Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận cao học lsd công cuộc đổi mới toàn diện đã được tiến hành sau đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ vi của đảng (1986)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.65 KB, 26 trang )

TIỂU LUẬN

Giảng viên hướng dẫn: TH.S NGUYỄN THÀNH LONG
Sinh viên thực hiện :
Mã sinh viên

: 2056080010

Lớp

: TH CLC K40

HÀ NỘI - 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
NỘI DUNG.......................................................................................................5
CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DIỄN RA ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU
TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI CỦA ĐẢNG...................................................5
1.1. Hoàn cảnh lịch sử quốc tế diễn ra nhiều thay đổi to lớn, sâu sắc........5
1.2. Hoàn cảnh lịch sử trong nước tạo ra những thuận lợi cơ bản nhưng
cũng đặt ra hàng loạt vấn đề khó khăn cần phải giải quyết........................8
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CỦA ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TỒN QUỐC LẦN
THỨ VI...........................................................................................................10
2.1. Đại hội đánh giá tình hình đất nước, bài học kinh nghiệm và mục tiêu
phát triển........................................................................................................10
2.2. Nội dung của đường lối đổi mới trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần
VI....................................................................................................................14
2.3. Ý nghĩa của Đại hội VI...........................................................................24
KẾT LUẬN....................................................................................................25


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................26


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới toàn diện đã được tiến hành sau Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) do Đảng khởi xướng, lãnh đạo.
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, nhân dân ta đã được nhiều thành tựu to
lớn trên nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa lịch sử trên mọi phương diện. Vì
vậy, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI có ý nghĩa lịch sử trọng đại,
đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Những bài học kinh nghiệm của Đại hội đại biểu VI vẫn còn
giá trị cho đến ngày nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Làm rõ các vấn đề về hồn cảnh lịch sử, nội dung
đường lối đổi mới qua nhiệm vụ và phương hướng, ý nghĩa của Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
Nhiệm vụ: Để đạt được những mục đích trên sẽ hướng tới giải
quyết các nhiệm vụ sau:
- Phân tích hồn cảnh lịch sử trong và ngồi nước những năm
trước khi diễn ra Đại hội VI.
- Những nội dung về tình hình phát triển đất nước, nhiệm vụ cần
phải giải quyết và phương hướng giải quyết nhằm thực hiện chủ
trương đổi mới của Đảng.
- Rút ra những ý nghĩa của Đại hội VI cho quá trình phát triển của
đất nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Tiểu luận đi sâu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
1



Phạm vi nghiên cứu: Về giới hạn thời gian, tiểu luận nghiên cứu
vấn đề từ sau khi đất nước thống nhất (1975) đến tháng 12/1986 khi
Đại hội VI diễn ra. Về giới hạn nội dung, tác giả tập trung chủ yếu
những nội dung của Đại hội VI.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về Đại hội đại biểu toàn quốc VI.
Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích
Tổng hợp, Lịch sử - Lơgic,...
5. Kết cấu tiểu luận:
Tiểu luận được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DIỄN RA ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU
TỒN QUỐC LẦN THỨ VI CỦA ĐẢNG
1.1. Hồn cảnh lịch sử quốc tế diễn ra nhiều thay đổi to lớn, sâu sắc.
1.1.1. Cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật, xu thế tồn cầu hóa ngày
càng phát triển mạnh.
Cuối thế kỉ XX - đầu thế kỉ XXI, nhất là từ những năm 70 trở đi, cuộc
cách mạng khoa học-kỹ thuật hiện đại được tiến hành. Đặc trưng của cuộc
cách mạng này là sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng công nghệ cao. Đây
là các công nghệ dựa vào những thành tựu khoa học mới, với hàm lượng tri
thức cao. Các công nghệ này đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến sự phát
triển kinh tế – xã hội. Trong đó, bốn cơng nghệ trụ cột tạo ra nhiều thành tựu

nhất, bao gồm: công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ năng
lượng, công nghệ thông tin.
Cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật phát triển đã tác động nhiều đến kinh
tế-xã hội:
- Khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, có thể
trực tiếp làm ra sản phẩm (sản xuất phần mềm, các ngành công nghiệp
điện tử,…).
- Xuất hiện các ngành cơng nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao (sản xuất
vật liệu mới, công nghệ gen,…), các dịch vụ nhiều kiến thức (bảo hiểm,
viễn thông,…).
- Thay đổi cơ cấu lao động: Tỉ lệ những người làm việc bằng trí óc để
trực tiếp tạo ra sản phẩm (như các lập trình viên, những nhà thiết kế
cơng nghệ, sản phẩm trên máy tính….) ngày càng cao.

