Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Tràng giang 2 khổ đầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.88 KB, 6 trang )

TRÀNG GIANG 2 khổ đầu
Không thắm thiết, nồng nàn như Xuân Diệu, cũng chẳng quắt quay đến điên cuồng
như Hàn Mặc Tử, nỗi buồn của Huy Cận tựa hồ như nỗi buồn của một bậc hiền sĩ
mà vẫn không thiếu chất phong tình của mơt lãng tử. Trái tim u sầu của Huy Cận
tuy cùng chung những nhịp đập bế tắc của các thi sĩ đương thời mà vẫn có những
hơi thở riêng không lẫn vào đâu được. Bài thơ Tràng giang trong tập Lửa thiêng
của chàng thi sĩ là nhịp thở của trái tim nhạy cảm mà mấy thập kỉ qua vẫn chưa
nhòa phai trong tâm tưởng độc giả. Đặc biệt với 2 khổ đầu bài thơ, bức tranh thiên
nhiên hùng vĩ mà đượm buồn cùng tâm trạng bơ vơ, bế tắc đã góp phần làm nên
sắc thái rất riêng, rất Huy Cận.
Tràng giang được gợi cảm hứng từ một buổi chiều cuối thu trước khung cảnh sông
Hồng cùng những cánh bèo, cành củi đang trơi nổi giữa dịng nước mênh mông.
Bao trùm bài thơ dường như là một nỗi buồn mênh mang vô tận của thi sĩ khi đứng
trước thiên nhiên, đất nước và cuộc đời. Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi ra chất cổ
điển rất riêng của Huy Cận. Nhà thơ dùng một từ Hán – Việt để đặt nhan đề cho
bài thơ của mình, gợi ra khơng khí cổ điển, trang trọng và phảng phất chất Đường
thi. Khơng những vậy thay vì dùng “Trường giang” Huy Cận biến âm dùng Tràng
giang, hai âm “ang” được đặt liên tiếp vừa gợi được cái dài rộng của không gian
vừa gợi được cái mênh mang man mác xúc cảm trong lòng người.
Bước qua nhan đề, người đọc lại gặp ngay lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ
sơng dài” như bao trọn cảm hứng của tồn bài thơ. Đó là khơng gian của trời rộng
sơng dài, là cảm xúc của bâng khuâng thương nhớ. Trong mạch cảm xúc như thế
khổ một mở ra một không gian sông nước rộng lớn mênh mang:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng
Hình ảnh đầu tiên của bài thơ là hình ảnh những con sóng khẽ gợn, nối tiếp nhau
đến vơ cùng, vơ tận, tầng tầng lớp lớp không dứt. Câu thơ sử dụng bút pháp “lấy
động tả tĩnh” của văn học trung đại. Chuyển động của con sóng chỉ là “gợn” rất
khẽ, rất nhỏ dường như tan đi trong cái không gian mênh mơng của sơng của trời.


Con sóng đi cùng với tràng giang đã khơng cịn là con sóng thực mà dường như
mang một lớp nghĩa ẩn dụ mới. Nó gợi đến nỗi buồn trong tâm hồn con người
trước sự dài rộng của khơng gian. Trong ca dao cũng từng có câu:


