Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

10 thí nghiệm khoa học thay đổi thế giới pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.84 KB, 4 trang )

10 thí nghiệm khoa học thay đổi thế
giới
Live Science giới thiệu danh sách 10 thí nghiệm khoa học
làm thay đổi thế giới.
Trong số những thí nghiệm này, có những thí nghiệm xuất phát
từ quan sát thực tế cuộc sống một cách tinh tế, những thí nghiệm
lấy con người làm “chuột bạch” rất liều lĩnh nhưng không hề
điên rồ,những thí nghiệm tỉ mẩn, lâu dài đặt nền móng cho sự
phát triển vượt bậc của một số ngành khoa học…
10. Hoa của Darwin
trồng và nghiên cứu một số loài lan bản địa và nhận thấy rằng,
hình dáng hoa thay đổi để thu hút côn trùng tới và mang phấn
sang nhưng bông hoa bên cạnh. Mỗi loài côn trùng có hình dáng
đặc biệt phù hợp cho việc thụ phấn một loài lan nhất định. Ví
dụ, loài lan Ngôi sao Bethlehem (Angraecum sesquipedale)
chứa mật hoa ở đáy ống hoa dài 30cm. Darwin nhìn thấy cấu
trúc này của hoa và phán đoán rằng, có một loài động vật tồn tại
để phù hợp với cấu trúc này. Năm 1903, các nhà khoa học phát
hiện loài bướm đêm diều hâu có vòi dài, hoàn toàn phù hợp với
việc thò vào cuối ống hoa lan Ngôi sao Bethlehem để hút mật.
Darwin sử dụng dữ liệu ông thu thập được về loài lan và các côn
trùng thụ phấn cho chúng để củng cố thuyết chọn lọc tự nhiên
của mình. Ông lập luận rằng, việc thụ phấn chéo tạo ra các loài
lan có khả năng sống sót cao hơn những loài lan tự thụ phấn –
hình thức sinh sản làm giảm sự đa dạng gene và vì thế giảm khả
năng sống sót. Vì vậy, sau 3 năm miêu tả sự chọn lọc tự nhiên
trong tác phẩm “Nguồn gốc các loài”, Darwin củng cố nền tảng
hiện đại về tiến hóa chỉ với vài thí nghiệm về hoa.
9. Giải mã gene
James Watson và Francis Crick được thế giới ghi nhận công lao
giải mã bí mật của ADN, nhưng phát hiện của họ phụ thuộc


nhiều vào công trình nghiên cứu của một số người khác, trong
đó có Alfred Hershey và Martha Chase. Năm 1952, hai nhà khoa
học này tiến hành thí nghiệm xác định ADN là phân tử chịu
trách nhiệm di truyền. Hershey và Chase nghiên cứu một loài
virus chuyên ăn vi khuẩn. Loài virus này cồm một lớp protein
bao quanh một dãy ADN. Nó nhiễm vào một tế bào vi khuẩn,
lập trình cho tế bào đó tạo ra nhiều virus, sau đó giết chết tế bào
để giải phóng những virus mới sinh ra. Hai nhà khoa học biết
điều này, nhưng họ không biết thành phần nào, protein hay
ADN, chịu trách nhiệm cho đến khi thí nghiệm trộn lẫn dẫn họ
tới acid nucleic của ADN.

Sau thí nghiệm của Hershey và Chase, các nhà khoa học như
Rosalind Franklin tập trung vào ADN và nhanh chóng giải mã
cấu trúc phân tử của nó. Franklin sử dụng kỹ thuật nhiễu xạ X-
quang để nghiên cứu ADN.
8. Vắc-xin đầu tiên
Thế kỷ 18, bệnh đậu mùa do virus variola gây ra giết chết rất
nhiều người trên thế giới (cứ 10 đứa trẻ sinh ra ở Pháp và Thụy
Điển thì có 1 em tử vong vì căn bệnh này). Mắc đậu mùa mà
không chết là cách “chữa trị” duy nhất mà người ta biết đến. Vì
thế, nhiều người gãi các vết đậu mùa cho vỡ dịch và mủ với hy
vọng mắc bệnh ở thể nhẹ. Tuy nhiên, nhiều người chết vì cách
tự tiêm chủng nguy hiểm này.
Bác sĩ người Anh Edward Jenner nghiên cứu đậu mùa và phát
triển một phương pháp chữa trị khả thi. Thí nghiệm của ông bắt
nguồn từ quan sát rằng, các cô gái làm việc ở trang trại bò sữa
thường mắc bệnh đậu mùa ở gia súc, giống đậu mùa ở người
nhưng không nguy hiểm đến tính mạng. Họ dường như không bị
nhiễm đậu mùa như những người khác. Vì vậy, vào năm 1796,

Jenner quyết định tìm hiểu xem có thể có được miễn dịch đậu
mùa bằng cách khiến ai đó bị nhiễm đậu mùa gia súc. Ông rạch
các vết nhỏ trên tay một cậu bé tên là James Phipps và cho vào
đó một ít dịch lấy từ vết loét đậu mùa gia súc của Sarah Nelmes
- một cô gái làm việc ở trang trại bò sữa. Sau đó, Phipps mắc
đậu mùa gia súc và khỏi bệnh. 48 ngày sau, Jenner cho Phipps
tiếp xúc với nguồn bệnh đậu mùa, nhưng cậu bé đã miễn dịch.
Ngày nay, các nhà khoa học biết rằng virus đậu mùa gia súc và
virus đậu mùa ở người giống nhau nên hệ miễn dịch của người
không thể phân biệt được. Nói cách khác, kháng nguyên chống
virus đậu mùa gia súc sẽ tấn công và giết chết virus đậu mùa ở
người nếu chúng giống hệt nhau.
7. Chứng minh sự tồn tại của hạt nhân nguyên tử
Nhà vật lý Ernest Rutherford giành giải Nobel năm 1908 nhờ
công trình nghiên cứu về phóng xạ. Các nghiên cứu trước đó
cho thấy phóng xạ có 2 loại tia: tia alpha và tia beta. Năm 1911,
ông đặt một phiến vàng mỏng (dày cỡ 1 hoặc 2 nguyên tử) ở
giữa nguồn phát tia alpha và màn hình. Ông đặt màn hình thứ 2
ở gần nguồn tia alpha để xem có hạt nào bắn ra chệch hướng
không. Trên màn hình sau lá vàng, Rutherford thấy một hình
khuyếch tán và trên màn hình trước lá vàng, ông thấy vài hạt
alpha bật thẳng trở lại. Rutherford kết luận rằng, có một vật
mang điện tích dương ở trung tâm các nguyên tử vàng và đặt tên
nó là hạt nhân

×