Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

bai tap dieu kien docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.52 KB, 23 trang )

1/. Nhà cửa
Nhà sàn người Mường tại Hòa Bình, Việt Nam
Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn
đồi, nơi đất thoải gần sông suối ở tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá,
Phú Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của
mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Ðại bộ
phận ở nhà sàn, kiểu nhà bốn mái. Phần trên sàn người ở, dưới
gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm, để cối giã gạo, các công cụ sản
xuất khác.
Ở khu vực Đông Nam Á, nhà sàn là loại hình phổ biến của nhiều
dân tộc. Tại Việt Nam, cư trú trên nhà sàn là truyền thống của
nhiều dân tộc như Gia Rai, Ê Đê, Tày, Thái, Mường. Đó là sự
thích ứng tối đa với điều kiện sống. Người Mường cư trú trên
những ngôi nhà sàn không biết từ bao đời nay. Mặc dầu vậy, nhà
sàn của người Mường vẫn có nhiều điều đặc biệt khác với nhà sàn
của các dân tộc khác.
Người Mường sống trong những ngôi nhà sàn truyền thống, địa
bàn cư trú tập trung chủ yếu ở những dải đồng bằng thung lũng
hẹp, doi đất ven sông, ngòi, dưới chân các dãy núi hay trên các đồi
gò thấp. Làng bản mường sống tập chung thành từng chòm, từng
xóm, ẩn khá kín dưới màu xanh của cây cối trồng quanh nhà. Các
bản mường thường có khoảng từ 20 đến 30 nóc nhà, và nếu bản to
thì có thể nhiều hơn nữa. Bản làng thường dựng nơi gần nguồn
nước, gần đồng ruộng, thuận lợi cho lao động sản xuất. Tuy vậy,
bản làng của người Mường ít khi lộ rõ để người ngoài dễ phát hiện
vì được bao bọc bởi luỹ tre và cây ăn quả. Đường vào bản thường
là những con đường mòn nhỏ quanh co tạo cảm giác dễ nhầm, dễ
lạc. Và đối với người Mường, họ không coi trọng việc dựng nhà
lập bản sao cho thuận tiện giao thông đi lại. Vì lẽ đó mà muốn vào
bản làng hay nhà của người Mường thường phải băng qua con
đường nhỏ nối làng với đường chính hoặc lội qua những con suối,


ngòi.
Với người Mường nói chung, nhà là nơi diễn ra và chứng kiến
những sự kiện như sinh, hôn, tử của một vòng đời. Từ đó, ngôi nhà
không chỉ có ý nghĩa đối với gia đình mà còn mang ý nghĩa cộng
đồng xã hội, không chỉ là nhu cầu về vật chất là để trú ngụ nắng
mưa, ngủ nghỉ, mà còn đáp ứng nhu cầu tâm linh.
Người Mường rất trọng hướng nhà, vì vậy, hướng nhà phải do một
thầy địa lý có tiếng chọn riêng theo tuổi của gia chủ. Họ quan niệm
làm nhà đúng hướng sẽ đem lại tài lộc và may mắn đến cho gia
đình Theo quan niệm của người Mường, làm nhà không được
ngược hướng với đồi núi, chính vì vậy, bề ngoài, nhà của người
Mường có vẻ không theo một quy luật nào. Nhà dựng ở đồi gò thì
lưng dựa vào đồi gò, cửa hướng ra khoảng không thung lũng, cánh
đồng trước mặt. Nhà dựng ở ven sông thì mặt có thể hướng ra
dòng sông hay hướng vào trong Tất cả những cái tưởng chừng là
“lộn xộn” đó lại tạo cho bản làng của người Mường Thanh Sơn
cảm giác vừa vững vàng vừa cởi mở với những nét độc đáo riêng.
Nhà sàn của người Mường là kiểu kiến trúc cổ truyền. Việc dựng
nhà sàn của người Mường là kết quả của một quá trình dài đúc rút
kinh nghiệm cư trú. Điều đó thể hiện ở bản mo nổi tiếng họ là “Te
tấc te đác” (đẻ đất đẻ nước). Trong bản mo đồ sộ này có đoạn nói
về sự ra đời của nhà sàn người Mường. Mo rằng: Khi người
Mường sinh ra nhà chưa có nên phải sống trong các hang núi, hốc
cây, họ phải đối mặt với nhiều thiên tai hiểm hoạ. Một hôm, ông
Đá Cần (còn gọi là lang Cun Cần) bắt được một con rùa đen
trong rừng đang định đem ra làm thịt. Rùa van xin Đá Cần tha
chết và hứa nếu được thả thì rùa sẽ dạy cho ông cách làm nhà để
ở, làm kho để lúa để thịt:
Bốn chân tôi làm nên cột cái
Nhìn sườn dài, sườn cụt mà xếp làm rui

