Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

nhưng tư liệu, thông tin cơ bản về nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.87 KB, 69 trang )

Mục lục:

1. Máy móc đối với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
2. Xu hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam
3. Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
4. Phương hướng và giải pháp phát triển các loại thị trường ở Việt
Nam
5. Thực trạng phát triển các loại thị trường ở nước ta hiện nay
6. Các khái niệm và chức năng của thị trường
7. Thực trạng cạnh tranh và chống độc quyền ở Việt Nam
8. Những điều kiện tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền trong
kinh doanh
9. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
10. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu
khách quan
11.Thực trạng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiên nay
12. Đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
13. Đặc điểm kinh tế hàng hoá trong thời kì quá độ ở nước
ta
Máy móc đối với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
Trên cơ sở kỹ thuật thủ công, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa không thể được xác lập một cách hoàn chỉnh và phát triển
vững chắc. Do đó trong quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản đã tạo
cho nó một cơ sở kỹ thuật tương ứng là máy móc, đưa chủ nghĩa tư
bản từ giai đoạn công trường thủ công lên giai đoạn công nghiệp
cơ khí. Máy móc xuất hiện vào thế kỷ 17 và ngày càng được hoàn
thiện. ở thời kỳ cách mạng công nghiệp, thông thường các máy
móc đều gồm ba bộ phận cơ bản. Máy móc không ngừng được cải


tiến, phát triển, hình thức hoàn thiện nhất của nó hiện nay là máy
tự động người máy. Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản
lúc đầu máy móc được sử dụng từng chiếc trong từng xí nghiệp.
Về sau nhờ chế tạo ra máy phát lực mạnh nên chỉ một máy động
lực cũng có thể làm cho nhiều máy công tác hoạt động.
Nhiều máy công tác hoạt động do máy lực trung tâm thông qua
một hệ thống chuyển lực thống nhất, gọi là hệ thống máy móc. Hệ
thống máy móc có thể là sự hiệp tức giản đơn của nhiều máy công
tác cùng loại hoặc là sự hiệp tác của nhiều máy công tác khác nhau
nhưng liên kết với nhau.
Sự phát triển của máy móc thành hệ thống máy móc đề ra công
xưởng. Công xưởng là xí nghiệp đại công nghiệp sử dụng cả một
hệ thống máy móc để sản xuất . Máy móc được sử dụng phổ biến
trong xã hội thông qua cuộc cách mạng công nghiệp. Về thực chất,
đó là cuộc cách mạng kỹ thuật thay thế lao động thủ công bằng lao
động sử dụng máy móc, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Kỹ thuật
cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm sự toàn thắng
của chủ nghĩa tư bản với chế độ phong kiến, xác lập sự thống trị
tuyệt đối của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên toàn xã hội.
Phải chăng máy móc tạo ra giá trị thặng dư?. C.Mác đã chỉ ra rằng.
giá trị của hàng hoá trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bao gồm
giá trị của những tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng chuyển sang
sản phẩm mới c và lượng giá trị mới do lao động sống thêm vào
trong đó để bù lại tư bản khả biến đã được dùng để mua sức lao
động (ngang với giá trị sức lao động và m là giá trị thặng dư dôi ra
ngoài giá trị sức lao động). Như vậy, nguồn gốc của giá trị thặng
dư chỉ là lao động sống.
Những người phản bác học thuyết giá trị thặng dư cho rằng điều đó
chỉ đúng trong thời C.Mác còn sống khi lao động thủ công chiếm
ưu thế, còn ngày nay trong thời đại cách mạng khoa học công

nghệ, máy móc là nguồn gốc chủ yếu của giá trị thặng dư
Sở dĩ có nhận thức sai lầm ấy là do chưa phân biệt được vai trò của
máy móc với tư cách là nhân tố của quá trình lao động và vai trò
của máy móc với tư cách là nhân tố của quá trình làm tăng gía trị.
Hàng hoá là một vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người và đi vào quá trình tiêu dùng thông qua mua- bán. Vì vậy,
không phải bất cứ một vật phẩm nào cũng là hàng hoá. Hàng hoá
có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi.
a. Giá trị sử dụng của hàng hoá: là công dụng của vật phẩm có
thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người (như gạo để ăn, vải để
mặc, xe đạp để đi). Giá trị sử dụng của hàng hoá do thuộc tính tự
nhiên của hàng hoá quy định. Vì vậy, nó là một phạm trù vĩnh
viễn. Giá trị sử dụng của hàng hoá có đặc điểm là giá trị sử dụng
không phải cho con người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác,
cho xã hội. Giá trị sử dụng đến tay người khác, người tiêu dùng
phải thông qua mua bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là
vật mang giá trị trao đổi.
b. Giá trị hàng hoá: muốn hiểu giá trị ta phải đi từ giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi biểu hiện là quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi lẫn
nhau giữa các giá trị sử dụng khác nhau. Hai hàng hoá có giá trị sử
dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau theo một tỷ lệ nhất
định vì chúng đều là sản phẩm của lao động, có cơ sở chung là sự
hao phí sức lao động của con người. Lao động xã hội của người
sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá là giá trị của hàng hoá.
Như vậy, giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là
hình thức biểu hiện của giá trị.
Giá trị của hàng hoá biểu hiện mối quan hệ sản xuất giữa những
người sản xuất hàng hoá và là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại
trong kinh tế hàng hoá.
Lượng giá trị của hàng hoá được xác định như thế nào? Nếu giá trị

