng/ha và giá tài sản lâm sản của các trạng thái rừng là khoảng 37–339 triệu đồng/ha cho
rừng gỗ tự nhiên ở Gia Lai.
Giá trị quyền sử dụng và quyền sở hữu rừng
Với rừng tự nhiên, giá quyền sử dụng rừng được hiểu là giá trị các lợi ích (chủ yếu là lợi ích từ việc khai
thác gỗ, củi) mà chủ rừng được hưởng trong thời gian sử dụng rừng. Theo quy định về quản lý 3 loại rừng
thì mỗi loại rừng có các quy định riêng về khai thác lâm sản. Trong quy chế này, việc khai thác lâm sản ở
rừng phòng hộ là rất hạn chế và đặc biệt là rừng đặc dụng hầu như không có hoạt động khai thác. Trong khi
giá trị sử dụng rừng của rừng sản xuất và rừng phòng hộ chủ yếu từ các lợi ích khai thác gỗ thì rừng đặc
dụng là giá trị cảnh quan. Do vậy co thể thấy giá trị quyền sử dụng rừng sản xuất là rừng tự nhiên, rừng
phòng hộ và rừng đặc dụng cũng rất khác nhau, phụ thuộc vào trạng thái và chế độ quản lý rừng. Kết quả
xác định giá quyền sử dụng rừng sản xuất là rừng tự nhiên, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng trong thời
gian 50 năm với mức chiết khấu 10% được nêu ở bảng 2.
Như vậy có thể thấy đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên, giá trị quyền sử dụng cao nhất là rừng giàu,
khoảng 75 triệu đồng/ha ở Yên Bái; 85 triệu đồng ở Thừa Thiên Huế và Quảng Bình và 90 triệu đồng ở Gia
Lai; thấp nhất là rừng phục hồi, khoảng 3,9-10,3 triệu đồng/ha. Với rừng phòng hộ, giá trị quyền sử dụng
cao nhất là rừng giàu, từ 50–83 triệu đồng/ha; thấp nhất là rừng phục hồi từ 4-10 triệu đồng/ha. Giá trị
quyền sử dụng rừng đặc dụng là rất thấp, chủ yếu là sử dụng cảnh quan cho du lịch sinh thái. Giá trị này
được ước tính là khoảng 16,4 triệu đồng/ha ở Yên Bái; 9,3 triệu đồng/ha ở Thừa Thiên Huế và khoảng 3,8
triệu đồng/ha ở Gia Lai.
Sự khác biệt về giá quyền sử dụng rừng chính là do sự khác biệt về trữ lượng rừng và chất lượng rừng
ở các điểm nghiên cứu. Thêm vào đó sự phân loại rừng theo các loại rừng giàu, trung bình, nghèo và phục
hồi dựa vào trữ lượng và tiêu chí phân loại này lại khác nhau giữa các vùng miền.
