Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Bài tập học kỳ môn luật tố tụng dân sự Phân tích QĐPL Tố tụng dân sự hiện hành về nguồn chứng cứ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.67 KB, 15 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ
MƠN
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỀ SỐ..
Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành về nguồn chứng cứ
HỌ TÊN

:

MSSV

:

LỚP

:

HOÀNG MINH H

Hà Nội, Tháng … năm …
0


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 2
Chương 1 NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ................. 3
1. Khái niệm nguồn chứng cứ ........................................................................ 3


2. Mối quan hệ giữa chứng cứ và nguồn chứng cứ ....................................... 3
3. Mối quan hệ giữa nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh ............. 4
Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN
HÀNH VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ ......................................... 6
1. Quy định của pháp luật Tố tụng dân sự hiện hành về nguồn chứng cứ .. 6
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Tố tụng dân sự về nguồn chứng
cứ ................................................................................................................... 11
KẾT LUẬN ................................................................................................... 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 14

1


MỞ ĐẦU
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng trong Tố tụng dân sự. Mọi
hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ,
mọi giai đoạn của Tố tụng dân sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ thuộc
phần lớn vào chứng cứ. Dựa vào chứng cứ mà các đương sự có cơ sở xác đáng
chứng minh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và các cơ quan tiến hành
tố tụng cũng xem xét được tính đúng đắn của sự việc để bảo vệ lợi ích của
cơng dân và bảo vệ pháp luật. Một trong những vấn đề khá quan trọng về
chứng cứ là nguồn chứng cứ. Nguồn chứng cứ được hiểu là nơi cung cấp
những tài liệu quan trọng để rút ra được những chứng cứ có giá trị chứng minh
sự thật khách quan của vụ việc dân sự. Nếu khơng tìm được nguồn chứng cứ sẽ
khơng thể có chứng cứ để chứng minh, làm sáng tỏ vụ việc, dẫn đến việc các
cơ quan tiến hành tố tụng có thể đưa ra những kết luận khơng đúng, khơng
chính xác và không đầy đủ đối với vụ việc dân sự. Nhận thấy tầm quan trọng
của việc tìm hiểu nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự, bài tập học kỳ này của
em lựa chọn phân tích đề số …: “Phân tích các quy định của pháp luật tố

tụng dân sự hiện hành về nguồn chứng cứ”.

2


NỘI DUNG
Chương 1
NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Khái niệm nguồn chứng cứ
Nguồn là nơi bắt đầu, nơi phát sinh ra hoặc nơi có thể cung cấp hay rút ra cái
gì, điều gì. Do đó, nguồn chứng cứ được hiểu là nơi chứa đựng chứng cứ. Ví
dụ 1: Hợp đồng vay là nguồn chứng cứ còn nội dung ghi trong hợp đồng vay
mới là chứng cứ.
Tòa án chỉ có thể thu thập nguồn chứng cứ, từ đó rút ra chứng cứ. Bất kỳ loại
chứng cứ nào cũng nằm trong nguồn chứng cứ nhất định, nhưng khơng có
nghĩa là khi thu thập một nguồn chứng cứ nào thì đó nhất thiết trong đó sẽ chứa
đựng chứng cứ. Như vậy có thể hiểu khái niệm nguồn chứng cứ như sau:
“Nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự được hiểu là nơi chứa đựng những
thông tin tồn tại một cách khách quan, có liên quan đến vụ việc dân sự, được
các chủ thể có thẩm quyền thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính hợp pháp của chứng cứ
đối với mỗi vụ việc cụ thể, nhằm giúp giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
2. Mối quan hệ giữa chứng cứ và nguồn chứng cứ
Theo Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì: “Chứng cứ trong vụ
việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác giao nộp, xuất trình cho Tịa án trong q trình tố tụng hoặc do Tịa án
thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử
dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác
định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng những gì đương sự cung cấp thì chỉ là căn cứ, bằng

chứng, nếu muốn được coi là chứng cứ thì phải qua một quá trình chứng minh
điều tra và phải được thẩm phán hoặc hội thẩm gọi chung là người tiến hành tố
tụng ra quyết định.
3