3


- Phát triển nhanh chóng mậu dịch quốc tế, đầu tư của nước ngoài trên
phạm vi toàn cầu.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã tạo ra rất nhiều thành tựu
mang tính “nhảy vọt”:
- Tạo ra nguồn năng lượng mới: năng lượng mặt trời, năng lượng gió,
năng lượng nguyên tử...
- Tạo ra vật liệu mới: chất Polime , các vật liệu siêu sạch , siêu cứng ,
siêu bền , siêu dẫn
- Công nghệ sinh học đột phá bằng công nghệ di truyền, công nghệ tế
bào, công nghệ vi sinh, công nghệ enzim...
- Thông tin liên lạc và giao thông vận tải: sợi thủy tinh , cáp quang ,
máy bay siêu âm khổng lồ đặc biệt sự phát triển mạnh mẽ của công
nghệ thông tin.

- Chinh phục vũ trụ: vệ tinh nhân tạo, du hành vũ trụ.
Những tác động nổi bật của khoa học công nghệ, của sự bùng nổ thơng
tin và sự hình thành xã hội thơng tin của nền văn minh tin học và kinh tế tri
thức đã hối thúc mạnh mẽ đối với công cuộc đổi mới ở nước ta.
Đầu những năm 80, xu thế toàn cầu hóa là một hệ quả quan trọng của
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại. Đặc trưng của xu thế này đó là
sự gia tăng mối mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn
nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc
trên thế giới.
Những biểu hiện chủ yếu của xu thế tồn cầu hố ngày nay là:
- Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế.
- Sự phát triển và tác động to lớn của các công ty xuyên quốc gia.
- Sự sáp nhập và hợp nhất các công ty thành những tập đồn lớn ,
nhất là các cơng ty khoa học kĩ thuật, nhằm tăng cường khả năng
cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
4


- Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính
quốc tế và khu vực.
Tồn cầu hóa đã thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát triển và xã hội của lực
lượng sản xuất, góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế, đòi hỏi phải tiến hành
cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
1.1.2. Đổi mới là xu thế của thời đại, đặc biệt là các nước xã hội chủ
nghĩa.
Tình hình kinh tế, xã hội và quan hệ trong hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa đã xuất hiện nhiều dấu hiệu bất thường. Đặc biệt, nền kinh tế Liên Xơ
và các nước Đơng Âu có chiều hướng trì trệ, sản xuất phát triển chậm, xã hội
khơng ổn định, rơi vào tình trạng khủng hoảng. Đời sống chính trị gặp nhiều
khó khăn phức tạp khi các thế lực thù địch, nhóm đối lập liên tục chống lại

Đảng Cộng sản.
Đối mặt với khủng hoảng, trì trệ, các nước xã hội chủ nghĩa đều lần lượt
diễn ra quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới… dù tên gọi khác nhau nhưng thực
chất đều là “sửa chữa mơ hình”
Tháng 12 - 1978, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra đường
lối mới, do Đặng Tiểu Bình khởi xướng, mở đầu cho công cuộc cải cách kinh
tế - xã hội của đất nước. Đường lối này được nâng lên thành đường lối chung
của Đại hội XII (9 – 1982), đặc biệt là Đại hội XIII (10 – 1987) của Đảng: lấy
phát triển kinh tế làm trung tâm, tiến hành cải cách và mở cửa, chuyển nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
linh hoạt hơn, nhằm hiện đại hoá và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc, với mục tiêu biến Trung Quốc thành quốc gia giàu mạnh, dân chủ và
văn minh.
Tháng 3 – 1985, M. Goócbachốp lên nắm quyền lãnh đạo Đảng và Nhà
nước Liên Xô, tiến hành công cuộc cải tổ đất nước. Đường lối cải tổ tập trung

