Dự án quản lý
bền vững/ tài nguyên vùng
hạ lưu sông Mekong (SMRP)
Tổ công tác quốc gia
về lâm nghiệp cộng đồng
Báo cáo chuyên đề
Xây dựng phương pháp và tiêu chí đánh giá các mô hình quản lý rừng làng/ bản
Người thực hiện: Tô Đình Mai
Thành viên tổ công tác quốc gia về lâm nghiệp cộng đồng
Hà nội, tháng 10 năm 2002
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
1
Mục lục
Tóm tắt báo cáo : 3
Giới thiệu 5
Mục đích của chuyên đề: 6
Phương pháp tiếp cận và nghiên cứu 6
Nội dung báo cáo 8
1. Tổng quan về cơ sở lý luận và thực tiễn để nhận biết và phân tích về quản lý
rừng làng /bản . 9
1.1. Tính cộng đồng và làng/bản : 10
1.2. Vị trí pháp lý của cộng đồng dân cư làng/bản (thôn) 12
1.3. Chế độ sở hữu và quản lý các khu rừng cộng đồng có tính truyền thống :14
1.4. Sự biến động về rừng làng/bản có tính chất truyền thống : 16
1.5. Tác động của các chính sách lâm nghiệp đối với sự phát triển quản lý rừng
làng/ bản 18
1.6. Tính tất yếu của việc hình thành rừng làng/bản ; 24
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
2
1.7. Vị trí của rừng làng/bản trong quản lý lâm nghiệp : 25
2.Tiêu chí để nhận biết rừng làng/bản. 28
2.1. Rừng làng/bản qua các số liệu đã công bố : 28
2.2. Khái niệm về rừng làng bản: 32
2.3. Các mô hình quản lý rừng/làng/bản hiện nay : 33
2.4. Đặc điểm của rừng làng/bản: 35
2.5.Tác dụng của rừng làng/bản 36
2.6.Tiêu chí để nhận biết rừng làng/bản 37
3.Phương pháp quản lý rừng làng/bản 41
3.1.Mục tiêu quản lý rừng làng/bản 41
3.2. KháI niệm và nội dung quản lý rừng làng/bản : 41
3.3. Các phương pháp quản lý rừng ở các loạI mô hình rừng làng/bản khác
nhau 42
Lập hồ sơ giao rừng cho làng/bản quản lý 49
3.4. Phương pháp quản lý rừng làng/bản. 51
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
3
4.Tiêu chí đánh giá về quản lý rừng làng/bản 55
4.1. Khung tiêu chí để đánh giá các mô hình quản lý rừng làng/bản 55
4.2. Thuyết minh về sự cần thiết và nội dung của các tiêu chí đánh giá về quản
lý rừng làng/bản 57
5.Khuyến nghị 62
TàI liệu tham khảo 64
Tóm tắt báo cáo :
Mục tiêu chính của báo cáo là : Nghiên cứu phương pháp và tiêu chí đánh giá
quản lý rừng làng/ bản ở Việt Nam.
Do những đặc đIểm lịch sử, nên hiện nay, ở Việt Nam có nhiều chủ thể quản lý rừng
khác nhau, trong đó có những chủ thể quản lý rừng có đặc đIểm phù hợp với cộng
đồng dân cư làng /bản. Tuy vậy, cho đến nay, đang tồn tạI nhiều khái niệm,nhiều cách
thống kê diện tích rừng làng/bản rất khác nhau. Do đó, không thể nghiên cứu được
phương pháp quản lý và tiêu chí đánh giá rừng làng/bản, nếu như không xác định
được rõ ràng rừng làng/bản là gì, và ở đâu ? Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn
phương pháp tiếp cận bao gồm những nội dung sau đây:
1/ Xác định tiêu chí để nhận biết rừng làng /bản
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
4
2/ Nghiên cứu phương pháp quản lý rừng làng/ bản ở 3 mô hình quản lý hiện đang tồn
tạI để phân tích những ưu đIểm, nhược đIểm của phương pháp quản lý rừng
làng/bảnhiện có.Từ đó,đề xuất nội dung, phương pháp quản lý rừng làng/bản phù
hợp với tình hình hiện tạI ở Việt Nam
3/ Xuất phát từ phương pháp ,nội dung quản lý rừng làng /bản đã đề xuất để xây dựng
tiêu chí đánh giá hiệu quả và trình độ quản lý rừng làng /bản phù hợp.
Báo cáo đã đề xuất 5 tiêu chí để nhận biết rừng cộng đồng.Từ đó, đã xác định nội
dung, ưu đIểm, nhược đIểm của phương pháp quản lý rừng đang áp dụng ở 3 loạI
hình rừng làng /bản đã được tác giả xếp loạI và đề xuất phương pháp quản lý rừng
làng /bản thích hợp với tình hình hiện nay và xu hướng phát triển trong tương lai.