hàng hoá là lao động xã hội kết tinh trong hàng hoá thì lượng giá
trị của hàng hoá là số lượng lao động xã hội hao phí để sản xuất
hàng hoá (gồm lao động sống và lao động vật hoá thể hiện ở tư liệu
sản xuất)
Vì lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt : lao động cụ thể là
lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp
chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có một mục đích riêng,
phương pháp hoạt động riêng, công cụ lao động riêng, đối tượng
lao động và kết quả lao động riêng.
Thí dụ: lao động của người thợ xây, thợ mộc, thợ may là những lao
động cụ thể. Kết quả của lao động cụ thể là tạo ra một công dụng
nhất định, tức là tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.
Lao động trừu tượng: là lao động xã hội của người sản xuất hàng
hoá không kể đến hình thức cụ thể của nó. Các loại lao động cụ thể
có điểm chung giống nhau là sự tiêu hao cơ bắp, thần kinh sau một
quá trình lao động. Đó chính là lao động trừu tượng, nó tạo ra giá
trị của hàng hoá.
Tất nhiên, không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hoá
mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hoá có tính chất hai
mặt mà thôi.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, tính chất hai mặt của lao
động sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao
động tư nhân và lao động xã hội của những người sản xuất hàng
hoá. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản
đơn. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn còn biểu
hiện ở lao động cụ thể với lao động trừu tượng, ở giá trị sử dụng
với giá trị hàng hoá.
Bất cứ quá trình lao động nào cũng là sự kết hợp ba nhân tố chủ
yếu: lao động có mục đích của con người, đối tượng lao động, tư
liệu lao động (quan trọng hơn cả là công cụ lao động, nhất là công

cụ cơ khí hay máy móc). Sử dụng máy móc càng hiện đại thì sức
sản xuất của lao động càng cao, càng làm ra nhiều giá trị sử dụng
(nhiều của cải) trong một đơn vị thời gian.
Nhưng khi xét quá trình tạo ra và làm tăng giá trị thì những hàng
hoá tham gia vào đây không còn được xét với tư cách là những
nhân tố vật thế nữa, mà chỉ được coi là những lượng lao động đã
vật hoá nhất định. Và dù máy móc (kể cả rôbớt) quan trọng đến
múc nào cũng không thể tự nó chuyển giá trị vào sản phẩm chứ
đừng nói đến việc tạo thêm giá trị.
Chính lao động sống đã “cải tử hoàn sinh” cho các tư liệu sản xuất,
trong đó có mày móc, chuyển giá trị của chúng sang sản phẩm mới
theo mức độ đã tiêu dùng trong quá trình lao động sản xuất. Nhưng
một tư liệu sản xuất không bao giờ chuyển vào sản phẩm một giá
trị nhiều hơn giá trị mà nó đã bị tiêu hao trong quá trình sản xuất.
C.Mác ví máy móc, thiết bị trong quá trình làm tăng giá trị giống
như bình cổ cong trong quá trình hoá học. Không có bình cổ cong
thì không thể diễn ra các phản ứng hoá học, nhưng bản thân bình
cổ cong chỉ là điều kiện cho phản ứng hoá học diễn ra, chứ không
trực tiếp tham gia vào phản ứng ấy. Cũng như vậy, thiết bị, máy
móc chỉ tạo đIều kiện cho việc làm tăng giá trị hàng hoá chứ bản
thân nó không trực tiếp tham gia vào việc tăng giá trị.
ở đây, một vấn đế được đặt ra là, tại sao thông thường những
người sử dụng máy móc thiết bị tiên tiến lại thu được lợi nhuận
siêu ngạch? Đó là do công nghệ tiên tiến làm tăng sức sản xuất của
lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hoá xuống thấp hơn giá trị thị
trường (giá trị xã hội), nhưng trên thị trường, thông qua cạnh tranh
lại bán theo giá trị thị trường, nên thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Xí nghiệp A có trình độ kỹ thuật cao nhất và có khối lượng sản
phẩm lớn nhất trong ngành, có gía trị cá biệt của sản phẩm thấp
hơn giá trị thị trường, nên thu được lợi nhuận siêu ngạch.

Như vậy, việc thu lợi nhuận siêu ngạch diễn ra qua cạnh tranh giữa
những người sản xuất hàng hoá trên thị trường chứ không phải
trong sản xuất. Cơ chế thị trường khắc nghiệt dựa trên nguyên tắc “
mạnh được yếu thua”, “cá lớn nuốt cá bé”. Kẻ thắng nhận được
phần thưởng là lợi nhuận siêu ngạch, kẻ thua bị trừng phạt, không
thu lại đủ số lao động (sống và quá khứ) đã hao phí. Nhưng giá trị
của phần thưởng (+28) vừa đúng bằng khoản “ cúp phạt” nghĩa là
không vượt ra ngoài tổng số gía trị và gía trị thặng dư đã được tạp
ra trong lĩnh vực sản xuất.
Nếu thiếu sức trừu tượng hóa, chỉ quan sát các biểu hiện bên ngoài
không đi sâu vào bản chất của hiện tượng thì dễ lẫn lộn việc phân
phối giá trị thặng dư với việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Từ đó tất
yếu sẽ hiểu lầm rằng, máy móc là nguồn gốc sinh ra giá trị siêu
ngạch, mà không thấy rằng máy móc chỉ là đIều kiện để thu được
lợi nhuận siêu ngạch thông qua cạnh tranh.
Thực chất vấn đề sẽ sáng tỏ hơn khi chỉ những xí nghiệp đi trước
trong việc ứng dụng công nghệ tiên tiến mới thu được lợi nhuận
siêu ngạch. Khi công nghệ đó trở thành phổ biến, các đối thủ cạnh
tranh đã đuổi kịp trình độ tiên tiến thì giá trị thị trường sẽ hạ
xuống, hàng hoá rẻ đi, những người tiêu dùng được hưởng lợi và
không có người sản xuất nào thu được lợi nhuận siêu ngạch nữa.
Nhưng động cơ kiếm lợi nhuận siêu ngạch lại kích thích việc ứng
dụng công nghệ mới và một hiệp mới của cuộc cạnh tranh lại tiếp
diễn. Nhờ đó, kỹ thuật tiến bộ không ngừng. Mặt khác, cạnh tranh
dưới tác động của tiến bộ kỹ thuật tất yếu dẫn đén phân hoá giàu
nghèo. Muốn thu hẹp khoảng cách giàu nghèo nhà nước phải thực
hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, điều tiết thu nhập của dân cư
và hỗ trợ những người nghèo.
Cũng cần lưu ý rằng máy móc là phương tiện giảm nhẹ nỗi cực
nhọc của người lao động, tiết kiệm lao động sống nhưng không