Với rừng sản xuất là rừng trồng, giá quyền sở hữu rừng là rất khác nhau và phụ thuộc chặt chẽ vào tuổi
rừng, năng suất và giá lâm sản trên thị trường. Với rừng keo lai ứng với tuổi từ 1-7 có giá khoảng 17–45
triệu đồng/ha; rừng keo tai tượng là khoảng 18–42 triệu đồng/ha; và rừng bạch đàn urophylla là khoảng 19–
38 triệu đồng/ha. Với rừng thông mã vĩ tuổi 10-20, giá rừng là khoảng 162–209 triệu đồng/ha; và rừng trồng
thông nhựa tuổi 15-30 là khoảng 240–260 triệu đồng/ha;
Bảng 2. Giá quyền sử dụng rừng tự nhiên là rừng sản xuất, phòng hộ và đặc dụng trong thời gian 50
năm (tỷ lệ chiết khấu 10%)
Giá quyền sử dụng rừng (1.000 đ/ha)
Địa điểm Trạng thái rừng
Rừng đặc dụng Rừng phòng hộ Rừng sản xuất
Rừng giàu 72.100
75.100
Rừng trung bình 31.700
33.000
Rừng nghèo 11.300
10.500
Yên Bái
Rừng phục hồi
16.400
4.100
3.900
Rừng giàu 50.000
84.600
Rừng trung bình 30.500
38.000
Rừng nghèo 21.500
20.000
Thừa Thiên- Huế
và Quảng Bình
Rừng phục hồi
9.300
7.200
5.400
Rừng giàu 83.000
89.700
Rừng trung bình 35.600
44.700
Rừng nghèo 16.400
18.700
Gia Lai
Rừng phục hồi
3.800
10.000
10.300
Giá tài sản dịch vụ môi trường của rừng
Giá tài sản dịch vụ môi trường của rừng (giá trị sử dụng gián tiếp) được giới hạn trong các giá trị: phòng
hộ đầu nguồn (bảo vệ đất và điều tiết nước); giá trị phòng hộ ven biển (rừng ngập mặn và rừng phi lao); giá
trị cảnh quan; và giá trị lưu giữ và hấp thụ các bon của rừng. Kết quả nghiên cứu cho thấy giá tài sản dịch
vụ môi trường của rừng không phụ thuộc vào loại rừng (sản xuất, phòng hộ hay đặc dụng) mà phụ thuộc
vào chất lượng rừng và địa điểm cụ thể.
Giá trị phòng hộ đầu nguồn của rừng tại các điểm nghiên được xác định là khoảng 95.000–895.000
đồng/ha/năm với giá trị bảo vệ đất và khoảng 189.000–231.000 đ/ha/năm với giá trị điều tiết nước tại Yên
Bái; ở miền Trung (Thừa Thiên-Huế), giá trị bảo vệ đất là khoảng 120.000–419.000 đ/ha/năm; giá trị điều tiết
nước là 116.000–142.000 đ/ha/năm; ở miền Nam (Gia Lai), giá trị bảo vệ đất là 148.000–520.000 đ/ha/năm
và điều tiết nước là 36.000–47.000 đ/ha/năm.
Giá trị phòng hộ đê biển của rừng ngập mặn tại Nam Định là khoảng 852.000 đ/ha/năm; giá trị
phòng hộ chống cát bay của rừng phi lao tại Quảng Bình là khoảng 525.000 đ/ha/năm.
Giá trị cảnh quan của rừng biến động khá lớn, khoảng 700.000–2.300.000 đ/ha/năm với miền Bắc
(Yên Bái); ở miền Trung (Thừa Thiên-Huế) là 500.000–1.200.000 đ/ha/năm và 200.000–500.000đ/ha/năm
với miền Nam (Gia Lai).
Giá trị lưu giữ các bon và hấp thụ các bon của rừng là rất đáng kể, đặc biệt là rừng tự nhiên và rất
khác biệt giữa các loại rừng. Giá trị lưu giữ các bon và hấp thụ các bon tỷ lệ thuận với trữ lượng và sinh khối
rừng. Với rừng tự nhiên giá trị lưu giữ các bon cao nhất là ở rừng tự nhiên giàu, tiếp đến là rừng trung bình,
nghèo, phục hồi và thấp nhất là tre nứa. Giá trị lưu giữ các bon của rừng gỗ tự nhiên (giàu, trung bình,
nghèo, phục hồi) là 35–84 triệu đồng/ha và giá trị hấp thụ các bon hàng năm là khoảng 0,4-1,3 triệu
đồng/ha/năm với miền Bắc; ở miền Trung giá trị lưu giữ các bon từ 37–91 triệu đồng/ha và giá trị hấp thụ
các bon là từ 0,5–1,5 triệu đồng/ha/năm; ở miền Nam giá trị lưu giữ các bon là 46–91 triệu đồng/ha và giá trị
hấp thụ các bon là 0,6–1,5 triệu đồng/ha/năm.