Cuối cùng, báo cáo đã đề xuất khung tiêu chí để đánh giá trình độ và hiệu quả về
quản lý rừng làng/bản và giảI thích rõ nội dung của 8 tiêu chí đã đề xuất. Các tiêu
chí đã đề xuất có thể dùng để đánh giá trình độ và hiệu quả về quản lý rừng
làng/bản về cả 3 mặt : MôI trường (2tiêu chí), Xã hội (4 tiêu chí), Kinh tế (2 tiêu
chí)
Để ứng dụng được phương pháp quản lý và tiêu chí đánh giá quản lý rừng làng/bản
đã nghiên cứu,báo cáo đã đưa ra 6 khuyến nghị cần giảI quyết để mở rộng việc
thu hút các cộng đồng dân cư ở các làng, bản vào công tác quản lý rừng bền vững.
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
5
Giới thiệu
- Hiện nay, đang có nhiều định nghĩa khác nhau về lâm nghiệp cộng đồng
(LNCĐ). Nhưng từ các định nghĩa khác nhau đó, chúng ta vẫn tìm thấy nội dung thống
nhất về LNCĐ, đó là : .
Lợi ích của rừng được sử dụng để phục vụ trực tiếp và trước hết cho các nhu cầu rất
cơ bản của cộng đồng
Có sự tham gia quản lý rừng của người dân, các thành viên trong cộng đồng.
ở thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 và hiện nay, sự tham gia của người dân ở ngành lâm
nghiệp Việt nam ngày càng tăng và đang xuất hiện nhiều mô hình tổ chức quản lý
rừng có sự tham gia của người dân ở những mức độ khác nhau. Trong đó, hiện nay có
2 mô hình tham gia của người dân rất phù hợp với nội dung LNCĐ, đó là:
Toàn thể dân cư sống ở làng/ bản cùng quản lý và hưởng lợi ở các khu rừng thuộc
quyền sử dụng (hoặc quyền sở hữu) của toàn cộng đồng. Trong loại hình này, các
khu rừng thuộc quyền sử dụng, quyền sỡ hữu truyền thống của cộng đồng dân cư
làng /bản có tính chất rất đặc trưng và phổ biến nhất. Loại hình này, dưới đây sẽ gọi
tắt là Rừng làng/bản (để thống nhất với thuật ngữ đã dùng ở Luật bảo vệ và phát
triển rừng ( Luật BV&PTR)
Từng nhóm dân cư ở các làng/ bản liên kết với nhau bằng nhiều loại hình tổ chức
khác nhau, có tính chất cộng đồng hoặc tập thể nhỏ hơn (như nhóm hộ gia đình
hoặc nhóm cùng sở thích, các hội nghề nghiệp, các đoàn thể chính trj – xã hội )
để cùng tham gia quản lý các khu rừng thuộc sở hữu Nhà nước (đồng quản lý ),
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
6
nhưng được các chủ rừng Nhà nước (các tổ chức Nhà nước) giao khoán cho cộng
đồng quản lý có tính chất lâu dài theo hợp đồng (hoặc khế ước).
Trong hai mô hình nói trên, mô hình thứ nhất là mô hình rừng làng/ bản thật sự, vì
quyền sở hữu rừng và quyền sử dụng rừng hoàn toàn thuộc về cộng đồng dân cư làng/
bản. ở mô hình thứ hai, quyền sở hữu rừng thuộc về Nhà nước, còn quyền sử dụng
rừng có một phần thuộc về Nhà nước, còn một phần thuộc về cộng đồng dân cư ở làng
bản (tùy theo nội dung quy định ở từng hợp đồng hoặc khế ước). Tuy vậy, cả hai mô
hình này đều có điểm giống nhau là cộng đồng dân cư đều là chủ thể được giao nhiệm
vụ quản lý rừng trên địa phận hoặc gần địa phận cư trú của làng/ bản mình.
- Chính vì vậy, chuyên đề này nghiên cứu những tiêu chí xác định loạI rừng
làng/bản, phương pháp quản lý rừng làng/bản ở cả hai loại mô hình nói trên để tìm
ra những tiêu chí và phương pháp quản lý rừng phù hợp với chủ thể quản lý là cộng
đồng dân cư thôn bản.
Mục đích của chuyên đề:
Góp phần nghiên cứu các luận cứ khoa học về quản lý rừng làng/ bản trong quản lý
LNCĐ nói riêng và quản lý lâm nghiệp nói chung.
Xây dựng các tiêu chí để để nhận biết các loại hình rừng làng/ bản trong cơ cấu
quản lý nền lâm nghiệp nhiều thành phần.
Đề xuất các phương pháp quản lý và tiêu chí đánh giá về quản lý rừng làng/ bản.
Phương pháp tiếp cận và nghiên cứu.
Phương pháp tiếp cận :
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
7
Để đạt được mục đích nói trên, chúng tôI đã tiếp cận đối tượng nghiên cứu – Rừng
làng/bản - theo những nội dung sau đây :
+ Từ các mô hình LNCĐ đang tồn tạI để chọn lựa các mô hình rừng làng/bản phù
hợp với hai loạI hình trên.
+ Từ thực tiễn quản lý hai loạI mô hình đó để xác định kháI niệm rừng làng/bản và
tiêu chí để nhận biết đâu là rừng làng/bản, khắc phục tình trạng chưa thống nhất
trong cách nhận biết và xác định rừng làng/bản đang tồn tạI hiện nay.