phải bao giờ máy móc cũng là đIều kiện để thu được nhiều lợi
nhuận hơn là sử dụng lao động thủ công. Khi nói về giới hạn sử
dụng máy móc trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã chỉ ra rằng nhà tư
bản “không trả cho lao động đã sử dụng, mà chỉ trả cho giá trị sức
lao động đã sử dụng. Cho nên, việc sử dụng máy móc bị giới hạn
bởi số chênh lệch giữa giá trị của chiếc mày và giá trị của sức lao
động bị máy đó thay thế. Do đó, tiền công thấp sẽ ngăn cản việc sử
dụng máy móc, bởi vì lợi nhuận bắt nguồn không phải từ việc giảm
bớt lao động được trả công. C.Mác đã dẫn ra sự kiện người Mỹ chế
tạo ra máy đập đá, nhưng người Anh không sử dụng máy móc đó
vì sử dụng “kẻ khốn khó” làm công việc ấy sẽ thu được nhiều lợi
nhuận hơn.
Việc nhận thức máy móc chỉ chuyển giá trị sang sản phẩm mới
theo mức độ khấu hao chứ không làm tăng giá trị, không những
giúp hiểu đúng nguồn gốc của giá trị thặng dư mà còn có ý nghĩa
quan trọng trong việc quản lý kinh tế.
Trong tầm vĩ mô phải tìm mọi cách khấu hao máy móc càng nhanh
càng tốt, nhằm tránh hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình do bảo
quản kém hoặc sử dụng không hợp lý. Trên tầm vĩ mô, nhà nước
cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp khấu hao nhanh
như một số nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã làm
Xu hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam
1. Xu hướng
Như chúng ta đó biết, hoạt động đầu tư ngày càng phát triển mạnh
mẽ trong thời gian gần đây và trở thành xu hướng tất yếu của các
nước. Tham gia vào hoạt động đầu tư quốc tế không chỉ là các
nước phát triển có tiềm lực tài chính mạnh mà có cả các nước đang
phát triển với những lợi thế riêng có của mỡnh. Việt Nam đang
tiến sâu, tiến rộng vào quá trỡnh hội nhập kinh tế thế giới, đối với

hoạt động đàu tư quốc tế , hiện nay nước ta vận chủ yếu đứng trên
giác độ là nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, trong những năm gàn
đây, cùng với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp trong nước, cũng
như sự hỗ trợ ngày càng có hiệu quả hơn từ phía Nhà nước, Việt
Nam đó đưa vốn, tài sản ra nước ngoài để đầu tư thực hiện sản
xuất kinh doanh. Là một nước mới tham gia vào hoạt động đầu tư
quốc tế, bước đầu các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thu được
nhiều kết quả cao, tuy nhiên vẫn có một số doanh nghiệp đó làm ăn
có hiệu quả và được đánh giá là thành công trong hoạt động đầu tư
ở nước ngoài.
Vỡ vậy, trong những năm tới, hứa hẹn các doanh nghiệp Việt Nam
sẽ đẩy mạnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm tỡm kiếm lợi
nhuận cao và mở rộng thị phần tiờu thụ sản phẩm. Đó là một xu
thế tất yếu trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện nay, không
chỉ riêng Việt Nam mà cả những nước trên thế giới.
2. Giải pháp
- Thay đổi tư duy về hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Nhà nước cần phải coi hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là
một hoat động kinh tế đối ngoại quan trọng không kém gỡ hoạt
động thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài , vỡ cả lý thuyết và
thực tiễn đều chứng minh rằng 1 nước có dũng đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài càng mạnh thỡ càng cú nhiều khả năng và cơ hội để
mở rộng thị trường và tăng thêm các cơ hội kinh doanh, tạo ra lực
hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Vịêt Nam có những mặt
hàng và làng nghề truyền thống hoàn toàn có thể đáp ứng được
những khoảng trống hoặc những thị trường ngách ở khắp nơi trên
thế giới.Trước bối cảnh Vịêt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền
kinh tế thế giới và khu vực và những tác động tích cực của hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mang lại trong thời gian qua
thiết nghĩ cần nhanh chóng thay đổi từ khống chế và cho phép sang

khuyến khích các doanh nghiệp Vịêt Nam đầu tư ra nước ngoài.
- Cần khẩn trương hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách theo
hướng tăng cường khuyến khích các doanh nghiệp Vịêt Nam đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài .
Chính phủ cần nhanh chóng ban hành nghị định và các thông tư
mới hướng dẫn luật đầu tư mới. Nghị định 22/2000 của chính phủ
đó bộc lộ nhiều hạn chế và không tương thích với sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta hiện nay vỡ thế cỏc vấn đề trong
nghị định mới nên sửa đổi theo hướng:
+ Đơn giản hoá thủ tục đăng ký và cấp giấy phộp cho cỏc dự ỏn
đầu tư ra nước ngoài, tiến tới xoỏ bỏ hỡnh thức cấp giấy phộp
chuyển sang đăng ký đầu tư.
+ Rút ngắn thời gian cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài cho các
doanh nghiệp Vịêt Nam xuống cũn 15 ngày kể từ ngày nhận được
hồ sơ hợp lệ ( hiện tại là 30 ngày ).
+ Xây dựng danh mục dự án đặc biệt khuyến khích và khuyến
khích đầu tư ra nước ngoài với các hỡnh thức ưu đói phự hợp đặc
biệt là chính sách ưu đói về thuế, tớn dụng, ngoại hối.
+ Mở rộng các lĩnh vực đựoc phép đầu tư ra nước ngoài để các
doanh nghiệp rộng quyền lưạ chọn. Cho phép đầu tư vào các lĩnh
vực bảo hiểm, ngân hàng, y tế, giáo dục…nếu doanh nghiệp có
luận chứng kinh tế kỹ thuật tốt và bảo đảm khả năng sinh lời của
dự án .
Chính phủ cần yêu cầu các bộ, ngành có liên quan đến hoạt động
của các doanh nghiệp ở nước ngoài nhằm tạo hành lang phỏp lý
đồng bộ, điều chỉnh hoạt động kinh tế mới này, đồng thời quy định
rừ chế độ và nội dung báo cáo đối với các doanh nghiệp Vịêt Nam
ở nước ngoài để thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu
tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Vịêt Nam.
- Tăng cường các hoạt động hỗ trợ và tư vấn cho các doanh nghiệp