“Sóng bao nhiêu gợn
Dạ em sầu bấy nhiêu”
Nhưng nếu câu ca dao so sánh nỗi buồn với sóng nước để nhấn mạnh tương quan
về số lượng thì câu thơ của Huy Cận lại chủ yếu nhấn mạnh tương quan về sắc thái
sóng gợn vơ tận cũng như nỗi buồn điệp điệp triền miên, da diết khơn ngi. Cùng
với hình ảnh sóng nước là hình ảnh thuyền và củi đang lênh đênh xi theo dịng.
Hình ảnh này như gợi đến kiếp sống nổi lênh của một lớp người bé nhỏ trong xã
hội.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dịng”
Con thuyền thì nhỏ bé, hữu hạn mà dịng sơng thì rộng lớn vơ hạn. Cái hữu hạn đối
với cái vô hạn dường như càng tô đậm cảm giác nhỏ bé cô đơn. Cặp từ láy “điệp
điệp”, “song song” ở hai câu thơ trước đã tô đậm ấn tượng về nỗi buồn mênh mang
đang lan trên mặt nước, lại càng có tác dụng hơn khi đến câu thơ thứ ba. Thuyền
và nước vốn là những sự vật gắn bó nước chảy thuyền trơi, vậy mà giờ đây “thuyền
về” “nước lại” như nhấn vào cảm giác chia lìa đơi ngả. Và phải chăng vì sự chia lìa
đó mà dịng sông tràng giang càng thêm u buồn lặng lẽ? Trong thơ xưa nếu muốn
gợi đến kiếp người nhỏ bé lênh đênh các nhà thơ thường dùng hình ảnh hoa trơi,
bèo dạt. Huy Cận lại chọn hình ảnh một cành củi khơ đang trơi dạt giữa dịng nước
mênh mang để thể hiện điều đó. Biện pháp đảo ngữ càng nhấn mạnh hơn vào cành
củi khô héo, nhỏ bé, cạn kiệt sức sống. Ý thơ này có lẽ vừa được khơi nguồn từ
hình ảnh thực khi nhà thơ nhìn những cành cây khơ trơi từ thượng nguồn về bến
sơng. Nhưng có lẽ nó cịn gợi về một lớp người lúc bấy giờ trong xã hội. Ý thơ này
càng được làm rõ hơn với từ “lạc” dường như là sự trôi nổi vô định, mất phương
hướng. Một cành củi khô héo không sức sống mà vẫn bị giằng xé, chao đảo giữa

dòng nước mênh mang của cuộc đời. Nó gợi đến hình ảnh một lớp người như nhà
thơ trong xã hội xưa, những trí thức tiểu tư sản có ý thức về cái tôi nhưng lại bế
tắc, mất phương hướng trước hiện thực xã hội bấy giờ. Hình ảnh này thể hiện sức
sáng tạo của Huy Cận khi ông đã mang vào thơ một hình ảnh rất đời, rất thực tạo ra
một hình ảnh mới giàu sức gợi, đậm chất hiện đại phá vỡ tính ước lệ và cổ xưa của
thơ Đường. Như vậy khổ thơ thứ nhất đã gợi lên không gian mênh mông rộng dài
của sông nước, gợi thân phận nhỏ bé mất phương hướng giữa cuộc đời của một lớp
người, gợi được nét buồn phảng phất mênh mang. Đồng thời, khổ thơ vừa mang vẻ
đẹp cổ điển lại vừa hòa quyện nét hiện đại mới mẻ, tạo nên một bức tranh thiên
nhiên.


Nếu khổ thơ thứ nhất là cái nhìn cận cảnh của nhà thơ trước dịng sơng mênh mơng
để thấy từng gợn sóng từng cành củi khơ trơi dạt thì khổ hai là cái nhìn bao qt
tồn cảnh sơng dài, trời rộng đến bâng khng:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sơng dài trời rộng bến cơ liêu”
Biện pháp đảo ngữ đẩy từ “lơ thơ” lên đầu đã nhấn mạnh vào cảm giác thưa thớt,
nhỏ bé của những cồn cát. Cùng với đó là hai từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đứng ở đầu
và cuối câu thơ như gợi ra cái hiu quạnh, vắng vẻ, lẻ loi, cô đơn của cảnh vật.
Những cồn cát nhỏ ven sơng trong cái gió đìu hiu, hoang vu như làm dấy lên trong
lịng người nỗi cô đơn, buồn vắng. Không gian tĩnh lặng ấy càng được nhấn mạnh
ở câu thơ:
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Chợ trong tâm thức người Việt gắn với tươi vui, bởi đó là nơi gặp gỡ, giao lưu của
người dân xưa. Thế nên chợ vãn, chợ tàn sẽ gợi nên sự vắng vẻ, gợi nỗi buồn. Ở
đây, nhà thơ tiếp tục dùng biện pháp lấy động để tả tĩnh. Âm thanh vang lên nhưng
lại chỉ là âm thanh từ xa vọng lại và cũng là âm thanh của chợ vãn nên dường như