Nhìn qua đuôi làm trái
Nhìn lại mặt mà làm cửa thang cửa sổ
Nhìn vào xương sống làm đòn nóc dài dài
Muốn làm mái thì trông vào mai
Vào rừng mà lấy tranh, lấy nứa làm vách
Lấy chạc vớt mà buộc kèo
Lần dựng thứ nhất, nhà đổ. Ông Đá Cần doạ làm thịt rùa. Rùa lại
phải dặn lấy gỗ tốt mà làm cột làm kèo… Từ đó, người Mường biết
làm nhà để ở
Việc dựng nhà của người Mường đòi hỏi nhiều công đoạn, nhiều
sức lực nên họ có tục giúp đỡ nhau. Người giúp gỗ, người giúp lạt,
người giúp công, giúp sức. Trước kia, để nhận được sự giúp đỡ của
dân làng, gia đình làm nhà phải chuẩn bị một lễ nhỏ mang đến nhà
Lang để nhờ Lang báo cho mọi người trong bản làng biết. Mỗi gia
đình sẽ cử một người đến giúp. Người ta phân công những công
việc cụ thể cho mỗi thành viên đảm nhận như xẻ gỗ, đan nứa, pha
tre, đan gianh cọ, lợp mái… Gia chủ làm nhà tuỳ vào điều kiện
kinh tế mà nhận sự giúp đỡ khác nhau. Nhà khá giả thì mọi người
giúp ít và ngược lại. Theo tục này, ở xã Xuân Đài có lệ khi một
người làm nhà thì tuỳ vào khả năng mà giúp gỗ, lạt, nứa, lá, và mỗi
nhà góp ba đến năm cân gạo nếp, hai chai rượu, một con gà… Lệ
này ở mỗi xóm làng lại có những quy định khác nhau. Ở xã Tân
Phú thì có lệ mỗi gia đình đưa cho gia chủ bốn trăm “phá” (tức là
hai trăm cây nứa gập đôi). Nói chung, tục giúp nhau trong việc làm
nhà của người Mường Thanh Sơn như đóng góp nguyên vật liệu,
lương thực, thực phẩm và ngày công thể hiện sự quan tâm chung
của cả bản làng, tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết cộng đồng
sâu sắc.
Trong quá trình dựng nhà của người Mường, thầy mo có vai trò
tương đối quan trọng. Mở đầu việc dựng nhà, ông mo làm lễ cắm

cọc vào nơi làm cầu thang. Sau đó, chủ nhà cày ba luống làm lệ
trên nền làm nhà. Ông mo đi sau vảy nước vào những luống cày đó
và khấn vía lúa. Người làm nhà chuẩn bị vài cụm lúa đã tuốt hết
hạt chỉ còn cọng rơm ném ra xa rồi cầm đòn xóc đâm vào cụm lúa
nâng lên. Mỗi lần nâng đòn xóc lên rồi lại để xuống và hát giang ý
nói rằng “lúa đẹp, lúa nặng, lúa bay về nhà để cho no cho đủ…”.
Ông mo nâng các cụm lúa lên trên tay rước đi vài vòng rồi giang
mo “đẻ đất đẻ nước” đoạn nói về rùa dạy dân làm nhà. Tiếp theo
ông mo vảy một thứ nước mà người Mường cho đó là nước phép
vào những hố chôn cột để xin thần linh cho gia chủ làm nhà mới.
Người Mường kiêng không để mấu của đòn tay quay xuống mặt
sàn. Khi bắc đòn tay thì ngọn phải quay về gian cuối, gốc ở gian
đầu nơi có cầu thang lên xuống. Gian này được gọi là gian gốc.
Sào nhà gác lên thượng lương. Gốc sào cũng phải quay về gian
gốc. Tre nứa dùng làm nhà phải không được cụt ngọn, không bị
sâu hay bị đốt cháy dở. Gỗ làm nhà phải là loại gỗ chắc đảm bảo
không mối mọt và thường là gỗ lim xanh, mài lái… Người Mường
đặc biệt quan tâm đến những cây gỗ mọc ở núi đá như giống gỗ
heo vì giống gỗ này chặt đốn thì mềm nhưng khi chôn xuống đất
hàng trăm năm cũng không mục mại. Có nơi người Mường còn
kéo gỗ ra ngâm bùn tại ngòi, suối khoảng một hai năm mới vớt lên
làm.
Những cây gỗ được chọn làm cột, sau khi lắp mộng, dựng khung,
được chôn thẳng xuống những hố đã đào sẵn sâu khoảng 20 – 30
cm. Tục chôn cột nhà, ngoài dụng ý cho vững chắc khung nhà khi
lợp mái, làm sàn, làm vách, còn có ý nghĩa tâm linh, thể hiện cho
sự hoà hợp âm dương, một biến thể của tín ngưỡng phồn thực. Cho
đến nay, đa số người Mường đã thay đổi tục chôn cột nhà bằng
cách nâng cột lên mặt đất và kê lên những phiến đá chống mối
mọt. Tuy nhiên cột nhà của người Mường Thanh Sơn không được