Vịêt Nam thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
+ Về mặt tổ chức, thành lập các bộ phận chuyên trách đảm nhận
việc quản lý hoạt động đầu tư của Vịêt Nam ở nước ngoài. Bộ
phận này có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất những văn bản, quy
định pháp lý liờn quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài, đồng
thời cũng là đầu mối giải quyết những vướng mắc mà các doanh
nghiệp gặp phải khi tiến hành sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
Thành lập hiệp hội đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Vịêt
Nam để bảo vệ quyền lợi và giúp đỡ các doanh nghiệp Vịêt Nam
giải quyết các vướng mắc. Thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư ra nước
ngoài của Vịêt Nam nhằm tài trợ tài chính cho các dự án đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài và bảo đảm lợi ích và bảo vệ các doanh
nghiệp trước những rủi ro về chính trị hoặc các rủi ro khác mà các
công ty bảo hiểm thông thường không thể cung cấp dịch vụ đó
được.
+ Về mặt cơ chế chính sách cần tăng cường các hoạt động xúc tiến
đầu tư trên tầm vĩ mô trước hết là ở các lĩnh vực mà Vịêt Nam có
lợi thế so sánh.Tăng cường cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho các
doanh nghiệp có nguyện vọng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, như
tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa Chính phủ với các doanh
nghiệp có dự án đầu tư trực tiếp ở nước ngoài, với Chính phủ tại
nước sở tại để giải quyết các bất cập trong quá trỡnh đầu tư ra
nước ngoài, hoặc là cung cấp các thông tin cần thiết như quan hệ
cung cầu hàng hoá, triển vọng phát triển của thị trường nước ngoài,
môi trường đầu tư của nước sở tại, thông tin về đối tác đầu tư và
các cơ hội đầu tư mới. Tổ chức các hội chợ triển lóm quảng cỏo,
tham quan thị trường, làm trung gian cho các cuộc tiếp xúc giữa
các doanh nghiệp Vịêt Nam với các đối tác tiềm năng. Phát triển
các dịch vụ tài chớnh, ngõn hàng, bảo hiểm, bảo lónh tớn dụng,
dịch vụ hỗ trợ tư pháp và hướng dẫn các thủ tục đăng ký đầu tư ở

từng thị trường nước ngoài. Chính phủ giao cho các đại sứ quán,
lónh sự quỏn và phũng thương vụ Vịêt Nam ở nước ngoài hỗ trợ,
giúp đỡ các doanh nghiệp Vịêt Nam đang tiến hành đầu tư trưc tiếp
ở nước ngoài. Xem đó là một nhiệm vụ bắt buộc đối với các cơ
quan này.
Tăng cường các hoạt động hỗ trợ và tư vấn cho các doanh nghiệp
thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Thành lập Hiệp hội đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam để bảo vệ quyền lợi và giúp đỡ các doanh nghiệp Việt
Nam giải quyết các vướng mắc. Thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư ra
nước ngoài của Việt nam nhằm tài trợ tài chính cho các dự án đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài đảm bảo lợi ích và bảo vệ các doanh
nghiệp trước những rủi ro về chính trị hoặc các rủi ro khác mà các
công ty bảo hiểm thông thường không thể cung cấp các dịch vụ đó
được.
-Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực
đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo đó,Vịêt Nam cần đàm phán, ký kết các hiệp định đầu tư đa
biên nhằm tăng cường khả năng bảo vệ các doanh nghiệp và tạo cơ
chế pháp lý ổn định để giải quyết các tranh chấp có thể nảy sinh
khi thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Trước hết, Vịêt Nam cần tham
gia đầy đủ các công ước quốc tế liên quan đến đầu tư nước ngoài
như công ước Washington năm 1965, các công ước của WTO…
ngoài ra Vịêt Nam cũn cần quan tõm đến hiệp định đầu tư khu vực
bởi mục đích của hiệp định là thúc đẩy dũng lưu chuyển vốn giữa
các nước tham gia ký kết và tăng cường thu hút vốn quốc tế từ các
nước thứ 3 vào khu vực.
Bên cạnh đó, Vịêt Nam cần tăng cường đàm phán ký kết các hiệp
định đầu tư song phương. Vỡ cỏc hiệp định đầu tư song phương có
tốc độ phát triển nhanh và ngày càng chi phối mạnh mẽ hoạt động

đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các hiệp định đầu tư song phương sẽ
tạo cơ chế bảo vệ cho các doanh nghiệp Vịêt Nam khi đầu tư sang
các nước đó ký kết và nõng cao khả năng tạo lợi nhuận của các
doanh nghiệp khi triển khai dự án ở nước ngoài
Vịêt Nam cần tích cực tham gia đàm phán ký kết các hiệp định
tránh đánh thuế 2 lần và nâng cao hiệu quả triển khai của các hiệp
định đó ký để hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của việc thu thuế trùng,
đồng thời khuyến khích dũng luõn chuyển vốn quốc tế. Hầu hết
các nước hiện nay đều ký kết hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với
các hỡnh thức đa biên hoặc song phương. Với Vịêt Nam, sau hơn
10 năm kiên trỡ và tớch cực đàm phán, đó ký được 43 hiệp định
với hầu hết các đối tác đầu tư lớn và quan trọng trên thế giới, tạo
điều kiện thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1. Khái niệm
- Đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả
đó.
- Đầu tư nước ngoài:
Cho đến nay vấn đề đầu tư nước ngoài không còn là vấn đề mới
mẻ đối với các nước trên thế giới. Tuy nhiên các quốc gia vẫn
không thống nhất được khái niệm về đầu tư nước ngoài. Vì thế có
thể nói đây là vấn đề khá phức tạp, không dễ dàng gì có được sự
thống nhất về mặt quan điểm khi mà mỗi quốc gia về cơ bản đều
theo đuổi những mục đích riêng của mình hoặc do ảnh hưởng của
hoàn cảnh kinh tế-xã hội của chính nó .
Tại Hội thảo của Đại hội Hiệp hội Pháp luật quốc tế Henxky 1966,
người ta đã đưa ra một khái niệm chung nhất về đầu tư trực tiếp
nhằm phân biệt với các khoản kinh tế khác nhận được từ bên