Nguồn chứng cứ bao gồm người, vật, tài liệu mang các thông tin về vụ việc
dân sự. Như vậy nguồn chứng cứ có hai loại chủ yếu là người, vật và tài liệu.
Việc phân biệt các nguồn chứng cứ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
giá trị chứng minh của mỗi loại chứng cứ.
Thông thường, các chứng cứ được rút ra từ các vật, tài liệu thì việc nghiên
cứu, đánh giá và sử dụng không mấy phức tạp vì chúng bị chi phối bởi ngoại
cảnh. Trường hợp chứng cứ rút ra từ con người như đương sự, người làm
chứng việc nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chúng rất phức tạp. Nét chung
nhất của con người với nghĩa là nguồn chứng cứ bị chi phối rất lớn bởi yếu tố
lợi ích, tâm lí, khả năng nhận thức, nhớ và phản ánh lại những gì họ thấy, sự
quan tâm của họ đói với sự kiện,… Tất cả những yếu tố này đều phải tính đến
khi nghiên cứu, đánh giá và sử dụng các chứng cứ được rút ra từ đương sự,
người làm chứng. Ví dụ 2: Ơng A chết đi để lại một bản di chúc ghi với nội
dung để lại cho cháu nội 100 triệu đồng. Trong ví dụ này, chúng ta xác định
nguồn chứng cứ và chứng cứ như sau:
- Nguồn chứng cứ: bản di chúc của ông A chết đi để lại.
- Chứng cứ: nội dung trong bản di chúc thể hiện nội dung để lại cho cháu nội
100 triệu đồng.
Chứng cứ và nguồn chứng cứ là hai mặt không thể tách rời. Chứng cứ bắt buộc
phải được rút ra từ một trong những nguồn và thu thập bằng biện pháp do pháp
luật quy định. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các chủ thể chứng
minh phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về chứng cứ. Đối với
những thông tin không được rút ra từ các nguồn do pháp luật quy định, không
được thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng theo đúng quy định của pháp

luật thì khơng được coi là chứng cứ, không được sử dụng để giải quyết vụ việc
dân sự.
3. Mối quan hệ giữa nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh
Phương tiện chứng minh là những công cụ do pháp luật quy định các chủ
thể chứng minh được sử dụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân
sự.
4


Nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là hai khái niệm khác nhau tuy
nhiên trên thực tế chúng thường được hiểu là một. Vì trong một số trường hợp
các phương tiện chứng minh cũng chính là cái có thể rút ra các tin tức về vụ
việc dân sự như vật chứng, tài liệu chứa đựng chứng cứ…, nó cũng chính là
nguồn chứng cứ.
Ví dụ 3: Ơng A có 3 người con, trước khi chết A ghi lại chia tài sản cho các
con trong băng ghi hình. Trường hợp này, khi chia thừa kế xác định phương
tiện chứng minh, nguồn chứng cứ và chứng cứ như sau:
- Phương tiện chứng minh và nguồn chứng cứ là một (trùng nhau) là: Băng
ghi hình;
- Chứng cứ: nội dung trong băng ghi hình thể hiện việc chia tài sản cho các
con như thế nào.
Để phân biệt nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh, cần phân tích trên
các phương diện và những góc độ khác nhau như nơi rút ra chứng cứ hay cơng
cụ được sử dụng để xác định các tình tiết của vụ việc dân sự. Bản thân nguồn
chứng cứ chỉ thể hiện khả năng chứa đựng chứng cứ, nếu không có sự tác động
của các chủ thể nhất định thì chứng cứ tiềm ẩn trong đó khơng được phát hiện
và như vậy, nguồn chứng cứ chưa thể sử dụng vào việc chứng minh. Tuy
nhiên, khi đã có sự xem xét, đánh giá, khai thác chứng cứ trên cơ sở nguồn
chứng cứ, thì lúc này những nguồn chứng cứ đó được sử dụng như một công cụ
dùng vào việc xác định những tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự, góp phần

giải quyết vụ việc; nói cách khác, lúc này nguồn chứng cứ được nhìn nhận là
phương tiện chứng minh.