5


vào việc “cải cách kinh tế triệt để”, tiếp theo là cải cách hệ thống chính trị và
đổi mới tư tưởng.
1.2. Hoàn cảnh lịch sử trong nước tạo ra những thuận lợi cơ bản nhưng
cũng đặt ra hàng loạt vấn đề khó khăn cần phải giải quyết.
1.2.1. Sau năm 1975, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đạt được
những thành tựu nhất định.
Qua mười năm cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, vượt
qua những thử thách, Đảng và nhân dân ta đã giành được những thành tựu
đáng ghi nhận trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc: tiếp quản và ổn
định vùng giải phóng, hàn gắn vết thương chiến tranh cả trong lịng đất và
trong lịng người, khơi phục kinh tế, xây dựng lại cấu trúc toàn bộ nền kinh tế

trên cả hai miền, chuyển từ một nền kinh tế chủ yếu được xây dựng, hoạt
động phục vụ chiến tranh sang nền kinh tế trong hịa bình. Những mất cân đối
trong nền kinh tế: thu - chi, xuất khẩu - nhập khẩu,sản xuất - tiêu dùng ...
được thu hẹp.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội được xây dựng, bắt đầu
phát huy tác dụng tích cực đối với nền kinh tế: nhà máy thủy điện Hịa Bình,
Trị An, nhà máy xi măng Hoàng Thạch, nhà máy nhiệt điện Phả Lại, cầu
Thăng Long ... An ninh chính trị được bảo đảm , độc lập và chủ quyền quốc
gia được giữ vững. Đặt trong hoàn cảnh một đất nước từ nghèo nàn, lạc hậu đi
lên, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, lại phải chịu đựng hai cuộc chiến tranh
biên giới , đó là những cố gắng rất lớn của tồn Đảng, tồn dân ta.
1.2.2. Bên cạnh những thành tựu, tình hình kinh tế - xã hội nước ta
vẫn đang gặp nhiều khó khăn và lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm
trọng.
Do xuất phát thấp về kinh tế, hậu quả chiến tranh nặng nề và thiên tai
liên tiếp xảy ra, Việt Nam xây dựng và phát triển đất nước sau khi giải phóng
gặp nhiều thử thách gian khó.

6


Sau hai cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc, đất nước
vẫn thường xun phải đối phó với xâm lược, phá hoại, bao vây, cấm vận về
kinh tế của Mỹ và các thế lực thù địch. Trước khó khăn đó, nhiều địa phương
đã tìm cách đổi mới kinh tế. Đảng ta kịp thời có ba chủ trương đột phá phát
triển kinh tế. Đột phá đầu tiên từ Hội nghị Trung ương 6 khố IV (8-1979)
chủ trương xóa “cấm chợ , ngăn sông” để sản xuất “bung ra”, Chỉ thị 100 về
khốn sản phẩm trong nơng nghiệp, Chỉ thị 25, 26/CP về mở rộng quyền tự
chủ sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp cơng nghiệp (1-1981). Bước đột
phá thứ 2 từ Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) chủ trương dứt khốt

xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, xoá bỏ chế độ tem
phiếu. Bước đột phá thứ 3 từ Kết luận của Bộ Chính trị Khóa V ( 1- 1986 ) về
3 quan điểm phát triển kinh tế là phát triển mạnh nông nghiệp , nhiều thành
phần kinh tế và kiên quyết xóa cơ chế bao cấp.
Tuy nhiên các đột phá đó mới là đổi mới cục bộ, chưa làm thay đổi căn
bản thực trạng nền kinh tế đất nước. Đến năm 1986, nền kinh tế - xã hội nước
ta khủng hoảng trầm trọng. Lạm phát đến 774,7 % , đời sống nhân dân rất khó
khăn , các tiêu cực xã hội phát triển. Mục tiêu của Đảng đề ra là cơ bản ổn
định tình hình kinh tế - xã hội , ổn định đời sống của nhân dân đã không thực
hiện được.
Thực trạng trên đã làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, , Đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội trở thành yêu cầu đất nước, đòi hỏi bức thiết của nhân dân .