Nghiên cứu nộidung quản lý rừng làng/bản đã được thực hiện ở các mô hình
quản lý rừng làng/bản đã xác định để đề xuất phương pháp quản lý rừng làng/bản,
và dựa vào mục tiêu quản lý rừng làng/bản để xây dựng tiêu chí đánh giá rừng
làng/bản.
Toàn bộ phương pháp tiếp cận này được mô tả ở sơ đồ 1 :
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
8
Sơ đồ 1 : Phương pháp tiếp cận để xây dựng phương pháp quản lý và tiêu chí đánh
giá về quản lý rừng làng/bản (RLB).
- Phương pháp nghiên cứu :
- Tổng hợp và phân tích các chuyên luận và báo cáo về LNCĐ.
- Trực tiếp phỏng vấn với chuyên gia và cộng đồng đã quản lý rừng làng/ bản.
- Hội thảo với các chuyên gia và thành viên của tổ công tác quốc gia LNCĐ về kết
quả đã nghiên cứu, và tổng hợp để xây dựng báo cáo.
Nội dung báo cáo
Kết quả nghiên cứu chuyên đề này được trình bày theo các nội dung sau đây:
Tổng quan về cơ sở lý luận và thực tiễn để nhận biết và phân tích về quản lý
rừng làng/ bản.
Các mô hình
quản lý LNCĐ
Lựa chọn
mô hình quản lý RLB
KháI ni
ệ
m
và tiêu chí RLB
Tiêu chí
quản lý RLB
Mục tiêu, nội dung
và phương pháp quản
lý RLB
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
9
Tiêu chí để nhận biết và xác định rừng làng/ bản.
Phương pháp quản lý rừng làng/bản.
Tiêu chí đánh giá quản lý rừng làng/ bản.
Khuyến nghị.
1. Tổng quan về cơ sở lý luận và thực tiễn để nhận biết và phân tích về quản lý
rừng làng /bản .
Rừng làng/ bản (rừng làng) là một thực tế đã tồn tại và có nhiều biến đổi tuỳ theo
chế độ sở hữu đất đai/rừng núi và các thể chế tổ chức sản xuất nông lâm nghiệp và
quản lý xã hội ở nông thôn. Hiện nay, trong quá trình chuyển đổi chiến lược phát
triển lâm nghiệp và xây dựng ngành lâm nghiệp trong cơ chế của nền kinh tế thị
trường, rừng làng/bản đang có xu hướng được khôI phục và phát triển.
Rừng làng/bản xuất hiện, tồn tại, phát triển trên cơ sở của những yếu tố như:
- Nhu cầu của cộng đồng đối với rừng,
- Tính cộng đồng quan hệ của các thành viên trong cộng đồng
- Các loại hình tổ chức cộng đồng đang tồn tại
- Vị trí của tổ chức cộng đồng làng/bản trong xã hội dân sự.
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
10
- Quan hệ sản xuất và các hình thức sở hữu nông thôn
Những phân tích dưới đây sẽ làm rõ hơn các yếu tố đã chi phối sự xuất hiện, tồn tại và
phát triển rừng làng/bản trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
1.1. Tính cộng đồng và làng/bản :
Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số sống ở nông thôn, hơn 70% lao động
làm nông nghiệp. Xuất phát từ đặc điểm của nông nghiệp và nông thôn, nên tính
cộng đồng được thể hiện rất rõ trong sản xuất, đời sống, đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc, phòng chống thiên tai của tất cả 54 dân tộc anh em đang sinh sống trên lãnh
thổ Việt Nam .
Các loạI hình cộng đồng ở nông thôn Việt Nam rất phong phú và đa dạng được tổ
chức theo nhiều nguyên tắc khác nhau như : theo huyết thống (gia đình, gia tộc) ;
theo địa vực hoặc địa bàn cư trú (làng, bản, thôn, ấp, buôn….); theo nghề nghiệp
hoặc sở thích (phường, hội)
Quan hệ cộng đồng và tính cộng đồng được thể hiện rõ nét hơn ở những cộng đồng
dân tộc thiểu số, ở những nơi mà nền kinh tế chủ yếu còn mang nặng tính chất tự cấp
tự túc, hoặc đời sống của người dân còn phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên,
vào núi rừng.
Trong những loạI hình đó, loạI hình tổ chức cộng đồng theo nguyên tắc địa vực có
vị trí quan trọng nhất, là cơ sở đầu tiên để hình thành các cộng đồng làng/bản và
tồn tạI các loạI hình rừng làng/bản hiện nay.
Làng - bản - cổ truyền của người Việt Nam đã tồn tại từ lâu đời ở khắp các địa
phương, ở nhiều dân tộc (với nhiều tên gọi khác nhau như làng, bản, buôn, plây…).
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
11
Làng/bản là nơi liên kết những gia đình sống gần nhau, là một kiểu tổ chức cộng
đồng dân cư theo địa vực, là nơi sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Trong xã hội truyền
thống của các dân tộc ở Việt Nam, làng/bản luôn được coi là đơn vị xã hội cơ sở.
Quản lý làng/bản ở Việt Nam đã có truyền thống từ lâu đời, được thực hiện bằng
luật pháp do Nhà nước Trung ương ban hành và bằng hương ước do các cư dân ở
làng/bản xây dựng và lưu truyền có tính chất truyền thống.
