Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận cao học môn xây dựng đảng nội dung, phương thức đảng lãnh đạo giáo dục và đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.47 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: XÂY DỰNG ĐẢNG
ĐỀ TÀI: Nộidung, phươngthứcĐảnglãnhđạogiáodụcvàđàotạo.


MỤC LỤC

2

LỜI NÓI ĐẦU
Trên thực tế hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển ngày càng
nhanh. Nền kinh tế tri thức có vai trị quyết định trong tiến trình phát triển của lực
lượng sản xuất. Mà lực lượng sản xuất phát triển buộc quan hệ sản xuất phải thay
đổi để phù hợp với một phương thức sản xuất mới. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã
trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tất cả các nước
trên thế giới đều coi giáo dục là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh và
bền vững của mỗi nước. Vì vậy, cơng cuộc đổi mới giáo dục đang diễn ra triên quy
mơ tồn cầu chứ khơng riêng gì ở nước ta.
Trong tiến trình đổi mới đó, với mục tiêu của chúng ta là đi tắt đón đầu để thực
hiện được mục tiêu chiến lược của quốc gia là đến năm 2020 về cơ bản nước ta là
một nước công nghiệp, lại xuất phát từ nhu cầu phát triển nhân cách của con người
mới trong xã hội chủ nghĩa, nhu cầu phát triển nền kinh tế tri thức, nhu cầu được
học tập và không ngừng nâng cao tri thức của nhân dân, nhu cầu về sự bình đẳng
của xã hội đòi hỏi phải đảm bảo quyền con người. Muốn vậy nền giáo dục của
chúng ta phải hiện đại, sánh vai cùng với các cường quốc năm châu. Do đó chúng
2


ta phải không ngừng đầu tư và đổi mới nền giáo dục nước nhà, vì vậy cần có Đảng
lãnh đạo để đảm bảo thực hiện được những mục tiêu trên. Những năm qua quan
điểm của Đảng về đường lối phát triển giáo dục và đào tạo chủ yếu tập trung ở


nghị quyết trung ương 2 khoá VIII ( nghị quyết chuyên đề về giáo dục và đào tạo);
kết luận của hội nghị lần 6 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX; nghị quyết
hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX; văn kiện đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX, X. Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), Tổng Bí thư cũng đã chỉ rõ: Trong các
nguồn lực để phát triển đất nước nhanh, hiệu quả, bền vững, đúng định hướng thì
nguồn lực con người là yếu tố cơ bản. Muốn vậy xây dựng nguồn lực con người,
phải đẩy mạnh đồng bộ giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ và xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc... Quan điểm không đúng về đầu tư cho
giáo dục trước đây được uốn nắn lại: Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong
những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và
phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: Quan điểm về “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
1. Vị trí, tầm quan trọng của giáo dục.
Giáo dục theo nghĩa chung là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng, và
thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự
hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thơng qua tự học. Bất cứ trải
nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận,
hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo dục. Giáo dục thường được
3


chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục
trung học, và giáo dục đại học.
Chính sách giáo dục: Là các chính sách do Đảng đặt ra nhằm điều chỉnh lĩnh
vực giáo dục và thực hiện những mục tiêu yêu cầu của giáo dục.
Quốc sách hàng đầu: Là những chính sách trọng tâm có vai trị chính yếu

của đất nước, ln dành được sự ưu tiên hàng đầu, quan tâm đặc biệt của
Đảng, của nhà nước, được thể hiện qua một loạt các chính sách, các biện
pháp, phạm vi thực hiện và nguồn ngân sách chi cho chính sách đó.
Khơng chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới đều coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu, bởi vì:
- Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế. Như
chúng ta đã biết, để tăng trưởng kinh tế, chúng ta cần 5 yếu tố cơ bản đó là:
Vốn, khoa học và cơng nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và
quản lý nhà nước. Trong đó yếu tố con người là quan trọng nhất. Để phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của quá trình tăng trưởng kinh
tế, ta phải phát triển giáo dục và đào tạo.
- Giáo dục đào tạo góp phần ổn định chính trị xã hội.
- Giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người.
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index- HDI) là một trong
những chỉ tiêu kinh tế- xã hội tổng hợp, là thước đo trình độ phát triển của
một quốc gia, được dùng làm căn cứ để đánh giá, so sánh trình độ phát triển
với các quốc gia khác.
HDI được đánh giá qua 3 tiêu chí: Sức khỏe (đo bằng tuổi thọ trung bình);
giáo dục (đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp giáo
dục) và thu nhập (mức sống đo bằng GDP bình quân đầu người). Trong ba
chỉ số thành phần của HDI, chỉ số giáo dục phản ánh năng lực phát triển con
4