Với rừng trồng, nghiên cứu đã xây dựng được các mô hình toán xác định trữ lượng các bon cho 5
loài cây keo lai, keo tai tượng, bạch đàn urophylla, thông mã vĩ và thông nhựa. Giá trị hấp thụ các bon của
rừng trồng phụ thuộc vào sinh trưởng và mật độ rừng. Đối với rừng trồng keo lai luân kỳ 7 năm, giá trị hấp
thụ các bon bình quân là 6–36 triệu đồng/ha; keo tai tượng luân kỳ 7năm là 1,4–27 triệu đồng/ha; bạch đàn
urophylla luân kỳ 7 năm là 0,4–42 triệu đồng/ha; rừng thông nhựa luân kỳ 30 năm từ 0,4- 41 triệu đồng/ha;
rừng thông mã vĩ luân kỳ 20 năm là từ 0,2-51 triệu đồng/ha.
Đề xuất khung giá rừng và phạm vi ứng dụng
Đề tài đã xây dựng khung giá rừng cho các loại rừng nghiên cứu. Các khung giá rừng được xây dựng
gồm khung giá tài sản lâm sản và khung giá tài sản rừng (gồm giá tài sản lâm sản và giá tài sản dịch vụ môi
trường) cho 3 loại rừng: sản xuất, phòng hộ và rừng đặc dụng và rừng trồng 5 loài cây: keo lai, keo tai
tượng, bạch đàn urophyla, thông mã vĩ và thông nhựa tại các điểm nghiên cứu. Trên cơ sở khung giá này,
tùy từng giao dịch mà việc ứng dụng khung giá rừng trong quản lý và tiền tệ hóa giá trị của rừng được đề
xuất. Khung giá rừng bao gồm: i) khung giá tài sản lâm sản; ii) khung giá quyền sử dụng rừng tự nhiên
và iii) khung giá tài sản rừng. Khung giá tài sản lâm sản xây dựng cho rừng tự nhiên gồm rừng sản
xuất, phòng hộ và đặc dụng theo các trạng thái rừng (giàu, trung bình, nghèo và phục hồi) tại các
vùng khác nhau. Khung giá quyền sử dụng rừng tự nhiên cho các điểm nghiên cứu và khung giá tài
sản rừng xây dựng cho rừng tự nhiên gồm 3 loại rừng là đặc dụng, phòng hộ và sản xuất. Riêng với
rừng đặc dụng, do tính đa dạng sinh học và đặc hữu nên có thể nói loại rừng này là vô giá. Khung giá
tài sản rừng đặc dụng trong báo cáo này chỉ giới hạn trong phạm vi các giá trị tài sản lâm sản và tài
sản dịch vụ môi trường. Ngoài ra, đề tài cũng thiết lập khung giá cho rừng sản xuất là rừng trồng cho
các loài keo, bạch đàn urophylla và thông. Việc ứng dụng khung giá rừng trong quản lý rừng và tiền
tệ hóa giá trị rừng trong các giao dịch được đề xuất như sau:
a. Đối với khung giá tài sản lâm sản: Giá tài sản lâm sản nên được ứng dụng trong các trường hợp sau:
Làm cơ sở cho tính toán xác định giá trị tài sản rừng của các chủ rừng và có thể được sử dụng
trong việc thương mại như các tài sản khác (ví dụ đặt cọc để vay tiền ngân hàng, );
Tính tiền đền bù, bồi thường (ví dụ tính tiền bồi thường do chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, do
hành vi phá hoại rừng )
b. Đối với khung giá quyền sử dụng rừng tự nhiên: Là khung giá xác định theo Luật bảo vệ và Phát triển
rừng 2004. Khung giá này quy định quyền sử dụng rừng từ hưởng lợi lâm sản (chủ yếu là gỗ) theo quy định
hiện hành. Khung giá này sử dụng để tính tiền sử dụng rừng, tính thuế và lệ phí hoặc tính tiền thuê rừng;
c. Khung giá tài sản rừng: Khung giá tài sản rừng tự nhiên bao gồm giá trị sử dụng trực tiếp (giá tài sản
lâm sản, giá quyền sử dụng rừng) và giá tài sản dịch vụ môi trường (DVMT). Tuỳ theo mục đích quản lý
rừng, từng giá trị trong tổng giá tài sản rừng có thể được sử dụng. Việc ứng dụng khung giá tài sản rừng
được đề xuất như sau:
Giá trị sử dụng trực tiếp của rừng là cơ sở để tính tiền sử dụng rừng (đối với rừng sản xuất và
rừng phòng hộ), hoặc để tính tiền cho thuê rừng cho kinh doanh cảnh quan (đối với rừng đặc dụng);
tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi rừng. Đối với rừng sản xuất là rừng trồng, giá trị sử dụng
trực tiếp là khung giá rừng để trao đổi trên thị trường.