Khung 1 : Nội dung các hương ước
Các hương ước chủ yếu tập trung vào việc giải quyết các vấn đề dân sự trong nội bộ
làng/bản, trong đó có những vấn đề như : bảo vệ trị an ở làng, xóm; bảo về đồng ruộng;
bảo vệ rừng, được quy định rất chi tiết với các hình thức thưởng phạt rất rõ ràng, cụ
thể. Những hương ước ở các làng/ bản vùng bán sơn địa, trung du, những lệ tục ở các
dân tộc Ê - đê, Mường, H
/
Mông, Mơ-Nòng… đều có ghi đậm nét những quy định của
cộng đồng đối với những rừng làng/bản để bảo đảm hài hoà lợi ích của các thành viên
trong cộng đồng và vì lợi ích chung của cộng đồng.
Trong lịch sử, làng/bản chẳng những là tổ chức nặng nề về dân sự, mà đã có những
thời kỳ làng/ bản được xem là một cấp chính quyền (như cấp thôn trong xã hội
phong kiến) hoặc có tính chất nửa chính quyền (từ sau cách mạng tháng 8/1945 đến
trước phong trào hợp tác xã nông nghiệp bậc cao.
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
12
Khung 2 : Diến biến về tổ chức làng/bản
Từ năm 1945 đến nay, đất nước ta đã trải qua 4 lần sửa đổi Hiến pháp
(1946,1960,1981,1992). Về mặt tổ chức chính quyền Nhà nước, các Hiến pháp đều xác
định xã là cấp chính quyền Nhà nước cơ sở, là đơn vị hành chính cấp cơ sở. Tuy vậy,
mối quan hệ giữa xã - làng/bản trong địa phận một xã, hình thức tổ chức của cấp thôn
(làng, bản, ấp…), hình thức tổ chức và điều hành từ cấp xã đến người dân sinh sống
trên địa bàn xã thường không thống nhất. Sự khác nhau đó cũng là một điều tất nhiên,
vì cơ cấu tổ chức và cách điều hành từ xã đến thôn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện
địa lý, tập quán dân tộc, quan hệ cộng đồng… ở từng địa phương và từng vùng.
1.2. Vị trí pháp lý của cộng đồng dân cư làng/bản (thôn)
Trong thời gian gần đây, đã có một số Nghị quyết của Đảng và văn bản dưới luật
của Chính phủ quy định những nội dung có liên quan đến quản lý cộng đồng dân
cư ở thôn/ bản và tổ chức quản lý ở cấp thôn như :
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (tháng
6/1993) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) đã đề ra nhiệm vụ nghiên
cứu hương ước, lệ làng cổ làm cơ sở cho việc ban hành các hương ước, quy ước
mới ở làng /bản phù hợp với luật pháp của Nhà nước.
Nghị định số 29/1998/NĐ-CP về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, ghi rõ:
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
13
- “Thôn, bản không phải là một cấp chính quyền, nhưng là nơi sinh sống của cộng
đồng dân cư và là nơi thực hiện dân chủ một cách trực tiếp nhằm giải quyết các
công việc trong nội bộ cộng đồng dân cư”.
- Cần tổ chức hội nghị làng, bản để thảo luận, quyết định các công việc của nội bộ
cộng đồng dân cư về sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Trưởng làng, bản là người đại diện cho cộng đồng dân cư trước UBND xã. Một
trong những nhiệm vụ của trưởng làng/bản là phối hợp với các tổ chức kinh tế
hướng dẫn nhân dân phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- ở thôn/bản có thể thành lập các Ban hoà giải, Ban an ninh, Tổ bảo vệ sản xuất, Ban
kiến thiết….
- Chính phủ cũng giao cho UBND cấp tỉnh quy định chế độ phụ cấp cho Trưởng
thôn, và được chi trong ngân sách xã.
Như vậy, trên thực tế hiện nay, thôn bản và cộng đồng dân cư thôn bản có một vị
trí rõ ràng, thực tế và không thể phủ nhận được trong hệ thống tổ chức xã hội -
dân sự ở nông thôn.
Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có một khung pháp lý quy định đầy đủ về địa vị
pháp lý của cộng đồng dân cư thôn, bản và cấp quản lý cộng đồng để tạo điều
kiện giao đất lâm nghiệp đến cộng đồng dân cư làng/bản, đó là:
- Cộng đồng dân cư làng bản thuộc loại hình tổ chức nào? (xã hội dân sự, kinh tế, đại
diện chính quyền cấp xã…?)
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
14
- Cộng đồng dân cư làng bản có phải là pháp nhân có đủ quyền năng tham gia các
quan hệ pháp luật một cách độc lập hay không?
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm của cộng đồng dân cư làng bản và
người đại diện cộng đồng đó đối với các họat động của cộng đồng và các công tác
quản lý tài nguyên, dân cư, kinh tế…trên địa bàn như thế nào?…
Những tồn tạI về địa lý pháp lý của cộng đồng dân cư làng/bản đã có ảnh hưởng
đáng kể đến việc sử dụng cộng đồng dân cư làng/bản tham gia quản lý rừng, xác
lập quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền kinh doanh những khu rừng do cộng
đồng dân cư làng/bản quản lý.