người về mặt trí lực, nền tảng để con người có khả năng tiếp cận được cơ hội
việc làm có thu nhập tốt hơn, từ đó có thể thoả mãn những nhu cầu cơ bản
của con người. Như vậy rõ ràng, giáo dục là chỉ số cơ bản và tiên quyết giúp
con người đạt được các chỉ số còn lại, tiến tới nâng cao chỉ số phát triển con
người.
Từ 3 lý do đó, ta thấy rõ ràng tầm ảnh hưởng trực tiếp của giáo dục tới kinh

tế và chính trị, 2 lĩnh vực trọng tâm và then chốt của quá trình phát triển đất
nước trong giai đoạn hiện nay. Từ đó càng khẳng định sự đúng đắn trong
quan điểm chỉ đạo của Đảng ta.
2. Quan điểm: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” qua các kì đại hội và
thực tiễn thực hiện quan điểm.
Quan điểm chỉ đạo: “giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng ta được thể
hiện qua hai nội dung cơ bản, một là chính sách về giáo dục qua các kì Đại
hội và hai là nguồn chi ngân sách nhà nước cho giáo dục.
Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã ln khẳng định
giáo dục và đào tạo đóng vai trị then chốt, là những chính sách trọng tâm,
có vai trị chính yếu của Nhà nước, được ưu tiên trước nhất, thậm chí đi
trước một bước so với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội khác. Ngay
từ khi mới thành lập, Đảng ta đã có nhiều quan điểm chỉ đạo về phát triển
giáo dục và đào tạo. Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày với các Bộ trưởng 6 nhiệm vụ
cấp bách của đất nước lúc bấy giờ, trong đó có nhiệm vụ về giáo dục: Diệt
giặc dốt. Nghị Quyết Trung ương Đảng lần thứ 3, khoá VII năm 1993 khẳng
định: “Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu;
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Nghị quyết Trung ương Đảng
lần thứ 2, khoá VIII, năm 1996 khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu”. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định thông qua
5


các chủ trương phát triển và giải pháp cải thiện giáo dục trong các văn kiện
của Đảng Công sản Việt Nam sau này. Tại đại hội Đảng lần VIII, Đảng ta
đưa ra mục tiêu: “Nâng cao mặt bằng dân trí, bảo đảm những tri thức cần
thiết để mọi người gia nhập cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình
đổi mới và phát triển đất nước. Đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực để đáp ứng u cầu sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại

hoá... Phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, chú trọng các lĩnh vực
khoa học và công nghệ, văn hoá - nghệ thuật, quản lý kinh tế, xã hội và quản
trị sản xuất kinh doanh”
Để đạt được mục tiêu đề ra, về cơ bản, chúng ta cần thực hiện:
Thanh toán nạn mù chữ cho những người lao động ở độ tuổi 15 - 35 và thu
hẹp diện mù chữ ở các độ tuổi khác. Tích cực xố mù chữ cho nhân dân ở
vùng cao, vùng sâu, vùng xa và những vùng cịn khó khăn. Mở rộng và nâng
cao chất lượng dạy ngoại ngữ, tin học từ cấp phổ thông. Tập trung sức nâng
cao chất lượng dạy và học, trang bị đủ kiến thức cần thiết đi đôi với tạo ra
năng lực tự học, sáng tạo của học sinh, khắc phục tình trạng phải dạy thêm
q nhiều ngồi giờ học chính khố. Cụ thể hố và thể chế hố chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục đào tạo,
trước hết là về đầu tư phát triển và bảo đảm kinh phí hoạt động. Ngồi việc
ngân sách dành một tỷ lệ thích đáng cho sự nghiệp phát triển giáo dục đào
tạo, cần thu hút thêm các nguồn đầu tư từ các cộng đồng, các thành phần
kinh tế, các giới kinh doanh trong và ngồi nước đi đơi với việc sử dụng có
hiệu quả nguồn đầu tư cho giáo dục đào tạo. Những doanh nghiệp sử dụng
người lao động được đào tạo có nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách giáo dục,
đào tạo. Đổi mới chế độ học phí phù hợp với sự phân tầng thu nhập trong xã
hội, loại bỏ những đóng góp khơng hợp lý, nhằm bảo đảm tốt hơn kinh phí
giáo dục, đồng thời cải thiện điều kiện học tập cho học sinh nghèo. Tại Đại
6


hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm “giáo
dục là quốc sách hàng đầu” thông qua 1 loạt các chủ trương cụ thể như:
Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên các cấp.
Xây dựng hoàn chỉnh, phát triển các trường đại học và cao đẳng theo mạng
lưới hợp lý để hình thành một số trường đại học có chất lượng đào tạo ngang
tầm với những trường đại học có chất lượng cao trong khu vực.

Số học sinh tuyển mới vào đại học và cao đẳng tăng 5%/năm. Đặc biệt chú
trọng đào tạo chất lượng cao một số ngành công nghệ, kinh tế và quản lý nhà
nước để đáp ứng nhu cầu nhân lực và nhân tài của đất nước. Tiếp tục đổi
mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy và phương thức đào tạo
đội ngũ lao động có chất lượng cao, đặc biệt là trong các ngành kinh tế, kỹ
thuật mũi nhọn, cơng nghệ cao. Gắn việc hình thành các khu cơng nghiệp,
khu công nghệ cao với hệ thống các trường đào tạo nghề. Phát triển nhanh
và phân bố hợp lý hệ thống trường dạy nghề trên địa bàn cả nước; mở rộng
các hình thức đào tạo nghề đa dạng, linh hoạt, năng động.
Đổi mới cơ bản công tác quản lý và tổ chức giáo dục; xây dựng hệ thống
giáo dục nhằm tạo điều kiện cho mọi người có thể học tập suốt đời theo
hướng thiết thực, hiện đại, gắn chặt với u cầu của xã hội. Hồn thiện cơ
chế, chính sách và luật pháp để bảo đảm sự nghiệp giáo dục phát triển ổn
định, chất lượng, hiệu quả đáp ứng nhu cầu về con người và nguồn nhân lực
cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Ngăn chặn và đẩy lùi những
hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục, xây dựng một nền giáo dục lành
mạnh.
Nhà nước dành tỷ lệ ngân sách thích đáng, kết hợp đẩy mạnh xã hội hoá phát
triển giáo dục và đào tạo. Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực
cho giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phát triển giáo dục và
đào tạo. Chủ động dành một lượng kinh phí thích đáng của ngân sách để
7


tăng nhanh số học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh được đào tạo ở một số
nước phát triển. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: Giáo
dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng và động lực thúc đẩy cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế
quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại

hoá, xã hội hoá", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Chuyển dần mơ hình giáo dục hiện nay sang mơ hình giáo dục mở - mơ hình
xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa
các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi
người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học
tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo
đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) xác định rõ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần
quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt
Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học là quốc
sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển”.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển xã
hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá
và hội nhập quốc tế. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, cơng nghệ,
văn hố đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề. Tiếp tục đổi
mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo.

8


Nội dung thứ 2 thể hiện quan điểm này là nguồn ngân sách chi cho giáo dục
đào tạo
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, nên giáo dục luôn được ưu tiên đi trước
một bước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội…
Nhà nước ta đã chi một ngân khoản khơng nhỏ cho giáo dục, bình quân
khoảng 10% đến 20% ngân sách, thuộc diện lớn nhất thế giới. Và con số này