ngoài: “Đầu tư nước ngoài là sự vận động tư bản từ nước người
đầu tư sang nước người sử dụng đầu tư với mục đích thành lập ở
đây một xí nghiệp sản xuất hay dịch vụ nào đó”.
Như vậy thì việc đầu tư vào một nước nhất thiết phải gắn liền với
việc thành lập một xí nghiệp hay một cơ sở sản xuất, dịch vụ tại
nước đó .Điều này đã loại trừ một số hình thức đầu tư khác mà
không thành lập ra xí nghiệp hay cơ sở sản xuất (như cho vay tiền
của ngân hàng, tài trợ cho chương trình hay cho dự án…). Đây là
điểm hạn chế của khái niệm này so với yêu cầu hợp tác kinh tế
trong thời đại hiện nay.
Tại các nước tư bản phát triển, đầu tư nước ngoài là việc giao vật
có giá trị kinh tế sang nước khác nhằm thu đuợc lợi nhuận, bao
gồm cả quyền cầm cố và quyền thu hoa lợi, quyền tham gia các hội
cổ phần, quyền đối với nhãn hiệu thương phẩm và tên xí nghiệp.
Như vậy, quan niệm về đầu tư nước ngoài ở đây rất rộng rãi, chỉ là
quá trình chuyển tiền vốn từ nước này sang nước khác với mục
đích thu lợi nhuận, theo nguyên tắc lợi nhuận thu được phải cao
hơn lợi nhuận thu được trong nước và cao hơn lãi suất gửi ngân
hàng.
Để đưa ra một khái niệm hoàn hảo là một điều khó khăn nhưng ta
hãy tạm hiểu đầu tư nước ngoài một cách đơn giản .
Đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để
tiến hành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi
nhuận và những mục tiêu kinh tế –xã hội nhất định .
Về bản chất, đầu tư nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư
bản , một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá . Đây là hai
hình thức xuất khẩu luôn bổ sung và hỗ trợ cho nhau, trong chiến
lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn
nước ngoài hiện nay, đặc biệt là các công ty đa quốc gia. Đối với
họ, việc buôn bán hàng hoá ở nước khác là một bước đi thăm dò

thị trường, luật lệ, và cơ hội để đưa tới một quyết định đầu tư . Nó
như một chiếc chìa khoá vàng mở cửa cho lợi nhuận chảy vào túi
của các nhà tư bản , khi họ được khai thác một nguồn tài nguyên
thường là cực kì phong phú , và xuất khẩu một khối lượng lớn máy
móc và trang thiết bị cho các nước đó. Còn đối với các nước sở tại,
việc chấp nhận đầu tư nước ngoài cũng là tạo một cơ hội mới cho
mình trong việc phát triển nền kinh tế . Đó là một điều kiện tốt để
các nước này tận dụng tối đa nguồn vốn nước ngoài , tiếp cận với
công nghệ hiện đại , nâng cao trình độ lao động , phát triển được
một số ngành cơ sở . Bên cạnh đó cũng thu được một lợi nhuận
đáng kể từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .
Cùng với hoạt động thương mại quốc tế , hoạt động đầu tư nước
ngoài đang ngày càng phát triển mạnh mẽ , hợp thành những dòng
chính trong trào lưu có tính quy luật trong liên kết , hợp tác kinh tế
quốc tế hiện nay .
Căn cứ vào tính chất sử dụng của tư bản thì đầu tư nước ngoài
thường được chia làm hai hình thức là : đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp .
Đầu tư trực tiếp nước ngoài :là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ
đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản
xuất hoặc dịch vụ cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối
tượng mà họ bỏ vốn đầu tư .
Đầu tư gián tiếp :bao gồm hình thức đầu tư nước ngoài mà trong
đó phần vốn góp của chủ đầu tư nước ngoài không đủ để trực tiếp
tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư , hình thức tín
dụng , hay mua trái phiếu quốc tế …
Các nước đang phát triển lại sử dụng khái niệm đầu tư nước ngoài
chỉ với nội dung là đầu tư trực tiếp, như việc đưa bất động sản,
vốn, thiết bị vào xây dựng, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Điều
này đã loại trừ hình thức đầu tư gián tiếp. Đối với các nước này,

đầu tư trực tiếp đem lại cho họ nguồn vốn, kỹ thuật hiện đại thay
thế cho kỹ thuật lạc hậu hiện có, nâng cao mức sống và tăng thu
nhập quốc dân. Với đầu tư gián tiếp , họ cũng tiếp nhận được
vốn .Nhưng một phần vì không có những kế hoạch sử dụng vốn có
hiệu quả , bên cạnh đó là khả năng quản lí kém và trình độ sản xuất
kinh doanh lạc hậu. Nên khả năng thành công, và thu được lợi
nhuận từ nguồn vốn này không cao. Do đó ,việc tăng cường thu
hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là phù hợp với hoàn
cảnh và điều kiện của các nước đang phát triển. Chính sách này đã
và đang là hình thức phổ biến trong chính sách “mở cửa nền kinh
tế” của nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Trong pháp luật Việt Nam
Theo Điều lệ đầu tư năm 1977, ban hành kèm theo Nghị định
115/CP ngày 18/04/1977 thì khái niệm đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam được hiểu là “việc đưa cở sở mới hoặc đổi mới trang thiết bị
kỹ thuật, mở rộng các cơ sở hiện có:
* Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ.
* Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh
phương pháp cộng nghệ, bí quyết kỹ thuật
* Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ.
* Vốn bằng ngoại tệ để chi trả lương cho nhân viên và công nhân
làm việc tại các cơ sở hoặc tiến hành những dịch vụ theo quy định
ở những điều của Điều lệ này (Điều 2 Điều lệ đầu tư 1977).
Như vậy, theo Điều lệ này thì sự vận động của vốn và tài sản chỉ
được coi là đầu tư nước ngoài ở Việt Nam nếu có đủ hai điều kiện
sau:
+ Đưa vào sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn được quy
định tại điều 2 của Điều lệ.
+ Nhằm mục đích xây dựng cơ sở mới hoặc đổi mới trang bị kỹ
thuật, các cơ sở hiện có.

- Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đưa ra khái niệm đầu tư nước
ngoài là “việc các tổ chức, các cá nhân nước trực tiếp đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính
phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn
nước ngoài theo quy định của luật này”.
- Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 đưa ra khái niệm đầu tư nước
ngoài là “việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt ddộng
đầu tư theo quy định của luật này”.
Như vậy, theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khái niệm đầu
tư nước ngoài được hiểu như sau:
+ Là hình thức đầu tư trực tiếp.
+ Là việc bên ngoài (nước đầu tư) trực tiếp đưa vốn và tài sản khác
vào đầu tư tại Việt Nam.
- Khái niệm về đầu tư nước ngoài theo luật đầu tư nước ngoài năm
1987 sau đó là luật năm 1996 đã phát triển hơn nhiều so với phạm
vi nội dung khái niệm đầu tư nước ngoài được quy định ở điều lệ
đầu tư 1977 khi cho phép các nhà đầu tư nước ngoài “được đầu tư
trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân” (Điều 3 luật đầu tư
nước ngoài 1987, 1996).
=>Tóm lại, từ quy định đầu tư nước ngoài là việc đưa vốn và tài
sản nhất định vào Việt Nam đến quy định về đối tượng được đầu
tư và quy định về hình thức đầu tư, thể hiện chủ trương của Nhà
nước Việt Nam là mở rộng và thu hút vốn đầu tư của nhiều nước
trên thế giới, làm đòn bẩy mạnh mẽ để đưa nước ta phát triển
ngang tầm với sự phát triển chung của toàn thế giơí.
2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (theo luật đầu tư
nước ngoài của Việt Nam)
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp do chủ đầu

tư nước ngoài bỏ 100% vốn tại nước sở tại, và có quyền điều hành
toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp theo quy định, pháp luật của
nước sở tại .
Doanh nghiệp liên doanh : là doanh nghiệp được thành lập do các
chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp nước sở
tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh . Các bên tham gia điều hành
doanh nghiệp , chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỉ lệ góp vốn của
mỗi bên vào vốn điều lệ. Phần góp vốn của bên nước ngoài không
được ít hơn 30% vốn pháp định .
Hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh: đây là một văn bản được
kí kết giữa một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư trong
nước để tiến hành một hay nhiều hoạt động kinh doanh ở nước chủ
nhà trên cở sở quy định về trách nhiệm để thực hiện hợp đồng và
xác định quyền lợi của mỗi bên , nhưng không hình thành một
pháp nhân mới .
Các hình thức khác : ngoài các hình thức kể trên ở các nước và ở
Việt Nam còn có các hình thức khác như : hợp đồng xây dựng –
kinh doanh –chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng –chuyển giao
–kinh doanh ( BTO), hợp đồng xây dựng –chuyển giao (BT) nhằm
khuyến khích thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài .
3. Vị trí và ý nghĩa của đầu tư trực tiếp nước ngoài
a, Vị trí
- Đầu tư nước ngoài có một vị trí vô cùng quan trọng . Nó thúc
đẩynền kinh tế phát triển nhanh và toàn diện hơn .
- Đầu tư nước ngoài làm tăng khả năng về vốn, kinh nghiệm quản
lý cho nước nhận đầu tư.
- Là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để đưa nước
nhận đầu rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu
vực và thế giới
Đối với các nước đang phát triển, đầu tư nước ngoài là một yếu tố

cần thiết và quan trọng để có thể đưa nền kinh tế bắt kịp với thế
giới .
b, Ý nghĩa
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có rất nhiều ý nghĩa quan trọng đối với
nền kinh tế của một nước.
- Tạo thu nhập cho nước nhận đầu tư.
- Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp và
tạo ra công ăn việc làm cho người lao động .
4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển
kinh tế
Đầu tư quốc tế (FDI) là yêu cầu tất yếu của quá trình toàn cầu hóa
đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Với những đặc điểm của mình,
FDI đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đối với cả nước nhập
khẩu đầu tư và nước xuất khẩu đầu tư, thúc đẩy các nước này gia
tăng liên kết, nhằm duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế của nước
mình.
FDI có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của bất cứ một
quốc gia nào trên thế giới. FDI đã đem lại một hơi thở mới cho nền
kinh tế thế giới. Mở cửa cho sự toàn cầu hóa lan rộng khắp thế
giới.
Phương hướng và giải pháp phát triển các loại thị trường ở
Việt Nam
Rõ ràng việc phát triển các loại thị trường ở nước ta là một bước đi
hoàn toàn đúng đắn, nhưng việc phát triển thị trường nào trước, thị
trường nào sau, thời điểm nào cần tăng tốc, thời điểm nào cần hạn
chế sự phát triển phải dựa trên quyết định sáng suốt của Nhà nước.
Để tránh những sai sót, những nhẫm lẫn đáng tiếc, để tránh những
tác động tiêu cực do việc hình thành và phát triển các loại thị
trường đem lại thì Đảng và Nhà nước ta phải có bước đi đúng đắn
và kịp thời, phải hiểu kỹ về các loại thị trường, tìm ưu và khuyết