có như khơng, gợi cái tĩnh lặng hơn cái ồn ào, tấp nập. Từ “đâu” đứng ở đầu câu
thơ tạo ra nhiều cách hiểu. Nó có thể là từ để hỏi như đâu đó tiếng chợ chiều vọng
đến, cũng lại có thể là từ phủ định, làm gì có, đâu có đâu tiếng chợ chiều. Đến cả
tiếng chợ vãn, chợ tan mà cũng như có như khơng thì bức tranh đó phải tĩnh lặng,
buồn vắng tới mức nào. Một lần nữa bút pháp cổ điển lại giúp tác giả gợi được cái
vô hạn của không gian và sự nhỏ bé của sự vật, cái tĩnh lặng của cảnh sắc với
những âm thanh bé nhỏ của cuộc sống. Từ sự đối lập tương phản đó bức tranh buổi
chiều, cảnh ngày tàn hiện lên:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sơng dài trời rộng bến cơ liêu”
Câu thơ như một sự mở rộng về khơng gian. Huy Cận đã có sự quan sát tinh tế và
kĩ càng để nhận thấy nắng càng xuống trời càng lên cao. Không gian như được mở
ra hai chiều rộng dài đến bát ngát. Thêm nữa chuyển động trái chiều mang lại cảm
giác mạnh cho người đọc về một không gian như được mở dần ra. Nhưng chưa
dừng lại ở đó, thi sĩ đã có cách dùng từ ngữ thật sáng tạo. Nếu thông thường chúng
ta dùng từ “chót vót” để gợi độ cao thì ở đây ơng dùng nó để chỉ độ sâu. Sự bất


thường này lại mang đến một hiệu quả lớn. Người đọc như nhận ra một chiều khác
nữa của không gian sơng nước đó là chiều sâu, khơng gian được đẩy tới tận cùng
“sâu chót vót”. Cụm từ sáng tạo này càng khiến cho cái lẻ loi chống chếnh của con
người được tô đậm thêm. Ở câu thơ sau một lần nữa các chiều kích của khơng gian
được nhắc lại trong cái vô hạn của đất trời. Và không gian càng mở ra bao nhiêu
thì cảm giác cơ liêu càng được nhấn mạnh bấy nhiêu. Cái điểm dừng bé xíu của
bến cô liêu như lạc giữa đất trời, như lẻ loi đến cô độc. Như vậy khổ thơ thứ hai
trong cái nhìn bao qt tồn cảnh vật của thi nhân đã mở rộng khơng gian ra mọi
chiều kích, tới khơng giới hạn để rồi nhìn lại con người càng thêm bé nhỏ, trống
vắng và cô quạnh.
Cuộc sống là điểm xuất phát, là cái đích cuối cùng của thơ ca. Những tác phẩm
nghệ thuật chân chính ln bắt rễ từ đời sống hiện thực và có sức lan tỏa mãi trong

trái tim người đọc. Đến với hai khổ đầu Tràng Giang của Huy Cận ta như khám
phá được những nỗi niềm nhà thơ ký thác, nghe được tiếng thở dài bất lực của thi
nhân trước cảnh nước nhà đang chìm trong khói lửa và tan tốc của chiến tranh, sự
kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ
giản dị giàu hình ảnh, tất cả đã làm nên thành công cho Tràng Giang của Huy Cận.
Tràng giang, đặc biệt hai khổ đầu là một thi phẩm đặc sắc của Huy Cận nói riêng
và phong trào thơ mới nói chung. Nó khơng chỉ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận mà
dường như nó còn thể hiện tâm tư của một lớp người lúc bấy giờ. Những con
người nhỏ bé, bế tắc mất phương hướng trước dịng sơng cuộc đời nhưng chưa bao
giờ tâm hồn lìa bỏ khỏi quê hương, tình yêu quê hương đất nước vẫn chảy trong họ
những một dịng sơng mãnh liệt và bền vững để chống đỡ với những sóng gió của
dịng sơng cuộc đời. Vẻ đẹp của “Tràng giang” có lẽ cịn ở sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa chất cổ điển và chất hiện đại làm nên một thi phẩm độc đáo.