1.3. Chế độ sở hữu và quản lý các khu rừng cộng đồng có tính truyền thống :
Các dân tộc ở Việt Nam, nhất là các dân tộc thiểu số ở miền núi đã từng có truyền
thống riêng về sở hữu và sử dụng đất đai - ở các dân tộc miền núi, chế độ sở hữu và
quản lý đất đai theo cộng đồng là một truyền thống có tính chất phổ biến. Ngoài loại
đất đai và rừng thuộc sở hữu cộng đồng, còn có các loại đất thuộc quyền sở hữu tư
nhân, hoặc loại đất không rõ ràng về quyền sở hữu.
Tuỳ theo điều kiện tự nhiên, sự phát triển và mức độ phân hoá ở từng dân tộc, từng
vùng mà vai trò quản lý của cộng đồng được thể hiện khác nhau đối với từng loại đất
trên.Trong những thời kỳ trước, quyền sở hữu của cộng đồng về đất đai thường được
biểu hiện ở những nội dung được ghi ở khung 3 :
Khung 3 : Biểu hiện về quyền sở hữu rừng và đất lâm nghiệp của cộng đồng trong
quá khứ
- Cộng đồng có toàn quyền về quản lý đất đai trong địa vực cư trú của mình như quy
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
15
định nơi cư trú, khu vực canh tác, nghĩa địa
- Cộng đồng quy định những loạI đất đai, những khu rừng đặc biệt của cộng đồng,
không ai có quyền xâm phạm như : Các khu rừng cấm, rừng đầu nguồn, rừng
thiêng, nghĩa địa….
- Cá nhân chỉ có quyền sử dụng đất, có quyền thừa kế quyền sử dụng, quyền khai
thác những sản phẩm tự nhiên, nhưng không được quyền chuyển nhượng, bán đất
đai cho người ngoài cộng đồng.
- Đại diện cho quyền sở hữu và quyền quản lý đất đai, rừng núi của cộng đồng là
trưởng làng, chủ làng, hội đồng già làng, trưởng dòng họ hoặc chúa đất (ở các dân
tộc Mường, Thái…). Những người này thường được dân biếu tặng một phần sản
phẩm có giá trị mà họ khai thác được từ rừng tự nhiên hoặc có một số đặc quyền
được cộng đồng quy định (như được khai thác một số đặc sản quý, hiếm…).
Trên cơ sở quyền sở hữu đất đai và rừng cây có tính cộng đồng, cũng đã có những lệ
tục, quy ước quy định nội dung quản lý bảo vệ rừng, nghĩa vụ của người trong cộng
đồng đối với rừng, lợi ích hoặc phân chia lợi ích giữa các thành viên trong cộng đồng
hoặc từ cộng đồng khác đến săn bắt, khai thác ở rừng thuộc cộng đồng mình.
Xuất phát từ những truyền thống đó, trước năm 1945, ở hầu hết các làng - bản vùng
trung du và miền núi đều có rừng làng/ bản, do dân cư trong làng bản quản lý (rừng
làng/bản truyền thống). Rừng làng/bản còn tồn tạI phổ biến ở nhiều địa phương cho
đến trước năm 1960 (ở Miền Băc) và đến trước năm 1975 (ở Miền Nam)
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
16
1.4. Sự biến động về rừng làng/bản có tính chất truyền thống :
Từ năm 1945 đến nay, Nhà nước đã thực thi nhiều những chủ trương đó có tác động
khá mạnh mẽ đến địa vực cư trú của dân cư thôn bản, đến quan hệ cộng đồng và rừng
làng/bản. Các chủ trương đó được biểu thị tóm tắt ở khung 4.
Khung 4 : Những chủ trương có tác động đến rừng làng/bản
- Nhà nước thiết lập quyền sở hữu Nhà nước, sở hữu toàn dân về đất đai và rừng tự
nhiên.Trong hiến pháp, luật không quy định tồn tại loại rừng hoặc đất đai nào thuộc
quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của cộng đồng.
- Vị trí tổ chức cộng đồng làng/bản có nhiều thời kỳ bị mờ nhạt (cơ cấu tổ chức ở các
thôn/làng bị giảI thể, thay thế bằng hợp tác xã quy mô thôn, đội sản xuất).
- Trong phong trào hợp tác hoá nông nghiệp (ở miền Bắc trước năm 1975 và ở miền
Nam sau năm 1975) hầu hết là diện tích rừng làng/bản đều đã quốc hữu hoá hoặc
giao cho các hợp tác xã quản lý.
- Nhà nước thiết lập và phát triển rất nhiều nông trường lâm trường quốc doanh thực
hiện di dân xây dựng các khu kinh tế mới, thực hiện cuộc vận động định canh định
cư ở miền núi. Các nông lâm trường này đã quy hoạch, quản lý hầu hết rừng cây,
đồi núi đất chưa sử dụng ở vùng trung du và miền núi. Người dân cư trú lâu đời ở
các làng xã chỉ được quản lý, sử dụng ruộng nước, vườn thổ cư.