7


CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CỦA ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN
THỨ VI
2.1. Đại hội đánh giá tình hình đất nước, bài học kinh nghiệm và
mục tiêu phát triển.
2.1.1. Đại hội đánh giá tình hình đất nước.
Đại hội đánh giá cao q trình dân chủ hố sinh hoạt chính trị của Đảng
và nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội VI. Thái độ của
Đảng trong đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, phân tích những nguyên nhân khách quan, chủ quan, những sai lầm,
khuyết điểm của Đảng và Nhà nước và quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo
của Đảng, đổi mới toàn diện đất nước.
Đại hội nhận định, năm năm qua là đoạn đường đầy thử thách đối với
Đảng và nhân dân ta. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước có thuận lợi cơ

bản nhưng nhiều khó khăn phức tạp, nhân dân ta anh dũng phấn đấu, vượt qua
khó khăn, đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, giữ vững và bảo vệ tổ quốc.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội có những khó khăn gay gắt:
- Sản xuất tăng chậm so với khả năng sẵn có và công sức bỏ ra, so với
yêu cầu cần nhanh chóng ổn định đời sống của nhân dân. Một số chỉ
tiêu quan trọng của kế hoạch năm năm vừa qua như sản xuất lương
thực, than, xi - măng, gỗ, vải , hàng xuất khẩu...khơng đạt đã ảnh
hưởng đến tồn bộ hoạt động kinh tế và đời sống của nhân dân lao
động.
- Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp. Các xí nghiệp nói chung chỉ sử dụng
được khoảng một nửa công suất thiết kế, năng suất lao động giảm, chất
lượng sản phẩm sút kém.

8


- Tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt, lại bị sử dụng lãng
phí, nhất là đất nơng nghiệp và tài nguyên rừng, môi trường sinh thái bị
phá hoại.
- Lưu thông không thông suốt, phân phối rối ren, vật giá tăng nhanh dang
tác động tiêu cực đến sản xuất, đời sống và xã hội . - Những mất cân đối lớn trong nền kinh tế giữa cung và cầu về lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, năng lượng, nguyên liệu, vận tải...,
giữa thu và chi, xuất khẩu và nhập khẩu chậm được thu hẹp, có mặt cịn
gay gắt hơn trước.
- Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố. Vai trò chủ đạo
của kinh tế quốc doanh suy yếu. Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa chưa được sử dụng và cải tạo tốt.
- Đời sống của nhân dân, nhất là công nhân , viên chức cịn nhiều khó
khăn. Nhiều người lao động chưa có và chưa đủ việc làm . Nhiều nhu

cầu chính đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hố
chưa được bảo đảm. Nơng thơn thiếu hàng tiêu dùng thông thường và
thuốc men, nhà ở, điều kiện vệ sinh, sinh hoạt văn hoá ở nhiều nơi còn
thiếu thốn, nghèo nàn
- Hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển. Công bằng xã hội bị vi
phạm. Pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Những hành vi lộng quyền,
tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước, những hoạt động
của bọn làm ăn phi pháp...chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời.
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan, Đại hội đã nghiêm khắc chỉ
ra nguyên nhân chủ quan của tình hình.
Đảng chưa cụ thể hoá đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên;
chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí
cơ cấu kinh tế cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Đảng lại phạm sai
lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thơng; đã bng lỏng
chun chính vơ sản trong quản lý kinh tế, xã hội, trong đấu tranh tư tưởng,
9


văn hoá, trong chống lại âm mưu, thủ đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù.
Chúng ta chưa nhận thức đầy đủ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một
quá trình lịch sử tương đối dài, trải qua nhiều chặng đường. Tư tưởng chỉ đạo
còn chủ quan, duy ý chí, giản đơn hố, muốn thực hiện nhanh nhiều mục tiêu,
đẩy mạnh cơng nghiệp hố trong khi nước ta mới chặng đường đầu tiên, chưa
có đủ các tiền đề cần thiết. Nông nghiệp chưa thật sự coi là mặt trận hàng đầu.
Chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế khi nó đã khơng cịn phù hợp. Hiện
tượng bng lỏng trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, nóng vội, vô tổ chức, vô kỷ
luật phổ biến.
Đại hội đã nghiêm túc nhìn thẳng vào “sai lầm nghiêm trọng và kéo dài
về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện”. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là

những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ
và hành động giản đơn, nóng vội.
2.1.2. Đại hội VI nêu lên những bài học kinh nghiệm quan trọng.
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng
“lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động.
Nhân dân chính là gốc rễ của cách mạng, là người đã làm nên lịch sử. Vì
vậy, điều kiện tiên quyết trong khi Đảng cầm quyền luôn phải là đảm bảo,
chăm lo cho đời sống của nhân dân ấm no, hạnh phúc. Mọi chủ trương, chính
sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân
dân, không được rời xa nhân dân.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan.
Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Để khắc phục được khuyết điểm,
chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi
10