Giá tài sản DVMT gồm bảo vệ đất, điều tiết nước và hấp thụ các bon là cơ sở để xây dựng giá
và các khung pháp lý về chi trả dịch vụ môi trường rừng, thực hiện các cơ chế quốc tế (như cơ chế
phát triển sạch đối với giá trị lưu giữ và hấp thụ cácbon); sử dụng để tính phí và lệ phí sử dụng môi
trường rừng.
Trong trường hợp có hành vi phá hoại rừng thì giá trị môi trường rừng cũng cần được xem xét
để đưa vào tính giá đền bù cho hành vi phá hoại rừng;
Khung giá tài sản rừng nên được xem xét để đưa vào hạch toán tài nguyên rừng. Nghĩa là, giá trị
rừng không chỉ bao gồm các giá trị gỗ mà còn bao gồm cả giá trị môi trường rừng. Trên cơ sở này, có các
điều chỉnh về nhận thức và hành vi ứng xử trong quản lý rừng;
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
- Đề tài đã hệ thống hóa cơ sở khoa học cho định giá rừng ở Việt Nam. Giá rừng đã được xem xét trên
cơ sở hệ thống phương pháp luận quốc tế, các nguyên tắc về giá và chế độ quản lý của Việt Nam. Theo đó,
các nguyên tắc và phương pháp xác định giá các loại rừng là phù hợp trong điều kiện hiện nay.
- Đề tài đã xác định được giá tài sản rừng dựa trên các lợi ích từ lâm sản (gỗ và củi) hay giá trị sử dụng
trực tiếp và lợi ích từ các dịch vụ môi trường rừng hay giá dịch vụ môi trường. Đề tài đã xác định giá tài sản
lâm sản và tổng giá tài sản rừng bao gồm giá tài sản lâm sản, giá trị quyền sử dụng rừng tự nhiên (hay giá
trị sử dụng trực tiếp) hoặc giá quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng) và giá tài sản dịch vụ môi trường
(giá trị phòng hộ đầu nguồn, cảnh quan, lưu giữ và hấp thụ các bon) cho rừng sản xuất là rừng tự nhiên,
rừng phòng hộ và rừng đặc dụng; và 5 loại rừng sản xuất là rừng trồng cho 5 loài cây chủ yếu là keo lai, keo
tai tượng, bạch đàn urophylla, thông mã vĩ và thông nhựa.
- Khung giá rừng được xây dựng và bao gồm khung giá tài sản lâm sản và khung giá trị quyền sử dụng
rừng tự nhiên, khung giá tài sản rừng (gồm giá quyền sử dụng và giá tài sản DVMT) cho rừng tự nhiên;
khung tổng giá tài sản của rừng sản xuất là rừng trồng gồm rừng keo lai, keo tai tượng, bạch đàn urophylla,
thông mã vĩ và thông nhựa. Khung giá rừng đề xuất là cơ sở quan trọng trong việc tính thuế, tiền cho thuê
rừng; tính tiền đền bù do phá hoại rừng và chi trả dịch vụ môi trường rừng;
- Các kết quả của đề tài là các cơ sở quan trọng cho việc tiền tệ hóa giá trị rừng, xây dựng các chính
sách tạo nguồn tài chính bền vững cho quản lý và phát triển rừng và đặc biệt là thay đổi quan niệm và nhận
thức về giá trị của rừng.
Tồn tại
- Do hạn chế về thời gian và kinh phí, nên đề tài tiến hành nghiên cứu điểm trên các vùng miền. Do vậy,
kết quả nghiên cứu không thể phản ánh hết các đặc trưng về kiểu rừng và loại rừng trên toàn quốc.