không ngừng tăng qua các năm. Chẳng hạn: Năm 2000, chúng ta chi 61823
tỉ cho sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó chi cho giáo dục là 12677 tỉ,
chiếm 11,63%. Năm 2001 chúng ta chi 129773 tỉ cho sự phát triển kinh tế xã
hội, trong đó chi cho giáo dục là 15432 tỉ, chiếm 11,89%. Năm 2002 chúng
ta chi 148208 tỉ cho sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó chi cho giáo dục là
17844 tỉ, chiếm 12,03%. Năm 2003 chúng ta chi 6181183 tỉ cho sự phát
triển kinh tế xã hội, trong đó chi cho giáo dục là 22881 tỉ, chiếm 12,62%.
Đến năm 2008, cả thế giới gặp khó khăn về kinh tế, Việt Nam cũng bị ảnh
hưởng nghiêm trọng, nhưng số tiền chi cho giáo dục vẫn tăng, chúng ta chi
494600 tỉ cho sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó chi cho giáo dục là
63547 tỉ, chiếm 12,85%3.
Tuy nhiên, do ngân sách còn hạn hẹp nên mặc dù phần trăm (%) đầu tư cho
giáo dục rất cao, nhưng số tiền chi cho giáo dục thực chất còn rất ít, mức chi
bình quân cho một học sinh, sinh viên còn rất thấp so với các nước trong khu
vực và thế giới. Mặc dù vậy, cũng đã thấy được sự nỗ lực, cố gắng của Đảng
và Nhà nước ta trong việc đầu tư cho giáo dục, minh chứng cụ thể cho quan
điểm chỉ đạo: “giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng ta.

CH Ư ƠNG II. Sự nghiệp của Đảng và Nhà nước

9


1. Những u cầu cấp bách của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sự
nghiệp giáo dục - đào tạo.
Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận, nhận thức lại về thời kỳ quá độ và
tổng kết, khảo nghiệm thực tiễn, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(tháng 12-1986) Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Sau 10
năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã có sự chuyển mình thực
sự. Đến Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII (tháng 6-1996) đã kết

luận: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đã hoàn thành
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, đó là chuẩn bị tiền đề cho cơng
nghiệp hóa. Xuất phát từ những thành quả của 10 năm đổi mới, từ những
tiền đề đã được tạo ra, Đảng ta nhận định rằng nước ta đã chuyển sang
thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Yếu tố cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được Đảng ta xác định là nhiệm
vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu, "cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước chung
quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ
quyền và định hướng phát triển XHCN".
Đồng thời, Đảng ta cũng khẳng định sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa với tính cách là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để "xây dựng nước ta thành một
nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, văn minh".
Nước ta bước vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh thế giới
có nhiều thay đổi lớn với các hướng chủ yếu như: hợp tác và phát triển
10


ngày càng trở thành xu thế chính; phát triển cơng nghệ chuyển sang nền
kinh tế tri thức; tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế phát triển nhanh
chóng. Chính vì thế nước ta tiến hành cơng nghiệp hóa theo truyền thống,
mà cơng nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và cơng nghiệp hóa kiểu mới,
trong đó sử dụng ít năng lượng, ít vật lực nhưng nhiều hàm lượng trí tuệ.
Quy mơ và nội dung thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa rất rộng,
bao gồm các ngành, các lĩnh vực kinh tế, đời sống xã hội ở tầm vĩ mơ
cũng như vi mơ.

Địa bàn thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa rất rộng và phức tạp với
nhiều trình độ phát triển khác nhau; được tiến hành trong nền kinh tế thị
trường. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đi tắt, đi nhanh, kết hợp tuần
tự và nhảy vọt theo định hướng XHCN. Yếu tố có tính quyết định là trí
tuệ và năng lực của con người. Do đó, Đảng ta đã chỉ ra giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ là động lực, là nền tảng để thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Như vậy, muốn thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phải dựa vào con
người, nguồn lực con người. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi của
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.Do đó, ngành giáo dục - đào tạo
có nhiệm vụ rất lớn là phải mạnh dạn tìm ra những cách đi hồn tồn mới
để tạo ra được nguồn nhân lực cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phấn đấu thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
2. Những quan điểm cơ bản của Đảng ta về giáo dục - đào tạo trong
thời kỳ đổi mới
a. Những quan điểm đổi mới của Đảng về giáo dục - đào tạo Tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần VI (tháng 12-1986).