mới tư duy. Phải có một nhận thức đúng đắn, phù hợp với thực tiễn mới có
thể đưa ra quyết định sáng suốt.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới.
Sự giúp đỡ to lớn và hợp tác toàn diện của Liên Xô, của các nước xã hội
chủ nghĩa anh em, có sự liên minh và hợp tác tồn diện của hai nước láng
giềng anh em Lào và Campuchia là điều kiện vô cùng quan trọng để nhân dân
ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Nhân dân ta cịn có sự ủng hộ, giúp đỡ của nhiều nước bạn khác,
của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên toàn thế giới. Tận dụng sự phát
triển của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật ngày nay và xu thế mở rộng

phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội
khác nhau để tạo điều kiện cho sự phát triển đất nước.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng
cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cần phải tăng cường sức chiến đấu, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng
lực tổ chức thực tiễn của Đảng. Đặc biệt, không ngừng trau dồi năng lực và
phẩm chất cho mỗi Đảng viên, nghiêm túc thực hiện phê bình và tự phê bình,
và cần phải có sự đồn kết, nhất trong trong công tác Đảng.
2.1.2. Đại hội đề ra mục tiêu phát triển
Về nhiệm vụ chiến lược cách mạng: toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
đoàn kết một lòng, quyết tâm “tiếp tục thực hiện thắng lợi hại nhiệm vụ chiến
lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung
của nhân dân thế giới vì hịa bình , độc lập dân tộc , dân chủ và chủ nghĩa xã
hội”.
Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là: “Ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây
dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp hố xã hội chủ
11


nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Ổn định tình hình kinh tế - xã hội bao gồm
cả ổn định sản xuất, ổn định phân phối, lưu thông, ổn định đời sống vật chất
và văn hoá, tăng cường hiệu lực của tổ chức quản lý, lập lại trật tự, kỷ cương
và thực hiện công bằng xã hội. Ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong
quá trình vận động tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định
được”.
Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội: "Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu
tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi
mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho

việc đẩy mạnh cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp
theo”.
Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội của chặng đường đầu tiên là:
- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ.
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng
ba chương trình kinh tế lớn là sản xuất lương thực , thực phẩm , hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới, phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
- Tạo chuyển biến tốt về mặt xã hội: giải quyết việc làm cho người lao
động, thực hiện công bằng xã hội, loại trừ hiện tượng tiêu cực,...
- Đại hội vẫn khẳng định phải đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng
quốc phòng và an ninh của đất nước.
2.2. Nội dung của đường lối đổi mới trong Đại hội đại biểu toàn
quốc lần VI.
2.2.1. Phương hướng về đổi mới kinh tế.
Đại hội VI chủ trương Đảng trước hết phải đổi mới tư duy kinh tế, coi
nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm. “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và
các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác
mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc
12


tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.
Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, “sắp xếp lại nền
kinh tế theo cơ cấu hợp lý”.
Xây dựng và tổ chức tập trung sức người , sức của vào việc thực hiện
cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu. Cụ thể:

- Về lương thực, thực phẩm: bảo đảm lương thực đủ ăn cho tồn xã hội
và có dự trữ. Đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực
phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm phải đảm bảo tái sản xuất
sức lao động.
- Về hàng tiêu dùng: sản xuất đáp ứng được nhu cầu bình thường của
nhân dân thành thị và nông thôn về những sản phẩm công nghiệp thiết
yếu.
- Về hàng xuất khẩu: tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; đạt
kim ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư,
máy móc, phụ tùng và những hàng hoá cần thiết.
Để đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực phẩm, nông nghiệp phải được ưu
tiên phát triển, cần đầu tư quá trình vận chuyển, chế biến sản phẩm và áp
dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ cho nông nghiệp. Công nghiệp nhẹ và tiểu thủ
công nghiệp cần đáp ứng nhu cầu của người dân về các sản phẩm thông
thường. Phát triển công nghiệp nhẹ trước hết phải tổ chức lại sản xuất, đầu tư
đồng bộ. Các cơ sở sản xuất tiêu dùng phải gắn chặt với thị trường. Về việc
phát triển phát triển công nghiệp nặng và xây dựng kết cấu hạ tầng phải phục
vụ các mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong chặng đường đầu tiên, và khả năng
thực tế trong chặng đường tiếp theo. Ưu tiên phát triển công nghiệp năng
lượng. Về kết cấu hạ tầng chú trọng phát triển giao thông vận tải và thông tin
liên lạc. Phát triển rộng rãi các loại hình dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân.

