Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Skkn một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn đọc thông qua việc dạy tập đọc cho học sinh lớp 2 theo chương trình gdpt 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 26 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung và bậc Tiểu học
nói riêng, hiện nay vấn đề đổi mới cách giảng dạy là mối quan tâm chung của tồn
xã hội. Đã có rất nhiều cách giảng dạy mới được đưa vào trường học. Chính sự đổi
mới phương pháp giáo dục bậc Tiểu học sẽ góp phần quan trọng cho việc thực
hiện mục tiêu của giáo dục phổ thông, đó là: “Giáo dục phổ thơng nhằm phát triển
tồn diện cho người học về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, kỹ năng cơ bản, phát
triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo; hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho người học
tiếp tục học chương trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia
lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” (Điều 29, Luật Giáo dục 2019)
Xu hướng chung của sự đổi mới phương pháp dạy học ở bậc Tiểu học là làm
sao để giáo viên không chỉ là người truyền thụ kiến thức, mà còn là người tổ chức,
định hướng cho học sinh hoạt động, để học sinh huy động vốn hiểu biết, kinh
nghiệm của bản thân vào việc chiếm lĩnh tri thức mới. Làm sao cho giáo viên giảng
ít nhưng thường xuyên làm việc với từng học sinh, học sinh hoạt động tích cực
nhiều hơn, học sinh được chủ động với nhiệm vụ học tập vừa sức được giao. Ngồi
ra, khi đứng trên bục giảng ln gặp những vấn đề và tình huống thật phong phú, đa
dạng, địi hỏi phải có cách xử lý, giải quyết sáng tạo. Trong phạm vi môn Tiếng Việt
ở Tiểu học, nhiều câu hỏi về nội dung kiến thức và phương pháp giảng dạy được đặt
ra từ thực tế lên lớp, đòi hỏi mỗi giáo viên phải tìm lời giải đáp nhằm phục vụ u
cầu giảng dạy.
Xuất phát từ mục đích đó mà trong từng môn học, tiết học, cần phải biết vận
dụng, kết hợp, đưa vào phương pháp dạy học sao cho phù hợp. Đây là vấn đề thiết
thực hưởng ứng cuộc vận động sâu rộng trong toàn ngành về đổi mới phương pháp
dạy học ở các trường Tiểu học.


Trong giai đoạn hiện nay, đọc là một kỹ năng quan trọng đối với tất cả học sinh
tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng. Đặc biệt, học sinh lớp 2 đang là


những đối tượng trực tiếp theo học Chương trình giáo dục phổ thơng (GDPT) 2018,
một chương trình học có những thay đổi tích cực và được thiết kế theo hướng mở.
Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã đặt kỹ năng đọc lên hàng đầu trong 4
kỹ năng cần chú trọng trang bị, đó là: “Đọc, viết, nói và nghe”. Vì đọc tốt sẽ giúp
các em có tinh thần tự giác trong học tập, là con đường giúp các em tích cực, ham
học và khám phá, đọc tạo động cơ và hứng thú trong việc học tập của các em học
sinh sau này. Hơn thế, q trình đi học ở cả bậc phổ thơng nói chung là quá trình
học sinh tiếp cận và hiểu tri thức, kinh nghiệm mang tính phổ thơng của nhân loại.
Để làm được điều này các em cần có một cơng cụ sắc bén đủ để tiếp cận kho tri thức
kinh nghiệm khổng lồ ấy. Cơng cụ đó chính là đọc. Vì vậy, mỗi học sinh cần rèn
luyện, hình thành cho bản thân kỹ năng đọc tốt nhằm góp phần đạt kết quả cao hơn
trong quá trình thu nhận kiến thức ở trường học và con đường khám phá thế giới
xung quanh.
Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn và trăn trở. Làm thế nào
để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? u cầu cần đạt mà Chương trình
giáo dục phổ thơng 2018 hướng tới? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những giải
pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh của lớp mình. Chính vì thế mà tôi
chọn nghiên cứu và thực nghiệm đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn
đọc thông qua việc dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2 theo Chương trình GDPT
2018” để cùng chia sẻ với đồng nghiệp trong giảng dạy.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là:
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng dạy học tại đơn vị, tìm và phân tích
ngun nhân nhân dẫn đến thực trạng.
- Giúp học sinh đọc đúng, đọc hay, đọc thành thạo và hiểu nội dung các văn
bản.


- Góp phần nâng cao hiệu quả rèn đọc thơng qua việc dạy Tập đọc cho học
sinh lớp 2 theo chương trình Chương trình giáo dục phổ thơng 2018 nói riêng và dạy

học Tiếng Việt ở trường Tiểu học nói chung.
- Đổi mới phương pháp dạy học.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu để nâng cao hiệu quả rèn đọc thông qua việc dạy Tập đọc cho học
sinh lớp 2 theo Chương trình GDPT 2018. Đưa ra biện pháp giúp học sinh đọc tốt.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
- Nội dung, chương trình sách Tiếng Việt lớp 2, bộ sách Cánh Diều, đặc biệt
là nội dung tiết Tập đọc và một số tài liệu tham khảo.
- Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn đọc thông qua việc dạy Tập đọc
cho học sinh lớp 2.
Phạm vi nghiên cứu:
- Học sinh lớp 2B và học sinh khối 2 trong trường Tiểu học đang giảng dạy.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra quan sát: Tìm hiểu thực trạng chất lượng dạy học ở
trường Tiểu học đang giảng dạy, đặc biệt là thực trạng đọc của học sinh lớp 2B,
năm học 2022 -2023.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp thực nghiệm: Làm thử và rút kinh nghiệm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.