11


Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó mục tiêu của giáo
dục - đào tạo đã được Đảng ta xác định: "Giáo dục nhằm mục tiêu
hình thành và phát triển toàn diện nhân cách XHCN của thế hệ trẻ,
đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật, đồng bộ về ngành nghề, phù hợp
với yêu cầu phân công lao động của xã hội. Sự nghiệp giáo dục, nhất
là giáo dục đại học và chuyên nghiệp, trực tiếp góp phần vào việc đổi
mới cơng tác quản lý kinh tế và xã hội".
Cùng với quá trình đổi mới, Đảng ta cũng đã từng bước thể hiện sự

đổi mới tư duy giáo dục. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII (1991) Đảng ta tiếp tục xác định cụ thể hơn: "Mục tiêu
giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có
năng lực thực hành, tinh thần yêu nước, yêu CNXH. Nhà trường đào
tạo thế hệ trẻ theo hướng tồn diện, có năng lực chun mơn sâu, có ý
thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế nhiều thành phần".
Đại hội VII của Đảng đã từng bước xác định cụ thể hơn về mục tiêu
giáo dục - đào tạo. Để cụ thể hóa đường lối của Đại hội VII, Hội nghị
Trung ương lần thứ 4 khóa VII (1993) đã có Nghị quyết về "tiếp tục
đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo" với nội dung cụ thể sau:
- Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được Đại
hội VII coi là quốc sách hàng đầu. Đó là một động lực thúc đẩy và là
một điều kiện cơ bản bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài.
- Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù
hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.
12


- Đa dạng hóa các hình thức đào tạo. Thực hiện cơng bằng xã hội
trong giáo dục.
Ngồi ra Hội nghị Trung ương lần thứ 4 còn đề ra 12 chủ trương, chính
sách và biện pháp lớn nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
b. Quan điểm của Đảng về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào
tạo trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và Nghị quyết Trung ương lần
thứ 4 (khóa VII) sự nghiệp giáo dục - đào tạo đã có nhiều mặt phát triển
và tiến bộ. Tuy nhiên, bên cạnh đó giáo dục vẫn chưa ra khỏi tình trạng

yếu kém cả về chất lượng và hiệu quả. Về cơ sở vật chất, về đội ngũ cán
bộ quản lý và giáo viên... còn nhiều bất cập. Để khắc phục những hạn chế
đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6-1996) của Đảng đã
nêu ra quan điểm và phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo với
những nội dung sau:
- Giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự trở
thành quốc sách hàng đầu. Phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực sự phát
triển kinh tế - xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục dưới sự quản lý
của nhà nước.
- Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, kỹ
năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lịng nhân
ái yêu nước, yêu CNXH. Phải mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng nâng
cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức.
- Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù
hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.

13


- Đa dạng hóa các hình thức đào tạo. Thực hiện cơng bằng xã hội trong
giáo dục. Bằng nhiều hình thức đa dạng bảo đảm cho mọi người được
đến trường, nhất là người nghèo và con em các gia đình chính sách.
- Cải tiến chất lượng dạy và học, khắc phục những tiêu cực, yếu kém
trong ngành giáo dục để hoàn thành tốt việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn
lực con người cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
giáo dục nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa của nhân loại.

- Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học.
- Củng cố và phát triển ngành giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số và
những vùng khó khăn.
- Tổng kết cải cách giáo dục, xây dựng chiến lược phát triển giáo dục và
đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực
hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã có quyết định về định hướng chiến lược phát triển giáo
dục – đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với những tư
tưởng chỉ đạo sau:
- Giữ vững mục tiêu XHCN trong nội dung, phương pháp giáo dục - đào
tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội.
- Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu.
- Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và toàn
dân.
- Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
những tiến bộ khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi
trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu
quả.
14


- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo.
- Giữ vai trò nòng cốt của các trường cơng lập đi đơi với đa dạng hóa các
loại hình giáo dục - đào tạo.
Từ việc định ra những quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết Trung ương lần hai
(khóa VIII) đã đề ra 4 mục tiêu cần đạt đến năm 2020 như sau:
- Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học mầm non cho hầu hết trẻ em
trong độ tuổi.
- Nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học. Hoàn thành phổ cập giáo
dục trung học cơ sở vào năm 2010 và trung học phổ thông vào năm 2020.