điểm của nó để từ đó có bước đi đúng đắn và kịp thời, giúp đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước .
1. Thị trường hàng hoá-dịch vụ
Để thị trường hàng hóa – dịch vụ phát triển nhanh và lành mạnh,
việc quan trọng nhất là cần làm và có thể làm được trong thời gian
không quá dài là hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh thị trường
này. Trước hết cần thống nhất khung pháp lý cho mọi loại hình
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Quá trình đổi mới đi
liền với việc ban hành các luật về các loại hình doanh nghiệp (luật
doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam … song song
với việc trên cần khẩn trương ban hành luật mới tạo môi trường
kinh doanh thông thoáng và có tính cạnh tranh cao, xoá bỏ sự phân
biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, tăng cầu trong nền kinh tế là hướng
đặc biệt quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội nói chung và thị
trường hàng hóa – dịch vụ nói riêng. Hiện nay, mức thu nhập của
người Việt Nam rất thấp, văn hoá tiết kiệm vẫn còn đang thịnh
hành trong xã hội nên việc tăng cầu nhanh là chuyện không dễ
dàng, cần phải tiến hành từng bước. Nhà nước cần có biện pháp để
kích cầu thông qua việc tăng chi ngân sách.
Chúng ta cần quan tâm đến việc thâm nhập thị trường thế giới,
mạnh dạn mở cửa thị trường trong nước , nâng cao năng lực cạnh
tranh của hàng hóa của các doanh nghiệp. Việc xây dựng thông tin
dự báo thị trường , đào tạo năng lực cho cán bộ thương mai và
ngoại giao ở nước ngoài, tổ chức nghiên cứu thị trường nước ngoài
để có căn cứ sản xuất trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu.
Việc kiểm tra chất lượng sản phẩm cũng là một yêu cầu quan trọng
của Nhà nước trong việc quản lý thị trường nhưng việc thực hiện
quá yếu cần đảm bảo chất lượng sản phẩm hàng hóa để đảm bảo
lợi ích của người tiêu dùng và uy tín của nhà sản xuất, Nhà nước

cần kiểm soát giá cả của một số mặt hàng : điện, viễn thông, xăng
dầu để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, đảm bảo lợi ích quốc
gia, và cả nền kinh tế.
2. Thị trường lao động
Đối với thị trường này Nhà nước cần phải ban hành các hệ thống
luật, chính sách của Nhà nước liên quan đến thị trường lao động
như tiền lương, tiền công, việc làm, thất nghiệp … phải nhất quán
và đồng bộ theo cơ chế thị trường, xoá bỏ bao cấp.
Để có thể phát triển thị trường lao động một cách có hiệu quả ta
cần quan tâm đến :
- Phát triển thị trường lao động tôn trọng quy luật giá trị, cung cầu
và cạnh tranh của thị trường .
- Coi thị trường lao động là một bộ phận quan trọng của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Cần phát triển đồng bộ các chính sách kinh tế – xã hội, phân phối
công bằng, hài hoà lợi ích giữa người lao động và người sử dụng
lao động, hạn chế sự phân biệt đối xử với người lao động , tránh
ngược đãi, họ phải có cơ hội làm việc và điều kiện làm việc an
toàn.
- Nâng cao hiểu biết cho người lao động về quyền và nghĩa vụ của
mình
- Đào tạo người lao động cho đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài
3. Thị trường vốn
Trong thời gian qua, chính sách tài chính, tiền tệ của nước ta đã có
nhiều tiến bộ và đã kiềm chế được lạm phát. Năm 2002, mức lạm
phát là 4%, trong khi mức tăng trưởng là 7,04% thể hiện nền kinh
tế đã phát triển ổn định. Để thị trường vốn phát triển đồng bộ với
các thị trường khác, trong thời gian tới cần phải thực hiện được
một số biện pháp sau :
- Lãi suất thả nổi, tỉ giá nới lỏng, biên độ dao động là những tiến

bộ trong quá trình phát triển thị trường vốn. Tuy nhiên để có một
môi trường vốn thực sự và hoàn chỉnh thì cần phải mở rộng thị
trường vốn gắn với việc đổi mới chính sách, luật có liên quan đến
các thị trường tài chính, tín dụng, tiền tệ. Lãi suất phải để thị
trường quyết định, giảm dần sự độc quyền chi phối của ngân hàng
thương mại quốc doanh. Tỷ giá cũng phải để thị trường quyết định;
tỷ giá tuy đã nới lỏng biên độ nhưng vẫn chưa do thị trường quyết
định.
- Có chính sách thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trên dân cư đưa
vào đầu tư phát triển .
- Mở rộng và gia tăng nguồn vốn tính dụng cho các ngân hàng
thương mại nhà nước, phát triển các ngân hàng cổ phần để tư nhân
tham gia, mở rộng hoạt động với ngân hàng nước ngoài nhằm tăng
sức cạnh tranh.
- Sớm có lộ trình cho thị trường chứng khoán phát triển , thị trường
chứng khoán ra đời nhưng hoạt động còn mờ nhạt, người dân chưa
quen với thị trường chứng khoán, cơ chế, chính sách đối với thị
trường còn lúng túng.
4. Thị trường bất động sản
Thị trường bất động sản đang hoạt động ngầm dưới nhiều hình
thức. Để thị trường này phát triển lành mạnh cần sớm có một
khung pháp lý thích hợp và ổn định cho cả thị trường bất động sản
và thị trường vốn hoạt động.
Cho đến nay luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành còn
nhiều bất cập so với thực tiễn cuộc sống. Các quy định của luật đất
đai tập trung chủ yếu giải quyết những vấn đề thuộc về cơ chế
chính sách liên quan đến việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp,
đất lâm nghiệp, đất đô thị chưa được quy định cụ thể, rõ ràng.
Thực tế việc hình thành các khu đô thị, khu công nghiệp được phát
triển nhanh nhưng luật đất đai đã bộc lộ sự hạn chế kìm hãm, chưa