gia công bào gọt nhiều như cột nhà của người Thái và người
Mường ở Hoà Bình. Nếu cột nhà của người Thái Sơn La được xẻ,
bào, đẽo cho vuông thành, thì cột nhà của người Mường Thanh
Sơn chỉ bào lớp vỏ ngoài và để tròn.
Người Mường dùng con xỏ bằng tre, con then bằng gỗ, đinh kèo
bằng gỗ… để đóng thay cho đinh sắt. Họ dùng lạt mây, giang hoặc
tre bánh tẻ để buộc níu các ngoàm đẽo hoặc cột kèo. Khung nhà
sàn của người Mường được dựng hoàn toàn bằng cách ghép mộng,
đục đẽo mà thành. Đòn tay (tôn thảy) được đặt dọc mái nhà. Đòn
tay cái có miếng tre kẹp chặt đòn tay vào đầu cột cái gọi là cái
khoá kèo. Mái nhà lợp bằng lá cọ hoặc bằng cỏ gianh. Những cây
nứa ngộ (loại nứa to và dày) vàng óng được lựa chọn kỹ để pha
nan kẹp lá (như cái gắp dùng để kẹp cá nướng). Cứ như thế, những
kẹp lá cọ được đưa lên mái buộc thẳng vào dui mè. Đây là cách lợp
mái nhà theo tục truyền thống còn tồn tại phổ biến cho đến ngày
nay. Tuy vậy ở một số nơi, người Mường đã thay cách lợp nhà. Lá
cọ được đưa lên lợp vào dui mè mà không cần kẹp nữa. Mái nhà
sàn khum khum hình mai rùa.
Nếu như nhà sàn của người Mường ở Hoà Bình phổ biến là bốn
mái (hai mái đầu hồi và hai mái dài). Sàn nhà thấp giống sàn nhà
của người Thái thì nhà sàn của người Mường ở Thanh Sơn cũng
như nhà sàn Yên Lập chủ yếu là loại nhà sàn hai mái mà không có
mái đầu hồi. Mái nhà dốc vảy gần sát sàn. Nhà của người Mường
không có sàn thềm bên ngoài như của người Thái. Sàn nhà được
làm bằng những cây bương già thẳng pha thành mảnh dát xuống
lược bỏ mắt và cạnh sắc ghép liền với nhau, dùng lạt mây buộc
chặt kết thành từng mảnh buộc chặt vào khung sàn. Những sàn nhà
của nhà Lang trước đây thì thường dùng gỗ tốt như lim, gụ làm sàn
nên qua thời gian sử dụng, những tấm ván lên nước bóng láng. Từ
mặt đất lên sàn nhà thường cao khoảng 2 đến 2,5 m tuỳ từng nơi

ẩm thấp hay cao ráo.
Công việc làm nhà tiến hành trong 4 – 5 ngày thì kết thúc. Ngày
lợp mái, gia chủ tổ cúng tổ tiên, thổ công cai quản nơi mình ở. Lễ
cúng gồm xôi nếp và thủ lợn bày ở khoảng đất trống chọn làm sàn.
Nhà làm xong, gia đình lại tổ chức cúng tổ tiên, thổ công, ma rừng,
ma cây, ma bến nước, ma đồi gò… thông báo rằng gia đình đã có
một ngôi nhà mới, mời tổ tiên về chung vui với con cháu phù hộ
gia đình may mắn. .
Làm nhà mới, khi dựng cột bếp, người Mường có tục làm lễ nhóm
lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt hình 3 con cá to kẹp vào thanh nứa
buộc lên cột bếp, ở cột cái của bếp còn đặt một quả bí xanh. Trước
lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần bếp cho
đặt 3 hòn đầu rau và hòn đá cái. Ðêm đó gia chủ mời mọi người
uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa không tắt.
Nhà của người Mường thường ba đến năm gian. Những gia đình
đông con thì nhà lên đến bảy – mười hai gian. Những ngôi nhà như
vậy ngày nay còn rất ít. Nhà dù ít hay nhiều gian đều có một sàn
bên trái để bắc cầu thang và máng nước sinh hoạt. Gian đầu tiên từ
cầu thang lên gọi là gian gốc. Đây là gian quy tụ mọi tính linh
thiêng của ngôi nhà, là nơi xuất phát những tục lệ đối xử hành vi
của con người với ngôi nhà.
Ở gian gốc có một cây cột to hơn các cây cột khác trong nhà gọi là
cột gốc (còn gọi là cây cột chồ) ở đầu góc nhà gần cầu thang. Cây
cột gốc được người Mường trân trọng đặt khám (bàn thờ) thờ tổ
tiên. Mọi người kể cả chủ hay khách đến nhà chơi đều không được
bôi nhọ, dựa lưng, gác chân, buộc đồ vật hay treo quần áo vào cột
này. Phần cột dưới sàn cũng không được buộc trâu bò hay dựng,
treo công cụ lao động. Người Mường quan niệm nếu phạm phải
những điều cấm trên thì bị coi là xúc phạm đến gia đình, tổ tiên và
thần linh.