Phát triển giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn,
phấn đấu giảm chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng lãnh thổ.
- Phát triển đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp, đẩy mạnh đào tạo
cơng
nhân lành nghề, bảo đảm có được nhiều nhân tài cho đất nước trong thế
kỷ XXI.
- Nâng cao chất lượng và đảm bảo đủ số lượng giáo viên cho tồn bộ hệ
thống giáo dục. Tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa các điều kiện dạy và học.
Phấn đấu sớm có một số cơ sở đại học và trung học chuyên nghiệp, dạy
nghề đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Để thực hiện 4 mục tiêu trên Nghị quyết Trung ương lần thứ hai đã xây
dựng 4 giải pháp lớn, đó là:
- Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục - đào tạo: Đầu tư cho giáo dục
– đào tạo lấy từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi phát triển trong
ngân sách nhà nước. Tích cực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách,
cho phép các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại
15


học và các Viện nghiên cứu lập cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học đúng
với ngành nghề đào tạo. Xây dựng và công bố công khai quy định về học
phí và các khoản đóng góp theo ngun tắc khơng thu bình qn, miễn
giảm cho người nghèo và người thuộc diện chính sách. Có chính sách ưu
tiên ưu đãi đối với việc xuất bản sách giáo khoa, tài liệu dạy học, nhập
khẩu trang thiết bị dạy học và trong nước chưa sản xuất được. Các ngân
hàng lập quỹ tín dụng đào tạo cho con em các gia đình có thu nhập thấp,
cho vay với lãi suất ưu đãi để có điều kiện học tập ở các trường đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Nhà nước quy định cơ
chế cho các doanh nghiệp đầu tư vào công tác đào tạo và đào tạo lại.
Dành ngân sách nhà nước thỏa đáng để cử những người giỏi, có phẩm

chất tốt để đi đào tạo ở nước ngoài. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận
lợi cho người Việt Nam ở nước ngồi có khả năng về nước tham gia giáo
dục - đào tạo. Sử dụng một phần vốn vay và viện trợ của nước ngoài để
xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ tích cực góp sức phát triển giáo dục - đào tạo.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy và người học:
Phải củng cố và tập trung đầu tư nâng cấp các trường sư phạm. Khơng
thu học phí và thực hiện chế độ học bổng ưu đãi đối với học sinh, sinh
viên ngành sư phạm; có chính sách thu hút học sinh tốt, khá, giỏi vào
ngành sư phạm. Thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi
dưỡng chuẩn hóa, nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ giáo
viên. Lương giáo viên được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương
hành chính sự nghiệp và có thêm chế độ phụ cấp tùy theo tính chất cơng

16


việc, theo vùng do Chính phủ quy định. Có chính sách sử dụng và đãi
ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực được đào tạo.
- Tiếp thu đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo và tăng
cường cơ sở vật chất các trường học: Phải rà soát và đổi mới một bước
sách giáo khoa, bảo đảm sự ổn định tương đối về nội dung, chương trình,
sách giáo khoa ở các cấp học cho đến năm 2000. Tăng cường giáo dục
công dân, giáo dục tư tưởng - đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác Lênin, đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù
hợp với lứa tuổi và với từng bậc học. Đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục - đào tạo. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy và học. Chấm dứt tình trạng lớp
học ba ca; bảo đảm diện tích đất đai và sân chơi, bãi tập cho các trường
theo đúng quy định của Nhà nước. Tất cả các trường phổ thông đều có

đủ sách, thư viện và các trang bị tối thiểu để thực hiện các thí nghiệm
trong chương trình. Thay thế, bổ sung cơ sở vật chất và trang thiết bị cho
các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp và đại học. Tổ chức các
hội đồng bộ môn gồm các nhà giáo dục và khoa học đầu ngành có uy tín
nhằm nghiên cứu, biên soạn, thử nghiệm nội dung, chương trình, sách
giáo khoa, tài liệu, phương pháp giảng dạy cùng danh mục thiết bị đồ
dùng dạy học các môn học.
- Đổi mới công tác quản lý giáo dục: Phải tăng cường cơng tác dự báo và
kế hoạch hóa sự phát triển giáo dục. Quy định lại chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan quản lý giáo dục - đào tạo theo hướng tập trung làm tốt
chức năng quản lý nhà nước; xây dựng, hồn thiện các chính sách, cơ
chế về giáo dục - đào tạo, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện chương trình
và chất lượng. Xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo
17