phát huy được vai trò là một trong các yếu tố đòn bẩy để phục vụ
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Do vậy cần phải kiện toàn
hệ thống luật.
Việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một vấn đề quan trọng
nhưng lại giao cho rất nhiều cơ quan, nên thực tế đã có sự chồng
chéo, vì vậy Nhà nước cần quản lý chặt chẽ việc sử dụng đất, quy
hoạch đất sao cho hợp lý và hiệu quả.
Vấn đề bất cập về luật đất đai ở nước ta đã quá rõ ràng, Quốc Hội
nước ta đã có nhiều nghiên cứu sửa đổi và cần tiếp tục sửa đổi, cần
cho đất đai tham gia vào thị trường bất động sản một cách công
khai thì thị trường bất động sản mới có cơ hội phát triển.
5. Thị trường khoa học-công nghệ
Để đưa khoa học – công nghệ vào thị trường cần có cơ chế, chính
sách phù hợp với các sản phẩm của khoa học – công nghệ trong
nền kinh tế thị trường .
- Pháp luật cần khuyến khích đưa các hoạt động sáng tạo, ứng
dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất- kinh doanh.
- Mở rộng hoạt động nghiên cứu ở các trường đại học, viện nghiên
cứu và các kết quả lao động sáng tạo sẽ được ký kết hợp đồng
chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ.
- Xác lập quyền sở hữu công nghiệp bằng hệ thống pháp luật hữu
hiệu. Quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu của cá nhân,
pháp nhân đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp …
Thị trường khoa học và công nghệ sẽ hình thành, phát triển khi
pháp luật thừa nhận quyền sở hữu công nghiệp và coi sản phẩm
khoa học công nghệ là hàng hóa và được trao đổi trên thị trường.
Thực trạng phát triển các loại thị trường ở nước ta hiện nay
Từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp chuyển sang cơ chế thị
trường, nền kinh tế nước ta đang từng bước hình thành các loại thị

trường mới. Cùng với các thị trường thông thường như thị trường
hàng hóa dịch vụ, các thị trường tài chính, thị trường lao động, thị
trường bất động sản, thị trường khoa học va công nghệ đang được
hình thành. Nhìn chung các loại thị trường này ở nước ta còn sơ
khai, chưa hình thành đồng bộ xét về trình độ, phạm vi và sự phối
hợp các yếu tố thị trường trong tổng thể toàn bộ hệ thống. Các loại
thị trường như thị trường hàng hoá-dịch vụ thông thường đáp ứng
nhu cầu thường xuyên của người tiêu dùng như ăn uống, khách
sạn, du lịch, háng hoá tiêu dùng … đã phát triển nhanh. Trong khi
đó một số loại thị trường còn đang rất sơ khai, thông tin không đầy
đủ. Có những thị trường bị biến dạng, không theo quy luật của thị
trường , sự kiểm soát của Nhà nước kém hiệu quả như thị trường
bất động sản đang hoạt động “ngầm”. Một số thị trường đang bị
chi phối bởi cơ chế thị trường và tính bao cấp của cơ chế cũ như
thị trường sức lao động. Tiền lương, tiền công của công chức một
phần được trả từ ngân sách theo cơ chế bao cấp, một phần được bù
đắp bằng chế độ trả thêm, ngoài giờ hoặc các khoản khác từ các
nguồn khác nhau. Thu nhập của công chức hầu hết cao hơn tiền
lương vì chế độ tiền lương đã quá lạc hậu.
Nguyên nhân thị trường nước ta phát triển còn thấp, chưa đồng bộ
là :
- Bản thân nền kinh tế phát triển từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
lực lượng sản xuất yếu, kết cấu hạ tầng bất cập, cơ cấu kinh tế
chưa hình thành một nền kinh tế hàng hóa hiện đại của một nền
kinh tế công nghiệp.
- Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa , nhiều vấn đề còn bất cập song trùng.
- Hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế thị trường mới hình thành
chưa theo kịp cuộc sống thực tế và luật pháp quốc tế.

Những thị trường cơ bản và hệ thống chính sách, pháp luật của
Nhà nước trong việc phát triển đồng bộ thị trường ở nước ta là :
1. Thị trường hàng hóa – dịch vụ
Thị trường hàng hóa – dịch vụ đã được hình thành sơ khai ngay
trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, nhất là thị trường nông sản,
mặc dù trong thời kỳ này chúng ta không có khái niệm về thị
trường theo đúng nghĩa của nó và không khuyến khích phát triển
thị trường . Thị trường này hình thành là do nhu cầu cuộc sống xã
hội, nhu cầu của nền kinh tế . Sự phát triển của thị trường hàng hóa
– dịch vụ có bước đột phá tương đối mạnh kể từ khi Việt Nam áp
dụng chế độ khoán trong nông nghiệp và kế hoạch 3 phần trong xí
nghiệp quốc doanh (đầu những năm 80 của thế kỷ XX). Thị trường
này có sự thay đổi cơ bản kể từ khi chúng ta xoá bỏ chế độ tem
phiếu, thực hiện cơ chế giá thị trường đối với hầu hết hàng hóa và
dịch vụ, từng bước tiền tệ hóa tiền lương, từng bước xoá bỏ bao
cấp, xoá bỏ việc “ngăn sàng, cấm chợ”, trao quyền tự chủ kinh
doanh cho doanh nghiệp … (những năm giữa và cuối thập niên 80
của thế kỷ XX). Thị trường này đặc biệt phát triển mạnh từ khi
Việt Nam tuyên bố áp dụng cơ chế thị trường, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế (từ những năm 90 thế kỷ XX).
Hiện nay, hàng hóa là sản phẩm sản xuất ra để bán theo quan hệ
cung – cầu. Quá trình sản xuất và tiêu dùng ngày càng phát triển
,sản phẩm hàng hóa ngày càng đa dạng, phong phú. Người tiêu
dùng ngoài nhu cầu về sản phẩm vật chất còn có nhu cầu về sản
phẩm không vật chất, đó là các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu
của con người như dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thông
tin liên lạc , văn hoá , du lịch … phát triển mang tính toàn cầu.
Từ khi tiến hành đổi mới nền kinh tế , thị trường hàng hóa – dịch
vụ ở nước ta phát triển nhanh chóng, tạo ra môi trường cạnh tranh

×