TRÀNG GIANG 2 khổ CUỐI
Hướng điểm nhìn vào hai bên bờ sông, chàng thi sĩ phát hiện ra hàng loạt những
hình ảnh khác nhỏ bé của bến sơng và dường như các hình ảnh này càng giúp thi
nhân tơ đậm sự buồn vắng, cơ quạnh, chia lìa.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”


Hình ảnh bèo dạt rất quen thuộc và xuất hiện nhiều lần trong thơ ca truyền thống.
Nhưng ở đây cánh bèo dạt vẫn gợi lên những cảm nhận mới. Hình ảnh này diễn tả
một cách thấm thía sự hợp tan, chia lìa của những kiếp người chứ khơng chỉ gợi sự
nhỏ bé mong manh, trôi dạt như trong thơ ca truyền thống. Bèo dạt hàng nối hàng
như bao kiếp người lênh đênh trên dòng nhân thế. Cảm nhận về sự lênh đênh, trôi
dạt vô dịnh của một kiếp người càng khiến nỗi sầu tăng lên gấp bội trong lòng thi

nhân. Ở khổ thơ này Huy Cận còn nhắc đến những chuyến đị và những cây cầu.
Đây là những hình ảnh gợi sự kết nối, giao lưu. Vậy mà tác giả nhắc tới những sự
vật đó, khơng phải là để khẳng định cái có mà là để miêu tả cái khơng có, khơng
tồn tại trong bức tranh sơng nước tràng giang. Khơng cầu, khơng đị hay chính là
khơng có sự kết nối của con người, hay chính là sự cơ đơn, hoang vắng đến tột
cùng? Trong sự vắng lặng đó khơng gian vẫn tiếp tục được trải ra đến vô cùng của
bờ xanh với bãi vàng. Bức tranh xuất hiện những gam màu vốn không đen tối
nhưng lại chẳng thể làm cảnh sắc thêm tươi sáng, thêm sức sống. Dường như hai
bờ sông là một thế giới tách biệt với những bờ bãi kia, những cánh bèo cũng vì thế
mà chẳng biết trôi dạt về đâu. Trước một cảnh sắc như thế lịng người sao có thể
vui tươi, háo hức. Hay cũng vì lịng người nhiều tâm tư trĩu nặng mà cái nhìn với
cảnh cũng thấm đẫm ưu tư? Từ sự dẫn đường đó, khổ thơ thứ tư bộc lộ rõ hơn tâm
tình tác giả:
Lớp lớp mây cao đùn núi bác
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lịn q dờn dợn vời con nước
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà
Hai câu đầu của khổ thơ mang đậm ý vị của Đường thi, nhuốm màu sắc cổ điển.
Đó là cảnh buổi chiều, cảnh hồng hơn với cánh chim và chịm mây những thi liệu
vô cùng quen thuộc trong thơ ca. Ở đây cánh chim và chòm mây một lần nữa thực
hiện đúng chức năng của mình gợi ra buổi chiều nơi sơng nước mênh mang. Cảnh
sắc có cái hùng vĩ lên thơ với những lớp mây cao như những ngọn núi lấp lánh ánh
bạc phía chân trời, với cánh chim chiều nghiêng bóng vội vã tìm về tổ ấm. Trong
cái nghiêng của cánh chim dường như chở nặng cả bầu trời, bóng chiều rơi dần
xuống. Câu thơ vừa quen thuộc vừa mới mẻ cho thấy cái tinh tế riêng của thi sĩ.
Cánh chim nhỏ bé nghiêng bóng cũng một lần nữa nhấn mạnh sự tương phản giữa
những thực thể nhỏ bé tồn tại trong bức tranh với không gian rộng lớn mang tầm
vũ trụ. Có lẽ sự tương phản ấy đã làm dấy lên trong lòng mỗi người đọc cảm giác
tịch mịch, u bóng gợi nỗi buồn ẩn sâu nào đó trong mỗi chúng ta.





Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×