dục. Đổi mới cơ chế quản lý, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao năng lực của
bộ máy quản lý giáo dục – đào tạo. Tiếp tục sắp xếp lại mạng lưới các
trường đại học, cao đẳng và các Viện nghiên cứu để gắn đào tạo với
nghiên cứu khoa học. Thành lập Hội đồng quốc gia giáo dục với
nhiệm vụ cấp bách trước mắt là giúp Chính phủ tổng kết cơng cuộc đổi
mới về giáo dục và soạn thảo chiến lược giáo dục - đào tạo. Phân cấp
cho ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý tồn
diện giáo dục mầm non, phổ thơng, trung học chun nghiệp và dạy
nghề, cả một số trường cao đẳng. Tiếp tục đổi mới và mở rộng quan hệ
trao đổi và hợp tác giáo dục - đào tạo với nước ngoài.
Với 4 giải pháp mà Nghị quyết đã nêu, muốn được triển khai thực hiện
tốt thì dứt khốt phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục đào tạo. Đặc biệt khi bước sang thế kỷ XXI, trên thế giới có nhiều biến
đổi. Khoa học và cơng nghệ sẽ có những bước tiến nhảy vọt... Nền kinh
tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong q trình phát triển lực

lượng sản xuất. Tồn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia.
Trước tình hình, Đảng ta tiếp tục có những định hướng quan trọng để
thúc đẩy sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX (2001) đã nêu bật những quan điểm sau: Phát triển giáo dục toàn
diện; xây dựng nền giáo dục theo hướng "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa"; thực hiện cơng bằng xã hội trong giáo dục; phát triển giáo dục đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, "học đi đôi với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội"; coi

18


trọng hướng nghiệp, dạy nghề, tập trung vào mục tiêu nhân lực. Trên cơ
sở những quan điểm trên, Đại hội IX đã đưa ra mục tiêu cho giáo dục
- đào tạo trong thế kỷ XXI như sau: "Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu
nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, lịng nhân ái, ý thức tơn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí
tiến thủ lập nghiệp, khơng cam chịu nghèo hèn. Đào tạo lớp người lao
động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu
quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và
công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và
nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh, nhà quản lý. Chính sách sử
dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi năng lực, phát huy mọi tiềm
năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước".
Những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo, các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
định hướng phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học cơng nghệ trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Hội nghị Trung
ương 2 (khóa VIII) đề ra, được bổ sung, hoàn thiện tại Đại hội IX của
Đảng đã được Hội nghị Trung ương 6 (khóa IX) khẳng định là hoàn toàn

đúng đắn và giữ nguyên giá trị. Sang thế kỷ XXI; những quan điểm, định
hướng phát triển đó tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp giáo dục - đào tạo phát
triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tiếp theo.
3. Đánh giá chung về tình hình phát triển của sự nghiệp giáo dục đào
tạo trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và những
giải pháp để tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
a. Đánh giá chung về giáo dục - đào tạo
19


Trong kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa IX) đã nêu được những
thành tựu cơ bản của giáo dục - đào tạo trong những năm qua. Hội nghị
khẳng định rằng nền giáo dục nước nhà có bước phát triển mới, cụ thể là:
nước ta đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ về phổ cập giáo dục tiểu học,
tiến hành phổ cập trung học cơ sở; trình độ dân trí và chất lượng nguồn
nhân lực được nâng lên; chất lượng giáo dục tồn diện có chuyển biến
bước đầu; sự nghiệp giáo dục ngày càng được đề cao và được toàn xã hội
quan tâm.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, giáo dục - đào tạo cịn tồn tại những
khó khăn, yếu kém sau: Đó là chất lượng giáo dục cịn thấp; cơ cấu giáo
dục còn bất hợp lý, mất cân đối giữa đào tạo nghề với đại học, giữa các
ngành, có chênh lệch lớn giữa các vùng miền; nhiều nhu cầu nhân lực
của nền kinh tế chưa được đáp ứng; về cách thức thi cử còn nặng nề; xu
hướng thương mại hóa một số hoạt động giáo dục đã gây ra nhiều hậu
quả nghiêm trọng, chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn.
b. Những nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp để tiếp tục phát triển sự
nghiệp giáo dục - đào tạo.
Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IX) đã đề ra 3 nhiệm vụ sau:
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, trong đó phải đẩy mạnh việc
đổi mới phương pháp dạy - học; đổi mới việc dạy và học ngoại ngữ trong

hệ thống giáo dục quốc dân; đưa tin học vào nhà trường và ứng dụng
cơng nghệ thơng tin truyền thơng vào q trình dạy học; xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; triển
khai hệ thống kiểm định chất lượng; nâng cao chất lượng giáo dục khơng
chính quy và đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình kiên cố hóa
trường học, lớp học.
20



×