13


Kinh tế trên địa bàn huyện là một nhân tố quan trọng để thực hiện ba
chương trình kinh tế lớn. Xây dựng huyện không phải là tạo ra một bộ máy
quản lý hành chính - kinh tế nặng nề mà để phát triển, củng cố, sắp xếp, liên
kết các đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau
nhằm khai thác tốt nhất lao động, ngành nghề và tài nguyên trên địa bàn

huyện.
Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải
tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.
Muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đi đôi với việc bố trí lại cơ
cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo ngành và theo vùng, phải xác định đúng cơ
cấu thành phần kinh tế. Mặc dù là nước có nguồn lao động dồi dào nhưng khả
năng thu hút sức lao động của khu vực nhà nước trong những năm trước mắt
cịn có hạn. Mỗi người đều có một thế mạnh riêng, vì thế cần phải phân bố
hợp lý lao động ở trong mọi thành phần kinh tế.
Vì vậy, xuất phát từ sự đánh giá những tiềm năng tuy phân tán nhưng
rất quan trọng trong nhân dân, cả về sức lao động, kỹ thuật, tiền vốn, khả
năng tạo việc làm, chúng ta chủ trương: đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc
doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập trung của nhà nước và
tranh thủ vốn ngồi nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế khác. Điều này đã được nêu rõ trong văn kiện của Đại hội
VI:
Chính sách đó cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế với quy mơ và
trình độ kỹ thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu
thông nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế liên kết với
nhau, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trị chủ đạo. Đó là một giải pháp có
ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi khả năng để phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.

14


Giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan
điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng
của thời kỳ quá độ. Ở nước ta, các thành phần đó là:
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập

thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
- Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ
thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch
vụ cá thể), kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều
hình thức, mà hình thức cao là cơng tư hợp doanh, kinh tế tự nhiên, tự
cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
và vùng núi cao khác.
Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách thường xuyên với
những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất... Cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất mới bao
gồm cả ba mặt: xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phát triển và sử
dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế, đổi mới chế độ quản lý và
phân phối.
Trong những năm trước mắt, để tiến hành vững chắc cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần, điều quan trọng nhất trước hết là làm cho kinh tế quốc
doanh thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp.
Cơ chế quan liêu bao cấp hiện nay đã khơng cịn đạt được hiệu quả cao,
làm suy yếu nền kinh tế, kìm hãm sản xuất, năng suất lao động, gây rối loạn
trong lưu thơng. Thay vào đó, ta phải hình thành cơ chế kế hoạch hoá theo
phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, thiết lập trật tự, kỷ cương.
Quá trình đổi mới quản lý kinh tế đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết để
chuyển tồn bộ hệ thống các chính sách, chế độ, thể lệ quản lý và tổ chức bộ
15


máy quản lý sang cơ chế mới. Cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng này phải
được tiến hành đồng bộ, kết hợp giữa bên trên và bên dưới, giữa sự đổi mới

của các cơ quan quản lý với phong trào quần chúng. Việc sửa đổi và ban hành
các chính sách, chế độ quản lý phải xuất phát từ thực tế, tập hợp sáng kiến và
kinh nghiệm của các địa phương và cơ sở.
Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học, kỹ thuật.phải làm cho khoa học,
kỹ thuật thật sự trở thành một động lực to lớn đẩy nhanh quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Phải lựa chọn và áp dụng rộng rãi thành tựu
khoa học-kỹ thuật thích hợp, trước hết phục vụ ba chương trình kinh tế lớn.
Triển khai một số đề tài theo hướng khoa học, kỹ thuật hiện đại như công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, điện tử và tin học…Các cơ quan khoa
học cần được bố trí theo nguyên tắc gắn chặt khoa học kỹ thuật với đời sống
và sản xuất, sử dụng khoa học kỹ thuật hiện đại như một bộ phận trong lực
lượng sản xuất. Tăng mức đầu tư cho khoa học, kỹ thuật từ nhiều nguồn khác
nhau, mở rộng và nâng cao hợp tác quốc tế để phát triển khoa học-kỹ thuật
hiện đại.
Ta cần phải mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Trước hết,
muốn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, cần phải tham gia
phân công lao động quốc tế, hợp tác tồn diện với Liên Xơ, Lào, Campuchia.
Quan trọng nhất là đẩy mạnh xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.
Cơng bố chính sách khuyến khích đầu tư từ nước ngoài vào nước ta,
đặc biệt là các ngành địi hỏi trình độ kỹ thuật cao. Coi trọng việc tổ chức,
động viên Việt kiều đóng góp, đầu tư cho đất nước.
2.2.2. Phương hướng, nhiệm vụ về chính sách xã hội.
Trước hết, thực hiện chính sách kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc
làm cho người lao động. Thực hiện vận động kế hoạch hóa dân số bởi đây là
một biện pháp giảm áp lực lên xã hội, tăng thu nhập bình quân đầu người, tạo
đà cho sự phát triển của kinh tế. Nhà nước cần coi trọng các biện pháp giáo