5


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ
NGUỒN CHỨNG CỨ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ
1. Quy định của pháp luật Tố tụng dân sự hiện hành về nguồn chứng cứ
Hiện nay theo quy định tại Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nguồn
chứng cứ bao gồm:
“1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
4. Lời khai của người làm chứng.
5. Kết luận giám định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
7. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
8. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
9. Văn bản cơng chứng, chứng thực.
10. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định”.
So với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, thì Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 đã quy định bổ sung 03 loại nguồn chứng cứ mới là: Dữ liệu
điện tử; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập;
Văn bản công chứng, chứng thực. Cùng với việc quy định bổ sung như trên, Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã không quy định tập quán là một loại nguồn
chứng cứ nhằm phù hợp với thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự. Việc mở
rộng thêm các loại nguồn chứng cứ nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi chính đáng

của đương sự, góp phần giải quyết vụ việc dân sự một cách khách quan. Không
phải bất kỳ nguồn chứng cứ nào cũng được xác định là chứng cứ mà các nguồn
chứng cứ phải đáp ứng được các điều kiện riêng quy định tại Điều 95 Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015 về xác định chứng cứ như sau: “1. Tài liệu đọc được
nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có cơng chứng,
chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác
6


nhận. 2. Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất
trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài
liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung
cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên
quan tới việc thu âm, thu hình đó. 3. Thơng điệp dữ liệu điện tử được thể hiện
dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín,
điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về
giao dịch điện tử. 4. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến
vụ việc. 5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là
chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình,
đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2
Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa. 6. Kết luận giám định được coi là
chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật
quy định. 7. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu
việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. 8. Kết
quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu
việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy
định. 9. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập
tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi
pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. 10. Văn bản
công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng

thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. 11. Các nguồn
khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ
tục mà pháp luật quy định.”
Đối với các tài liệu nghe nhìn được: có thể là các băng, đĩa, ổ USB v.v…hay
văn bản xác nhận xuất xứ. Kèm theo việc đưa ra các tài liệu nghe được, nhìn
được thì người đưa ra chúng phải xuất trình văn bản xác nhận về nguồn gốc
của chúng.

7


Đối với dữ liệu điện tử: là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc
dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện
điện tử.
Đối với các vật chứng: là những vật khác nhau của thế giới vật chất có chứa
đựng những thông tin, dấu vết về vụ việc dân sự. Từ những thông tin, dấu vết
chứa đựng trong vật chứng cho phép Tịa án xác định được những tình tiết của
vụ việc dân sự để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Các vật chứng được sử
dụng với tư cách là chứng cứ nếu là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự.
Đối với lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng: Đương sự,
người làm chứng là những người tham gia vào sự việc, chứng kiến sự việc.
Trong lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng thường chứa đựng
các thông tin về vụ việc dân sự nên là nguồn chứng cứ. Lời khai của đương sự,
lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản,
băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình và được xuất trình theo
đúng thủ tục pháp luật quy định. Đương sự có quyền và lợi ích liên quan đến
vụ việc dân sự nên lời khai của họ thường chứa đựng những thơng tin, tình tiết,
sự kiện có lợi cho họ. Vì vậy, khi sử dụng lời khai của đương sự để xác định sự
thật khách quan của vụ việc dân sự cần xem xét thận trọng cùng các chứng cứ
khác. Đối với người làm chứng, không có quyền lợi liên quan đến vụ việc dân

sự Tịa án giải quyết nên việc tham gia tố tụng của họ khách quan hơn đương
sự. Tuy vậy, vì nhưng nguyên nhân khác nhau như do khả năng nhận thức sự
việc, khả năng nhớ và phản ánh lại sự việc, điều kiện chứng kiến sự việc
v.v…Do đó, khi sử dụng lời khai của người làm chứng để giải quyết vụ việc
dân sự Tòa án vẫn phải kiểm tra, đối chiếu cẩn thận với các chứng cứ khác của
vụ việc dân sự. Ngoài ra, để sử dụng được lời khai của đương sự, lời khai của
người làm chứng thì lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng phải
được thể hiện dưới những hình thức nhất định như ghi bằng văn bản, băng ghi
âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình. Trường hợp lời khai của đương sự,
lời khai của người làm chứng được ghi trong băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi
hình, đĩa ghi hình thì cũng phải có văn bản xác nhận xuất xứ của chúng.
8