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
17
Tất nhiên các chủ trương đó đã có nhiều tác động tích cực. Nhưng, mặt khác do những
thiếu sót về công tác quy hoạch, tổ chức sản xuất, nên cũng đã gây ra nhiều ảnh hưởng
không tốt đến những truyền thống tốt đẹp về quản lý và sử dụng tài nguyên rừng như
dẫn chứng ở khung 5
Khung 5 : Những tác động không tốt của các chủ trương đã thực hiện đối với rừng
làng/bản.
- Không duy trì được những tập quán tốt đẹp về bảo vệ tài nguyên và những truyền
thống văn hoá rừng, văn hoá làng - xã…
- Các nhu cầu cơ bản, hợp lý của người dân về đất canh tác, đất trồng rừng chưa
được nghiên cứu đầy đủ khi quy hoạch các nông trường, lâm trường. Người dân bị
tách rời khỏi rừng cả về quyền sở hữu, quyền sử dụng, lợi ích và từ đó hầu như các
cộng đồng không nhận rõ và không thực hiện đầy đủ trách nhiệm bảo vệ, quản lý
và phát triển rừng ở ngay địa bàn cư trú của mình. Quyền sử dụng đất đai, rừng núi
chưa ổn định.
- Các nhu cầu cơ bản và hợp lý của người dân về gỗ gia dụng, củi đun, về đồng cỏ
chăn thả gia súc ở hàng vạn làng/bản miền núi chưa đáp ứng tốt làm cho người dân
và các cộng đồng dân cư sống ở miền núi cảm thấy không có lợi ích trực tiếp khi họ
bảo vệ rừng ở nơI mình cư trú.
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
18
- Khi xác định địa vực của các thôn, bản cũng như địa phận hành chính của các xã
chưa xem xét đầy đủ đến các yếu tố đất đai- rừng núi để có sự bố trí hợp lý mối
quan hệ chặt chẽ giữa rừng núi - đồng ruộng – Khu dân cư - đ
ồng cỏ chăn nuôi,
chưa tạo điều kiện cho các làng/bản phát triển bền vững.
Do những biến động đó, nên đến nay diện tích rừng làng/bản truyền thống gần như
không còn tồn tại nhiều. Hiện nay, loại hình rừng làng/bản truyền thống đang do cộng
đồng dân cư làng bản quản lý để phục vụ cho các mục đích trực tiếp của cộng đồng
như các khu rừng thiêng (vì mục đích tín ngưỡng), rừng ma (nghĩa địa), rừng đầu
nguồn nước của làng/bản… thường chỉ còn lại ở các cộng đồng thôn, bản của các vùng
dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc, thường là ở vùng sâu, vùng xa, nơi
không có nông trường, lâm trường quốc doanh.
1.5. Tác động của các chính sách lâm nghiệp đối với sự phát triển quản lý rừng
làng/ bản.
1.5.1. Tác động của các chính sách giao đất lâm nghiệp
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
19
GIao đất lâm nghiệp là một chính sách lớn của Nhà nước đã đề ra và thực hiện từ
1968 đến nay. Tuỳ theo đối tượng được giao đất, quy mô diện tích đất lâm nghiệp
được giao ,thời hạn được sử dụng đất…và tác động của nhiều chính sách lâm nghiệp
khác, nên trên thực tế đã hình thành nhiều chủ thể quản lý rừng khác nhau, trong
đó có cộng đồng dân cư thôn bản. (Xem khung 6)
Khung 6 : Tình hình giao đất lâm nghiệp
Theo thống kê đến năm 2000, Nhà nước đã giao khoảng 7,9 triệu ha rừng và đất lâm
nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân quản lý và sử dụng. Trong đó, phần chủ
yếu là giao cho các tổ chức Nhà nước, có khoảng 2 triệu ha rừng và đất lâm nghiệp
được giao cho hộ gia đình và các đơn vị tập thể quản lý, sử dụng.
Như vậy, còn khoảng gần 3 triệu ha rừng và đất lâm nghiệp chưa được giao cho các
hộ gia đình, cá nhân, tổ chức quản lý sử dụng. Hiện nay số diện tích này được hiểu là
đang nằm trong quyền quản lý của lực lượng kiểm lâm và UBND cấp xã
Tuy vậy, những cơ quan này không phải là những tổ chức được giao quyền sử dụng,
không phảI và không thể trở thành những chủ rừng đích thực được, nên trách nhiệm,
quyền hạn và lợi ích của các chủ thể quản lý vẫn không rõ ràng.
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
20
Khảo sát thực tế ở một số địa phương, chúng tôi thấy rằng, không phải tất cả các diện
tích rừng đều có thể giao cho các hộ gia đình, tổ chức kinh tế và cá nhân trực tiếp
quản lý như một chủ rừng hoặc một chủ thể quản lý rừng được vì những lý do sau
đây:
- Phần lớn những khu rừng chưa giao được đều nằm ở vùng sâu, vùng xa. ở các
vùng này, người dân còn sống theo mô hình kinh tế tự cấp tự túc hoặc kinh tế tự
nhiên theo phương thức luân canh, thu nhặt lâm sản ngoài gỗ để làm thực phẩm
hàng ngày và làm thuốc chữa bệnh. Họ vẫn thường xuyên tìm kiếm sản vật ở rừng
để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu đó chứ không thể mua các sản phẩm đó ở thị
trường được.