Gian nhà gốc chỉ dành riêng cho nam giới. Phụ nữ trong nhà không
được ngồi nghỉ hoặc làm việc ở đây. Trong các ngày trọng đại như
hôn lễ, ma chay thì chỉ nam giới có vai vế trong dòng họ được ngồi
ăn uống.
Tại gian nhà linh thiêng này có một cửa sổ làm sát đến sàn nhà gọi
là cửa sổ “voóng” linh thiêng, không ai được đưa vật gì hay chui
qua. Cửa sổ voóng chỉ dành để đưa quan tài ra ngoài khi gia chủ có
tang ma. Đối diện với cột chỗ ở gian gốc có một cột nhà tương đối
quan trọng. Ở chân cột này, người Mường để vào cum lúa đã tuốt
hết hạt. Đầu cột đội một cái giỏ thủng biểu hiện cho âm tính (người
Mường gọi là nường). Bên cạnh đó, người Mường treo một đoạn
tre tước xơ một đầu cho bông lên biểu hiện cho dương tính (gọi là
nõ). Điều này thể hiện đời sống tâm linh, nói lên sự hỗn hợp, cân
bằng âm dương, sự ổn định và thuận hoà của cả gia đình.
Gian thứ hai của ngôi nhà (gian kế theo gian gốc) dành cho nam
giới ngủ nghỉ. Gian giữa thường là gian để thóc và làm bếp. Lúa
gặt ở ruộng nương về phơi khô khi chuyển lên nhà được để ở đây.
Họ xếp lúa vào một cái quây như cái bồ thủng đáy đan bằng nứa
hoặc giang để gần bếp. Bếp của người Mường là rất công phu.
Khuôn bếp được làm bằng loại gỗ đặc biệt cứng, có đường viền
xung quanh, đáy lót bằng bẹ chuối rồi rải bùn lên trên. Khi chuyển
bếp mới, người Mường tìm một số loại cỏ thơm như cỏ mật phơi
khô để vào bếp đốt lấy tro rồi mới bắc kiềng nấu nướng. Bếp
thường đặt trên trục nhà nơi nóc dọi xuống. Có nhà bếp đặt gần
cửa sổ để thông gió, tránh khói và hoả hoạn. Tuy vậy, việc đặt bếp
ở cửa sổ ít được ưa chuộng hơn vì người Mường quan niệm nếu
đặt bếp gần cửa sổ thì hơi ẩm từ bếp toả ra ngôi nhà không đều.
Nhà người Mường thường có hai bếp chuyên dụng. Một bếp để
nấu nướng thức ăn, và phụ nữ, trẻ em trong gia đình ngồi sưởi.
Một bếp nhỏ hơn đặt ở gian gốc dùng để cho đàn ông trong gia

đình ngồi sưởi vào mùa đông và đun nước uống hàng ngày hoặc
tiếp khách. Bếp này người phụ nữ trong gia đình ít khi được ngồi
hoặc sử dụng, trừ phụ nữ cao tuổi như bà, cụ hay con gái út được
yêu quý nhất.
Gian cuối cùng là nơi dành cho phụ nữ sinh hoạt có chạn bát, để đồ
dùng gia đình, nơi sửa soạn cơm nước. Gian này được ngăn với
các gian khác trong nhà bởi một tấm liếp. Đây cũng là nơi người
phụ nữ thay quần áo và ngủ nghỉ. Đầu hồi nhà, người Mường để
một cái cối đuống và một cối tròn. Cối đuống không chỉ dùng để
giã thóc gạo mà còn là phương tiện để gia đình báo nhà có việc lớn
như đám cưới hay tang ma. Bên cạnh đó, cối đuống còn là một
nhạc cụ sử dụng để gõ những bản nhạc vui trong ngày lễ tết, hội hè
với những bản đuống rộn ràng âm vang, người Mường gọi là “đâm
đuống” hay “châm đuống”. Dưới sàn nhà, người Mường nuôi gà,
trâu hoặc để cất các công cụ sản xuất như cày, cuốc, liềm, nong,
nia… Nhà của người Mường thường chỉ có một cầu thang. Song
những ngôi nhà dài từ 7 - 12 gian thì phải làm hai cầu thanh ở hai
đầu nhà. Những nhà có hai cầu thang như vậy khá hiếm vì người
Mường quan niệm đó là sự xui xẻo, kiêng kị, của nả sẽ không giữ
được trong nhà “vào đầu này ra đầu kia”.
2/. Ẩm thực.
Người Mường thích ăn các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá
đồ. Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá tãi đều cho khỏi nát trước khi
ăn.
Rượu Cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương
vị đậm đà của men được đem ra mời khách quý và uống trong các
cuộc vui tập thể.
Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu
to. Ðặc biệt, phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền
nhau hút chung một điếu thuốc.