16



dục, văn hóa nhằm thay đổi tâm lý, tập quán của nhân dân, chỉ đạo thực hiện
đúng Luật Hôn nhân và gia đình sau khi được Quốc hội thơng qua.
- Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, kể cả thành phần kinh tế tư
bản tư nhân để tăng thêm cơ hội việc làm. Thực hiện tốt việc phân bố
hợp lý nguồn lao động, mở rộng hợp tác lao động với các nước khác.
- Mở rộng việc đào tạo dạy nghề cho các lao động từ đó nâng cao chất
lượng lao động, bên cạnh đó cũng cần quản lý chặt chẽ tư tưởng của
người lao động.
- Đẩy mạnh công tác định canh, định cư ở khu vực miền núi gắn liền với
quy hoạch xây dựng nền kinh tế trên địa bàn.
Thực hiện cơng bằng xã hội, lối sống có văn hố; bảo đảm an tồn xã
hội, khơi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo
đảm cho người lao động có thu nhập thoả đáng phụ thuộc trực tiếp vào kết
quả lao động, có tác dụng khuyến khích nhiệt tình lao động. Tơn trọng lợi ích
chính đáng của những hoạt động kinh doanh hợp pháp, có ích cho xã hội.
Việc phê bình cơng khai trên báo là quyền chính đáng của mọi cơng dân, cần
được thực hiện có nề nếp. Bảo đảm sự cơng bằng về quyền lợi và nghĩa vụ
đối với mọi công dân, chống đặc quyền, đặc lợi. Xây dựng lối sống tuân thủ
pháp luật, hình thành trật tự kỷ cương trên tin thần tự giác của mỗi cá nhân,
tập thể.
Trên cơ sở phát triển sản xuất, tăng thêm thu nhập quốc dân, từng bước
mở rộng quỹ tiêu dùng xã hội, làm cho nó giữ vị trí ngày càng lớn trong việc
phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá và các sự nghiệp phúc lợi khác
Về sự nghiệp giáo dục, giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển
tồn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có
kỹ thuật đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động của
xã hội.
Cơng tác văn hố, văn học, nghệ thuật phải được nâng cao chất lượng.
Mỗi hoạt động văn hố, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động
17



tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ
nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu
lành mạnh của các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi.
Về y tế, chăm lo sức khỏe của nhân dân. Sức khỏe của nhân dân , tương
lai của giống nòi là mối quan tâm thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta, là
trách nhiệm của tất cả các ngành, các đoàn thể, là trách nhiệm và lợi ích thiết
thân của mỗi công dân.
Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội với toàn dân, theo phương châm
“nhà nước và nhân dân cùng làm”; thực hiện đúng đắn, đưa ra quan điểm
thống nhất chính sách giai cấp và chính sách dân tộc.
2.2.3. Đổi mới chính sách đối ngoại.
Trong những năm tới, “Nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh
vực đối ngoại là ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại, phấn đấu giữ vững hịa bình ở Đơng Dương, góp phần tích cực giữ vững
hịa bình ở Đơng Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba
nước Đông Dương, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác tồn diện với
Liên Xơ và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc,
đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới
vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta phải phục vụ cho cuộc
đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị , làm thất bại cuộc chiến
tranh phá hoại nhiều mặt của địch, làm tròn nghĩa vụ quốc tế với Campuchia
và Lào.
Tăng cường đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xơ ln ln là
hịn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đảng ta,
một lần nữa, bày tỏ sự ủng hộ hồn tồn chính sách đối nội và đối ngoại được
thông qua tại Đại hội lần thứ XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô, ủng hộ hoàn


18



×