- Các tổ chức kinh tế, với mục đích kinh doanh là chủ yếu, chỉ có thể nhận quản lý
những khu rừng sẽ đem lại lợi ích kinh tế thiết thực cho họ (tạo được thu nhập,
sản xuất được lâm sản và bán được ở thị trường, có lợi nhuận) và thuận tiện cho
việc quản lý của họ (gần nhà, kết hợp được sản xuất nông lâm nghiệp…).
- Năng lực của hộ gia đình còn yếu, nên ít có điều kiện đầu tư để quản lý những khu
rừng khó khăn, xa nơi cư trú. Hiệu lực quản lý rừng của từng hộ gia đình còn thấp,
nếu như toàn bộ cộng đồng dân cư ở thôn/bản có nhu cầu khai thác sản phẩm ở khu
rừng đó để đáp ứng các nhu cầu hàng ngày của mình.
Chính vì vậy, muốn cho các khu rừng đều có chủ rừng đích thực chính sách giao đất
lâm nghiệp cần phải tạo điều kiện cho các cộng đồng dân cư đang sống ở các
làng/bản vùng sâu, vùng xa được quyền sử dụng và quyền quản lý một số khu rừng
để có điều kiện hưởng lợi các sản phẩm ở rừng nhằm đảm bảo cuộc sống hàng ngày
của họ. Họ sẽ khai thác, quản lý bền vững rừng và quản lý tốt rừng khi được quyền sử
dụng hợp pháp, có vj trí chủ rừng rõ ràng và có thể đem lại lợi ích thiết thực và trực
tiếp cho họ.
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
21
Khoán bảo vệ rừng :
Trong số 7,9 triệu ha rừng đã giao có gần 6 triệu ha rừng đã giao cho các tổ chức Nhà
nước quản lý. Một phần diện tích này đã được các tổ chức Nhà nước gao khoán cho
các hộ gia đình (hoặc nhóm hộ gia đình) trực tiếp quản lý, bảo vệ theo hợp đồng
(khoảng 1,6 triệu ha). Trong diện tích này, một phần đáng kể được các tổ chức Nhà
nưốc khoán cho các hộ gia đình hoặc cộng đồng dân cư ở làng/bản cùng bảo vệ. Trên
thực tế, ở nhiều nơI dân cư ở các làng bản đã thực thi nhiệm vụ bảo vệ rừng như vị trí
và nhiệm vụ của một chủ thể quản lý rừng. Người nhận rừng được thù lao tiền công
bảo vệ rừng ( tối đa 50.000đ/ha/năm) và cùng hưởng lợi ích của rừng. Có nhiều mô
hình tổ chức quản lý bảo vệ rừng khác nhau (như nhóm hộ gia đình, nhóm đồng sở
thích, các tổ chức đoàn thể ở làng/bản…). Sở dĩ họ phải liên kết các hộ gia đình trên
cùng một địa vực hoặc một tổ chức tập thể hoặc một cộng đồng để bảo vệ rừng vì
những lý do đã phân tích trên.
Như vậy, từ chính sách giao đất lâm nghiệp, trong thực tế đã xuất hiện những chủ
thể quản lý rừng có tính chất cộng đồng hoặc tập thể. Để quản lý tốt, các chủ thể
quản lý rừng này thường là những tổ chức liên kết những người dân cùng sống trên địa
bàn làng/bản, sử dụng quan hệ cộng đồng để cùng quản lý, cùng hưởng lợi, (trong đó
có những lợi ích không phân chia được hoặc không tính toán cụ thể bằng tiền được).
1.5.2.Tác động của các chính sách hỗ trợ sản xuất lâm nghiệp đối với cộng đồng dân
cư làng/bản.
Trong thời kỳ đổi mới, ở Việt nam đã thực hiện nhiều chính sách vĩ mô có tác động rất
lớn đến các cộng đồng dân cư ở các làng/bản thuộc vùng lâm nghiệp như.
- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nhất là lương thực, tăng cường cơ sở hạ tầng
(nhất là đường, điện, trường học…)
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
22
- Đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo.
- Phát triển y tế, giáo dục văn hoá… ở những vùng khó khăn.
- Nhờ đó, chất lượng cuộc sống và dân trí ở những cộng đồng dân cư làng/bản sống
gần rừng đã tăng lên rõ rệt, tạo nhiều điều kiện thuận lợi để giao đất lâm nghiệp cho
cộng đồng dân cư làng/bản sống gần rừng và giúp đỡ họ quản lý tốt rừng được giao.
Tuy vậy, đến nay, hầu hết các chính sách hỗ trợ để nhân dân tăng cường quản lý, bảo
vệ, xây dựng và phát triển rừng đều mới chú ý đến các tổ chức kinh tế: ( hộ gia đình,
hợp tác xã…), và mới thông qua một đầu mối chủ yếu là lâm trường quốc doanh. Gần
như chưa có một chính sách hỗ trợ sản xuất lâm nghiệp nào tác động trực tiếp đến
cộng đồng dân cư làng/bản để khuyến khích họ tăng cường mối quan hệ cộng đồng để
cùng bảo vệ và hưởng lợi từ các khu rừng được phân bố gần các nơi cư trú của cộng
đồng.