- Dù giàu hay nghèo, người Mường vùng Tây Bắc không thể
thiếu bánh chưng trên bàn thờ. Có điều bánh chưng nhỏ, dài độ
gang tay gọi là bánh chưng ống chỉ 1 và 2 lạng gạo. Tuy bánh nhỏ
nhưng số lượng khá nhiều, nhà nghèo ít cũng trên dưới 200 chiếc,
nhà khá giả gói đến cả ngàn chiếc. Vì thế phong tục người Mường
có lệ bản, ngày gói bánh trước ngày tết của gia đình mình từ 2 đến
3 ngày. Người trong bản, trong họ hẹn lịch nhau, tập trung gói hết
từ nhà này đến nhà khác.
Ngày gói bánh tết là ngày hội bận rộn nhưng rất vui của chị
em, kể cả những chàng rể, cô dâu tương lai đều có mặt, là nơi hội
tụ trai, gái đến tuổi cập kê, họ Ðang (hát).
Bánh tết của anh
Tuổi xuân của em
Hẹn ngày đôi ta
Bánh chưng còn là quà của chủ nhà phát vốn cho nhiều
người, nhất là trẻ em đến chúc tết không phát vốn bằng tiền) nếu là
người già và bề trên trong họ còn kèm theo gói thịt băm.

- Món cá chua
Ngày xửa ngày xưa, người Mường bấm đốt ngón tay để xem
ngày, chuẩn bị các món ăn cho ngày tết thật chu đáo, trong đó nhất
thiết nhà nào cũng phải có món cá ướp chua
Ðể có một “Pe cá Tua”- hũ cá chua không phải dễ. Con trai đi
quăng chài vào đêm, đem cá về mổ bụng moi ruột, cắt khúc nhỏ
bằng hai ngón tay, bỏ đầu đuôi, ướp muối, đem xôi, sau đó thêm
một ít cơm nguội, ít men rượu, trộn đều rồi cho vào hũ, được 15
ngày thì bỏ thính vào.
Cá ướp chua để từ 3 đến 6 tháng, bày lên mâm ăn ngay. Cá
ướp chua gói vào lá thầu dầu (bánh tẻ) rồi nướng. Cá ướp chua nấu
canh có thêm gia vị: Lá sả, gừng, ớt, mắc khén. Cá ướp chua làm

bánh và đồ cơm (vung chảo xôi bằng gỗ).
Người Mường có câu: “ăn một miếng cá chua, sáng mắt cả
năm” mùi thơm của cá chua nướng, hơi bốc lên của chõ xôi bánh
khêu gợi mời gọi mọi nhà đón xuân về.
- Ăn chay
Ðêm 29 và 30 tháng chạp, nhà nhà đều thắp hương, sắm mâm
rau, quả, rượu, trầu cau, không có thịt cá, gọi là ăn chay để đón
“ma nhà” và tổ tiên về ăn tết. Do đó, gọi bữa “tiệc” đêm 29 và 30
tháng chạp là ngày ăn chay.
- Uống rượu khi hát
Hát dân ca (Ðang) là độc đáo nhất của dân tộc Mường, trong
mâm cỗ ngày tết không thể thiếu. Nhưng bây giờ không phải ai
cũng biết Ðang như ngày xưa, cho nên cải biến bằng cái lệ. Chủ
mâm xướng ra một đôi chén rượu, đôi chén ấy đặt trước ai người
ấy phải Ðang, nếu không biết thì hát bất kỳ bài gì mà mình biết.
Khối anh cán bộ người Kinh phải hát cả bài kết đoàn là vì thế.
Người Mường ăn cơm gạo tẻ với thức ăn nấu từ rau rừng,
củ, quả cùng với cá, thịt gia súc, gia cầm giống như nhiều
dân tộc anh em khác - tuy nhiên vào các ngày hội hè, lễ, tết,
những cảnh chế biến, nấu nướng và ăn uống có khác biệt
tạo nên phong vị ẩm thực độc đáo riêng của người Mường.
Ẩm thực Mường khá phong phú, đa dạng biểu hiện nét
trù phú của vùng Mường Tây Bắc.
Trước hết cơm nếp được thay cơm tẻ và được nấu theo
cách thức của tổ tiên tộc Mường để lại, đó là cơm lam.
Người Mường chọn loại nứa bánh tẻ gọi là "ống chố", loại
này to, gióng dài, sợi thớ tươi nên không bị nứt vỡ và cháy
khi vùi trong than lửa. Dồn gạo vào ống và đổ nước vào ống
rồi đem ống cơm này "trồng vào giữa đống than đã cháy
đượm". Cơm sôi cạn, lấy lá chuối, lá ngái, lá dong rừng nút