Đối với kết luận giám định: là một kết luận khoa học được đưa ra sau khi đã
sử dụng các kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn để xác định các tình tiết, sự
kiện của vụ việc dân sự. Tuy vậy, kết luận giám định có thể khơng đúng vì phụ
thuộc vào trình độ, tính khách quan trong việc giám định của người giám định,
các tài liệu giám định v.v…Vì vậy, việc giám định phải được tiến hành theo
đúng thủ tục quy định của pháp luật và khi sử dụng kết luận giám định Tòa án
cũng phải đối chiếu, sử dụng cùng các chứng cứ khác.
Đối với biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ: Trong những vụ việc dân sự
mà đối tượng tranh chấp là những tài sản hoặc tài liệu, vật chứng khơng thể di
chuyển đến Tịa án được thì để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự phải tiến
hành xem xét, xác minh tại chỗ để xác định đúng thực trạng tài sản tranh chấp
hoặc tài liệu, vật chứng. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ là tài liệu phản
ánh lại quá trình xác minh, xem xét tại chỗ tài sản tranh chấp hoặc tài liệu, vật
chứng. Việc lập và sử dụng biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ phải được
tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
Đối với kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản: Đối với những vụ

việc dân sự cần xác định giá trị tài sản tranh chấp mới có thể giải quyết đúng
được thì phải cho định giá tài sản hoặc thẩm định giá tài sản đó. Kết quả định
giá tài sản, thẩm định giá tài sản có chứa đựng những thông tin về vụ việc dân
sự nên là nguồn chứng cứ. Việc định giá tài sản, thẩm định giá tài sản phải do
tổ chức có thẩm quyền thực hiện và được tiến hành theo thủ tục do pháp luật
quy định.
Đối với văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng
lập: Về bản chất, văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có năng
lực lập cũng chỉ là các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được. Căn cứ Điều
7 Thơng tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày
28/02/2014 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại theo
Nghị quyết 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của quốc hội, quy định như sau:
“Điều 7. Giá trị pháp lý của vi bằng
9


Vi bằng do Thừa phát lại lập là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải
quyết vụ án và là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp theo quy định
của pháp luật. Trong quá trình đánh giá, xem xét giá trị chứng cứ của vi bằng,
nếu xét thấy cần thiết, Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân có thể triệu tập Thừa
phát lại để làm rõ tính xác thực của vi bằng”. Nói theo cách hiểu thực tế thì vi
bằng là một tài liệu bằng văn bản có hình ảnh, video, âm thanh kèm theo (nếu
cần). Trong tài liệu đó, Thừa phát lại sẽ mơ tả, ghi nhận lại hành vi, sự kiện
lập vi bằng mà đích thân Thừa phát lại chứng kiến một cách trung thực, khách
quan. Tài liệu này có giá trị chứng cứ trước Tịa án nếu các bên có phát sinh
tranh chấp liên quan đến sự kiện, hành vi lập vi bằng. Vi bằng và việc lập vi
bằng của Thừa phát lại có một số đặc điểm, u cầu: hình thức của vi bằng là
văn bản do chính thừa phát lại lập, không được ủy quyền hay nhờ người khác
lập và ký tên thay mình trên vi bằng; Việc lập vi bằng phải tuân thủ nghiêm

ngặt các quy định của pháp luật về hình thức và nội dung của văn bản; Vi bằng
ghi nhận các sự kiện, hành vi do Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến; đó là kết
quả của quá trình quan sát trực quan và được phản ánh một cách khách quan,
trung thực trong một văn bản do Thừa phát lại lập; Vi bằng do Thừa phát lại
lập theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật được xem là chứng cứ và
có giá trị chứng minh; Vi bằng có thể được sao chép và được sử dụng làm
chứng cứ lâu dài. Việc vào sổ theo dõi, lưu trữ vi bằng phải tuân thủ các quy
định về bảo mật và lưu trữ.
Đối với văn bản công chứng, chứng thực: Các văn bản cơng chứng có giá trị
xác thực, giá trị pháp lý và độ tin cậy hơn các loại giấy tờ khơng có chứng nhận
xác thực hoặc chỉ trình bày bằng miệng. Các văn bản cơng chứng bảo đảm sự
an toàn của các giao dịch, tạo nên sự tin tưởng của khách hàng, hạn chế mức
thấp nhất các tranh chấp xảy ra.
Như vậy, Theo quy định tại Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì
chứng cứ được xác định trên cơ sở các nguồn chứng cứ như sau:
- Đối với loại nguồn chứng cứ là tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được khi
có chứa đựng chứng cứ của vụ việc dân sự; nếu là tài liệu đọc được nội dung
10