1.5.3.Tác động của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở (Nghị định 29 CP, ngày 11/5/1998
của Chính phủ), những điều kiện để phát triển LNCĐ sẽ thuận lợi hơn vì:
- Vị trí tổ chức của cấp thôn/bản (làng, ấp…) đối với công tác quản lý nông thôn
ngày càng được xác định rõ ràng hơn.
- Cộng đồng dân cư được tham gia ý kiến vào nhiều vấn đề có liên quan trực tiếp
đến cuộc sống của họ, trong đó có vấn đề quản lý rừng và đất lâm nghiệp trên địa
bàn làng/bản.
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
23
- Quy ước bảo vệ rừng ở làng/bản đã được xây dựng, kiểm lâm viên được tăng cường
đến địa bàn xã… đã có tác dụng tạo điều kiện để người dân ở các làng/bản có rừng
quản lý tốt được tài nguyên.
- Một số thôn/bản đã lập và quản lý được quỹ phát triển thôn/bản, sẽ tạo điều kiện
để có cơ sở pháp lý tạo nguồn lực tàI chính góp phần vào quản lý rừng làng/bản.
1.5.4. Tác động của chính sách về quyền hưởng lợi đối với rừng
Từ trước đến nay, tư duy chung về chính sách lâm nghiệp thường nhấn mạnh: rừng
thuộc sở hữu Nhà nước, bảo vệ rừng là trách nhiệm và sự nghiệp của toàn dân, Nhà
nước giao đất lâm nghiệp đến hộ gia đình, tổ chức và cá nhân kinh doanh, phát triển
sản xuất hàng hoá… Những tư duy đó thường không nhấn mạnh đến những quyền
hưởng lợi cụ thể của người dân sống gần rừng đối với rừng (hiện có gần khoảng 30
triệu người). Trên thực tế, họ có trách nhiệm trực tiếp về bảo vệ rừng, tham gia vào sự
nghiệp toàn dân bảo vệ rừng, nhưng họ chưa được hưởng những lợi ích cụ thể, rõ ràng
và hợp pháp trong các chính sách lâm nghiệp đã ban hành, nên chưa tạo ra những
động lực mạnh mẽ về lợi ích để khuyến khích những người dân sống trên gần 30.000
làng/bản có rừng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ rừng.
Vào cuối năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 178/QĐ-TTg
ngày 12/11/2001 về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân. Chính sách
này là một bước tiến đáng kể để động viên sự tham gia của người dân vào công tác
quản lý, bảo vệ rừng. Nhưng vì mới ban hành, nên chưa đánh giá được hiệu quả của
quá trình thực thi chính sách này. Tuy vậy, nếu không làm rõ vấn đề rừng làng bản và
quản lý rừng làng/ bản thì cộng đồng dân cư làng/bản chưa được xem là đối tượng
được giao đất lâm nghiệp một cách hợp pháp, và hậu quả của tình hình đó là cộng
đồng dân cư làng/bản cũng chưa thể trở thành đối tượng được hưởng lợi là từ rừng.
C:HoaiLN/NA/BaocaochuyendeMK in 5/9/2002
24
1.6. Tính tất yếu của việc hình thành rừng làng/bản ;
Tổng quát những điều đã trình bày trên, chúng ta có thể thấy :Sự tồn tại của các khu
rừng làng/bản theo các hình thức tổ chức quản lý phù hợp là một tất yếu lịch sử, vì
những lý do sau đây :
- Tính cộng đồng, quan hệ làng/bản và cơ cấu tổ chức làng/bản ở Việt nam là một cơ
sở thuận lợi để thực hiện quản lý rừng từ cộng đồng dân cư làng/bản.
- Mặc dù có nhiều biến động về chính sách đất đai, về quan hệ sản xuất, nhưng ở
nhiều địa phương còn tồn tạI nhiều khu rừng làng/bản truyền thống được quản lý
và bảo vệ rất tốt.
- Cộng đồng dân cư làng/bản có những nhu cầu, lợi ích có những tính chất cộng
đồng, nên cần thiết có những khu rừng được giao quyền sử dụng cho cộng động
làng/bản hoặc cùng quản lý cùng hưởng lợi.
- Tác động của các chính sách trong thời kỳ đổi mới đã có tác dụng làm xuất hiện
nhiều thành phần kinh tế kinh doanh lâm nghiệp, làm thay đổi nhiều thể chế ở nông
thôn, trong đó có việc phát huy tính cộng đồng và dân cư ở cơ sở sẽ làm xuất hiện
nhiều hình thức tổ chức thu hút người dân vào lâm nghiệp trong đó có hình thức
rừng làng/bản.
- Hương ước hoặc quy chế quản lý rừng thôn bản chỉ có hiệu quả khi quyền sử dụng
rừng, nhiệm vụ trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích về quản lý rừng làng/bản được
quy định phù hợp với luật pháp và tôn trọng lệ tục và lợi ích của cộng đồng. Cùng
với quá trình tham gia của người dân đang ngày càng phát triển và các hình thức
tham gia của người dân ở nghề rừng ngày càng đa dạng, các chính sách và khung