chặt miệng ống để giữ hơi và gạt than hồng ra, vùi kín cho
đến khi cơm chín. Cơm chín đem chẻ bỏ lớp vỏ ngoài của
ống, để lại một lớp vỏ mỏng ở trong, khi thết đãi bạn bè cơm
lam được cắt từng khúc khoảng 10-13cm, lúc đó ta bóc lớp
vỏ mỏng trên sẽ lộ ra 1 lớp màng mỏng như chiếc áo lụa
mịn màng bao bọc lấy miếng cơm nếp lam thơm ngon, có
một chút màu xanh lam, màu của lá rừng thấm vào cơm,
hấp dẫn lạ thường. Chính vì thế người Mường mới đặt tên
cơm là cơm lam.
Hương vị cơm lam hơn hẳn cơm nếp nấu hoặc xôi trong chõ
hoặc nồi. Cơm lam còn được bà con dùng để cúng thần
rừng cầu mong mọi sự tốt lành; khúc cơm lam, quả trứng
luộc nhuộm đỏ còn dùng để cúng vía cho trẻ nhỏ.
Đã có cơm lam trong mâm thì phải có món cá nướng, cá
muối. Cá nướng phải là cá đánh bắt từ suối, loại cá to. Mổ
lưng cá, hai mảnh quặt về phía sau, ướp tẩm gia vị rồi mới
nướng. Riêng cá muối thì đặc biệt hơn, cá làm sạch bỏ ruột,
phơi cho ráo nước, lấy cây luồng bánh tẻ cưa thành từng
ống, mỗi ống giữ một đầu mắt ở gốc, cứ một lượt cá thì lại
rắc một lần muối với thính gạo, rồi nén chặt, sau đó lót một
lượt lá "dầu cọc rào" trên miệng, dùng thanh nan gài chặt,
xong xuôi đem các ống cá này vùi trong tro bếp, kín như vùi
khoai, vùi sắn nướng, nhiệt độ âm ỉ của bếp dần dần làm cá
chín và ngấm muối, ngấm thính nhưng không bị nát. 3 tháng
là lấy ra ăn được. Nhiều nhà rất kỳ công làm mỗi loại cá vài
ống rồi đánh dấu để dễ nhận ra ống cá cơm, ống cá xỉnh, cá
chép, cá trôi v.v
Món cá muối thính này thường ăn sống kèm với các loại
rau như: sung, đinh lăng, lá ổi, mùi tàu, hành, ớt, sả, tỏi Cá
muối ăn với cơm lam rất tuyệt, mở nắp ống cá là mùi thơm

tỏa ra gây cảm giác bụng sôi lên. Phiến cá dai, đậm ngọt
cùng với cơm lam quánh dẻo, thêm chút rau sống chắc ai đã
một lần thưởng thức sẽ không bao giờ quên.
Bữa cơm sẽ mất ngon nếu thiếu bát canh đặc sản. Đó là
canh da trâu với món rau rừng. Da trâu rửa sạch, gác lên
bếp lâu ngày lấy xuống đốt trực tiếp trên ngọn lửa, sau đó
cạo sạch, miếng da vàng rôm được chặt nhỏ, món rau mọc
ở bờ suối đem về cắt khúc, hai thứ cùng cho vào nồi nước
ninh đến khi chín nhừ. Canh nấu không có gì khó nhưng nấu
không biết nấu thì sẽ không ngon mà còn bị ngứa. Bí quyết
ở đây là không cho muối vào trước và không được đảo, chỉ
đến khi bắc canh xuống người ta mới cho muối, mắm và các
loại gia vị như hạt sẻn rừng, rau răm, ớt, sả, gừng, các loại
rau thơm khác, lúc này bát canh tỏa hương ngào ngạt, mùi
vị đặc trưng khác hẳn với các món trong mâm. Canh da trâu
với món rau rừng không phải lúc nào cũng được chế biến.
Nó thường đi cùng với cơm lam cá muối hoặc cá nướng.
Với người Mường thì những món ăn kể trên không chỉ đáp
ứng nhu cầu ngon miệng, no bụng mà còn là "thông điệp" về
mặt tình nghĩa xóm làng, quan hệ ứng xử giữa con người
với nhau trong cộng đồng. Việc này cũng trở nên ý nghĩa,
vừa trang trọng, vừa thiêng liêng, tạo thêm phong vị ẩm thực
độc đáo của bà con xứ Mường
3/. Phương tiện Vận chuyển
Phụ nữ phổ biến dùng loại gùi đan bằng giang hoặc tre, 4 góc nẹp
thành thẳng đứng, có dây đeo qua trán hoặc qua vai để chuyên chở.
Ðôi dậu, đòn gánh có mấu 2 đầu, đòn xóc cũng thường được sử
dụng.
Nước sạch được chứa trong ống nứa to, dài hơn 1 mét vác vai từ
bến nước về dựng bên vách để dùng dần.

4/. Trang phục
Họa tiết thêu trên khăn tay của dân tộc Mường ở Hòa Bình, ảnh
chụp tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)
Trang phục dân tộc Mường (ảnh chụp tại Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam)
Người Mường có đặc trưng riêng về tạo hình và phong cách thẩm
mỹ trên trang phục.
Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Ðó là chiếc áo dài 5 thân
cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng
trắng, đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa bệnh thường
đội mũ chầu.
Trang phục nam
Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới hoặc
thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông.
Đầu cắt tóc ngắn hoặc quấn khăn trắng. Quần lá tọa ống rộng dùng
khăn thắt giữa bụng còn gọi là khăn quần. Xưa có tục để tóc dài
búi tóc. Trong lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím
than, ngoài khoác đôi áo chùng đen dài tới gối, cài cúc nách và
sườn phải.
Trang phục nữ
Bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét độc đáo.
Khăn đội đầu là một mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu
thùa, yếm, áo cánh (phổ biến là màu trắng) thân rất ngắn thường xẻ
ở ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy
và cạp váy. Cạp váy nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kỳ công.
Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc
có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.
Áo mặc thường ngày có tên là áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo
cánh ngắn, xẻ ngực, thân ngắn hơn so với áo cánh người Kinh, ống
tay dài, áo màu nâu hoặc trắng (về sau có thêm các màu khác