- Một số giá trị môi trường (phòng hộ đầu nguồn) của rừng không những phụ thuộc vào thảm rừng mà
còn phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên khác. Do vậy giá trị này mang tính địa phương. Các kết quả
nghiên cứu mới chỉ phản ánh các giá trị của rừng trong khu vực nghiên cứu của đề tài.
Kiến nghị
- Khung giá tài sản rừng đề xuất chỉ mang tính đại diện cho các điểm nghiên cứu và mang thời gian. Do
vậy khi áp dụng cần có các nghiên cứu bổ sung và cần được điều chỉnh khi có sự biến động lớn về thị
trường.
- Khung giá tài sản rừng là toàn diện hơn so với giá rừng quy định tại Luật bảo vệ và Phát triển rừng. Tuỳ
từng trường hợp cụ thể, khung giá tài sản rừng cung cấp các cơ sở quan trọng cho tính tiền sử dụng rừng,
cho thuê rừng, đền bù, xây dựng chính sách về chi trả dịch vụ môi trường, các chính sách về đầu tư cho lâm
nghiệp.
- Cần có các nghiên cứu toàn diện trên các lưu vực quan trọng ở các vùng miền và xác định mối liên hệ
giữa che phủ rừng, chất lượng rừng với khả năng điều tiết nước và hạn chế lũ lụt nhằm xác định giá trị của
rừng trong giảm thiểu lũ lụt và các giá trị của rừng về bảo tồn đa dạng sinh học.
- Nên thừa nhận giá tài sản rừng và đưa giá tài sản rừng vào hệ thống hạch toán tài nguyên rừng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ NN & PTNT, 2005. Quyết định số 40/2005/QĐ-BNN ngày 07 tháng 07 năm 2005 về Quy chế khai
thác gỗ và lâm sản khác.
2. Bann, C., 1997. The Economic Valuation of Mangroves: A Manual for Researchers. International
Development Research Centre, Ottawa
3. Brown, J and Pearce, D.W, 1994. The economic value of carbon storage in tropical forests, in J.Weiss (ed),
The Economics of Project Appraisal and the Environment, Cheltenham: Edward Elgar, 102-23.
4. Brown, S. 1997. Estimating biomass and biomass change of tropical forests. A primer. FAO Forestry
Paper, 134. Rome, FAO
5. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2004. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004.
6. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2006. Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03 tháng 03 năm 2006
Hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ và Phát triển rừng.
7. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2007. Nghị định số 48/2007/NĐ-CP ngày 28 tháng 03 năm 2007
về nguyên tắc và phương pháp xác định giá các loại rừng.
8. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2006. Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 8 năm
2006 về Quy chế quản lý rừng.
9. Carson, R. 1998. Valuation of tropical rainforests: philosophical and practical issues in the use of contingent
valuation, Ecological Economics, 24,15-29
10. David W Pearce and Corin G T Pearce, 2001. The value of Forest ecosystems, Report to the
Secretariat Convention on Biological Diversity, Montreal, 67 pages
11. FAO, 2005. Global Forest Resource Assessment 2005. Rome.
12. Phạm Xuân Phương, 2007. Phân tích khung pháp lý về quản lý và sử dụng rừng liên quan đến định
giá rừng ở Việt Nam. Đề tài Định giá rừng ở Việt Nam. Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng,
Hà Nội.
13. Vũ Tấn Phương và cs, 2007. Báo cáo tổng kết đề tài lượng giá giá trị kinh tế về môi trường và dịch
vụ môi trường của một số loại rừng chủ yếu ở Việt Nam. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Hà Nội.
14. Vũ Tấn Phương và cs, 2008. Báo cáo tổng kết đề nghiên cứu định giá rừng ở Việt Nam. Viện Khoa
học Lâm nghiệp Việt Nam, Hà Nội.
15. Vũ Tấn Phương và Đỗ Đình Sâm. 2005. Báo cáo chuyên đề “Các phương pháp xác định cácbon”.
Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng, Hà Nội.