thì phải là bản chính hoặc bản sao có cơng chứng, chứng thực hợp pháp hoặc
do các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền cung cấp, xác nhận; nếu là loại tài liệu
nghe được, nhìn được (như băng đĩa ghi âm, ghi hình) thì phải xuất trình được
văn bản xác nhận về xuất xứ của các tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên
quan tới việc thu âm, ghi hình đó; có như vậy thì tài liệu đó mới được coi là có
giá trị và được sử dụng làm chứng cứ chứng minh trong vụ việc dân sự.
- Đối với loại nguồn chứng cứ là vật chứng: vật chứng được pháp luật quy định
là nguồn chứng cứ vì tồn tại trong chính bản thân nó là chứng cứ của vụ việc
dân sự, nó chỉ chứa đựng chứng cứ chứ nó khơng phải là chứng cứ.
Ngồi ra các lời khai của đương sự, người làm chứng, kết luận giám định,

biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ, kết quả định giá tài sản nếu được tiến
hành đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và đảm bảo ba thuộc tính của
chứng cứ thì sẽ được coi là chứng cứ và được sử dụng để giải quyết vụ việc
dân sự tại Tòa án.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Tố tụng dân sự về nguồn chứng
cứ
- Thứ nhất là mâu thuẫn trong quy định về chứng cứ và nguồn chứng cứ tại
các điều 94 và 95 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Cụ thể:
“Điều 94. Nguồn chứng cứ
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
4. Lời khai của người làm chứng.”
Nội dung quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tại “Điều 95. Xác
định chứng cứ:
1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản
sao có cơng chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền cung cấp, xác nhận.
11


2. Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm
theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ
tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho
người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan
tới việc thu âm, thu hình đó.
4. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ
nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi

hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này
hoặc khai bằng lời tại phiên tòa”
Như vậy, điều 94 liệt kê ra các loại nguồn chứng cứ mà từ đó có thể rút ra
chứng cứ, đồng thời phân biệt rõ ràng “chứng cứ” và “nguồn chứng cứ”. Tuy
nhiên, điều 95 lại quy định các loại nguồn đó được coi là chứng cứ trong các
trường hợp cụ thể, hay nói cách khác là đồng nhất khái niệm “chứng cứ” và
“nguồn chứng cứ”. Sự mâu thuẫn này dẫn đến những khó khăn trong việc thực
hiện pháp luật. Do vậy, nên thêm từ “nguồn” liền trước các cụm từ “chứng
cứ” trong điều 95 để khắc phục hạn chế này.
- Thứ hai, việc thu thập chứng cứ điện tử trong tố tụng dân sự hiện chưa có
quy định cụ thể, rõ ràng. Vì vậy, để hoạt động này được tiến hành đạt hiệu quả
khi tiến hành thu thập chứng cứ điện tử cần quy định rõ một số vấn đề như:
+ Không làm thay đổi thông tin được lưu trong máy tính hoặc trong các thiết bị
kỹ thuật số;
+ Khi phải tiếp cận với thông tin gốc được lưu trữ trong máy tính hoặc trong
các thiết bị kỹ thuật số thì người tiếp cận phải là những người thành thạo được
đào tạo để thực hiện việc thu thập và phục hồi chứng cứ điện tử;
+ Việc ghi lại dữ liệu (copy) phải bảo vệ được tính nguyên vẹn của dữ liệu điện
tử lưu trong máy;

12


KẾT LUẬN
Quy định về nguồn chứng cứ trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã được
phân tích ở trên cho thấy chứng cứ, nguồn chứng cứ có vai trị rất quan trọng
trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ việc dân sự và để xác định chứng
cứ nào là có thật giúp cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự đòi hỏi
người Thẩm phán phải có trình độ nghiệp vụ, kiến thức xã hội và khả năng
nhạy bén trong quá trình xác định, thu thập chứng cứ.


13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Nguyễn

Cơng

Bình

chủ

biên.

Tra

cứu

online

tại:

/>2. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
3. Một số website:
/> /> />
14




×