không phải loại vải cổ truyền). Bên trong là loại áo báng, cùng với
đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo ngắn. Đầu thường đội khăn trắng,
xanh với phong cách không cầu kỳ như một số tộc người khác.
Váy là loại váy kín màu đen. Toàn bộ phận được trang trí là đầu
váy và cạp váy, khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữa trung tâm cơ
thể. Đây là một phong cách trang trí và thể hiện ít gặp ở các dân
tộc khác trong nhóm ngôn ngữ và khu vực láng giềng (trừ nhóm
Thái Mai Châu, Hòa Bình do ảnh hưởng văn hóa Mường mà mặc
thường ngày tương tự như họ). Nhóm Mường Thanh Hóa có loại
áo ngắn chui đầu, gấu lượn, khi mặc cho vào trong cạp váy và cao
lên đến ngực. Phần trang trí hoa văn trên cạp váy gồm các bộ phận:
rang trên, rang dưới, và cao. Trong các dịp lễ, Tết, họ mang chiếc
áo dài xẻ ngực thường không cài khoác ngoài bộ trang phục
thường nhật vừa mang tính trang trọng vừa phô được hoa văn cạp
váy kín đáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn xẻ ngực thường
mang theo chiếc yếm bên trong về cơ bản giống yếm của phụ nữ
Kinh nhưng ngắn hơn.
Người Mường có những đặc trưng riêng hết sức nổi bật về
tạo hình và phong cách thẩm mỹ trên trang phục dân tộc.
Chính điều đó đã tạo nên cho phụ nữ Mường nét duyên
dáng, niềm tự hào khi khoác trên mình trang phục truyền
thống.
Ngày nay, xã hội phát triển kéo theo là sự du nhập của nhiều
xu hướng thời trang mới nhưng không ít phụ nữ Mường vẫn
luôn mặc những chiếc váy đen dài, áo pắn truyền thống như
sự nâng niu, bảo tồn, gìn giữ trang phục của dân tộc mình.
Trang phục Mường hết sức tinh tế và có những nét riêng
nổi bật không thể pha lẫn với các dân tộc khác.
Trong các dịp lễ, tết, ta thường thấy nam, nữ Mường mặc
trang phục truyền thống đánh lên những bản chiêng đầy ý

nghĩa, tiêu biểu là các Phường bùa. Phường bùa là nét văn
hoá đặc trưng của người Mường. Đầu năm, họ thường đem
chiêng đi khắp các nhà trong bản, đánh lên những bản
chiêng chúc phúc, cầu cho gia chủ một năm mùa màng bội
thu và nhiều may mắn. Điều không thể tách rời đối với mỗi
Phường bùa là trang phục dân tộc truyền thống. Không chỉ
thể hiện nét đẹp của người Mường, khi khoác trên người
những bộ quần áo đặc trưng cho dân tộc mình, họ không
khỏi tự hào bới đó là văn hoá.

Trang phục Mường cùng với những bản sắc văn hoá dân
tộc của nó đã bước qua cả giới hạn các buổi lễ hội, biểu
diễn dần trở thành trang phục thường ngày của người
Mường xưa và nay. Đi bất cứ đâu trên mảnh đất Hoà Bình ta
cũng dề dàng bắt gặp các “mế” Mường trong những bộ
quần áo truyền thống. Khi ở nhà, tiếp khách hay thậm chí là
lúc xuống đồng, phụ nữ Mường vẫn duyên dáng trong
những chiếc váy đen, áo pắn. Thiết nghĩ, đây là nét văn hoá
đẹp của người dân tộc Mường thể hiện lòng tự tôn dân tộc,
rất cần được phát huy để những giá trị văn hoá được bảo
tồn ngay trong sinh hoạt thường ngày của đời sống.
Đất trời vào xuân, những cô gái Mường khoác trên mình
chiếc áo pắn đủ màu rực rỡ đi trảy hội. Họ như những bông
hoa đang khoe sắc giữa đại ngàn Tây Bắc quê hương.
5/. Công cụ lao động
Trong gia đình người Mường, người đàn ông thường có những
chiếc nỏ súng cho riêng mình. Họ rất tự hào và chăm sóc chu đáo
cho dụng cụ mà họ cho rằng thể hiện nam tính cũng như vai trò
của mình trong gia đình. Con trai Mường ngay từ nhỏ đã được ông,
cha cho theo trong mỗi lần đi săn, làm bẫy thú nên khi lớn lên rất

thạo việc săn bắn. Người Mường biết làm nhiều loại bẫy thú với
những kiểu dáng khác nhau để bẫy những con thú lớn, thú nhỏ và
chim. Trong các loại bẫy của người Mường Thanh Sơn, thông
dụng nhất là bẫy đâm, bẫy lao và bẫy sập. Loại bẫy này dùng để
bẫy các con thú lớn như hươu, nai, gấu hoặc lợn rừng. Còn các loại
bẫy nhỏ như “ngọ đánh”, “ngọ cắp”, “ngọ rô” dùng để bắt các con
thú nhỏ như gà rừng, chim, sóc… được đặt quanh nương rẫy để
bảo vệ hoa màu.
Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn,
nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum
gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng cum bỏ
vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã.
Người Mường Thanh Sơn đặc biệt khéo tay trong việc đan lát các
vật dụng dùng trong gia đình từ nguyên liệu là tre, nứa và giang,
mây như đan vỏ dao dùng để đi rừng, rổ, rá, thúng, nia, mâm, ớp,
giỏ….
Họ làm ra những sản phẩm tương đối độc đáo như bao dao, làm
cung, nỏ, đồ thổi xôi từ gỗ và các vật dụng khác phục vụ cho cuộc
sống.
6. Nhạc cụ

Ngoài sáo, nhị, trống, kèn,khèn lù thì cồng chiêng là nhạc cụ đặc
sắc.
7/.Tín ngưỡng
Tín ngưỡng thờ ông bà tổ tiên
Người mường theo đạo phật, nhưng có sự khác biệt là mọi nghi lễ
đều phải có chủ lễ là thầy mo chủ trì
8./ Các lễ hội
Ngày hội của bản
Một cảnh trong lễ hội Mợi của đồng bào Mường (Phù Yên )

Đồng bào Mường có nhiều ngày hội quanh năm: Hội xuống đồng
(Khung mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng7, 8 âm
lịch) lễ cơm mới
9./ Văn nghệ dân gian
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường khá phong phú, có
các thể loại thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ.
Người Mường còn có hát ru em, đồng dao, hát đập hoa, hát đố, hát
trẻ con chơi Người Mường ở Vĩnh Phúc và Phú Thọ còn dùng
ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành những âm
thanh để thưởng thức gọi là "đâm đuống".
Hát Xéc bùa (có nơi gọi Xắc bùa hay Khoá rác) được nhiều người
ưa thích. Thường (có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường) là loại dân
ca ca ngợi lao động, và các nét đẹp phong tục dân tộc. Bọ mẹng là
hình thức hát giao du tâm sự tình yêu. Ví đúm cũng là loại dân ca
phổ biến.
Bên cạnh đó, người Mường còn có các thể loại hát khác như hát ru,
hát đồng dao Ðặc biệt, ở người Mường phải kể đến lễ ca. Ðó là
những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.
Chơi
Trò chơi của người Mường gần gũi với mọi đối tượng. Có những
trò chơi được tổ chức chu đáo, công phu như: thi bắn nỏ, đánh đu,
ném còn, v.v Các trò chơi của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng được
tổ chức linh hoạt ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện chơi đàn
giản, tiện lợi như trò đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn
chó, trò đánh mảng, trò chăm chỉ, chằm chăn.
10/. Ngôn ngữ
Tiếng Mường thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam
Á), rất gần với tiếng Việt có thể nói một cách khái quát ( nhưng
không tuyệt đối, khoảng 75%) như sau:
• Những từ không dấu trong tiếng Việt thì giữ nguyên là thành

tiếng mường như: Con, con chim, con voi, ăn, cho, tiêu pha=
tiêu pha một số từ khác phụ âm đầu: tay = thay, đi= ti,đi,
con dê= con tê
• Những từ có dấu hỏi trong tiếng Việt cũng giữ nguyên: của
cải= của cải, đểu= đểu, giả= giả
• Những từ có dấu ngã thì chuyển thành dấu hỏi như: đã= đả,
những= nhửng
• Những từ có dấu nặng thì chuyển thành dấu sắc: nặng= nắng,
tận= tấn,
• Những từ mà có âm "ặc, ịt, ặc, ục" thì giữ nguyên không
chuyển dấu: đông đặc= đông đặc.
• Những từ có dấu huyền thì chuyển thành dấu sắc và ngược
lại dấu sắc thì thành dấu huyền.
• Một số từ không theo quy luật: cây tre= cân pheo, xưng
hô( chú=ô, cháu= xôn)
nhìn (ngắm)= hẩu, trông thấy= hẩu kỉa, ở giữa= ở khừa (khá
giống phương ngữ Thanh - Nghệ - Tĩnh)
11./ Lịch
Lịch Cổ truyền người Mường gọi là sách đoi làm bằng 12 thẻ tre
tương ứng với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau
để biết tính toán, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự công việc.
Người Mường ở Mường Bi có cách tính lịch khác với người
Mường ở các nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tiến. Tháng
giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường các nơi
khác và tháng 10 âm lịch.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×