II.NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận
“Đọc là một dạng hoạt động ngơn ngữ, là q trình chuyển dạng thức chữ viết
sang lời nói có âm thanh và thơng hiểu nó (ứng với các hình thức đọc thành tiếng),
là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa khơng có
âm thanh (ứng với đọc thầm).” (M.R. Lơvốp). Định nghĩa này thể hiện một quan
niệm đầy đủ về đọc. Đó là q trình giải mã hai bậc từ chữ đến âm thanh và từ âm

thanh tới nghĩa. Như vậy, đọc là phát âm thành tiếng và thơng hiểu những gì được
đọc.
Trong trường Tiểu học, đọc là một hoạt động thực hành. Nhiệm vụ quan trọng
nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ
các kĩ năng, cũng là các yêu cầu về chất lượng của “đọc” đó là: đọc đúng, đọc nhanh
(trơi chảy, mạch lạc), đọc có ý thức (đọc hiểu), đọc hay (đọc diễn cảm). Chúng được
rèn luyện đồng thời và hỗ trợ cùng nhau. Sự hoàn thiện một trong những kỹ năng
này sẽ có tác động tích cực đến những kỹ năng khác.
Năng lực đọc gồm 4 yêu cầu chất lượng đọc: đọc đúng, đọc nhanh (trơi chảy,
mạch lạc), đọc có ý thức (đọc hiểu), đọc hay (đọc diễn cảm). Bốn yêu cầu này có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Dạy đọc nhằm giáo dục lòng ham đọc sách của các
em. Việc dạy đọc sẽ bồi dưỡng tâm hướng thiện, yêu cái đẹp, thơng qua đó giáo dục
tư tưởng đạo đức cho học sinh. Có một số em đọc chậm, cịn đánh vần từng chữ nên
các em rất thụ động, e dè khơng có hứng thú trong học tập.
Đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh, cũng như cho phép thông hiểu nội dung
văn bản. Ngược lại, nếu khơng hiểu điều mình đang đọc thì khơng thể đọc lưu lốt,
trơi chảy. Nhiều khi, khó mà nói được rạch rịi kỹ năng nào làm cơ sở cho kỹ năng
nào. Nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì
vậy, trong dạy đọc, giáo viên khơng thể xem nhẹ yếu tố nào. Nhiệm vụ nữa của dạy
đọc là giáo dục lịng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc
với văn bản, làm việc với sách cho học sinh. Làm cho sách trở thành một sự tôn


sùng ngự trị trong nhà trường, đó là một trong những điều kiện để trường học thật sự
trở thành trung tâm văn hố. Nói cách khác, thơng qua việc dạy đọc, giáo viên phải
làm cho học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là lợi ích cho các em
trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc
biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
Tiết Tập đọc trong mơn Tiếng Việt cịn có nhiệm vụ đó là: Làm giàu kiến thức
về ngơn ngữ, đời sống và kiến thức vừa học cho học sinh, phát triển ngôn ngữ và tư

duy cho học sinh, giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho học
sinh.
2. Cơ sở thực tiễn
Năm học 2022- 2023 tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm và giảng dạy lớp 2B.
Qua thực tế giảng dạy và đã cùng chia sẻ, thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi thấy
được:
2.1. Thuận lợi
2.1.1. Đối với giáo viên
Nhà trường tổ chức sinh hoạt chuyên môn hàng tháng, tổ chức những buổi dạy
theo chuyên đề thảo luận về chun mơn. Từ đó rút ra những ý kiến hay, những đề
xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy. Trong đó có nội dung rèn đọc
cho học sinh lớp 1, 2, 3.
Bản thân đã được tập huấn chương trình lớp 2 theo Chương trình giáo dục phổ
thông mới 2018 nên nắm rõ mục tiêu, quan điểm xây dựng chương trình. Do đó, tơi
có sự chủ động trong việc lựa chọn các phương pháp, hình thức rèn đọc phù hợp đối
với học sinh.
Khi nhà trường họp thống nhất lựa chọn bộ sách giáo khoa phù hợp để phục
vụ công tác giảng dạy năm học, giáo viên đã được nghiên cứu kỹ và lựa chọn bộ
sách Cánh Diều làm công cụ hỗ trợ để phục vụ mục tiêu giáo dục Tiếng Việt lớp 2
theo chương trình tổng thể.


Bản thân tơi có kỹ năng phát âm chuẩn nên có nhiều thuận lợi trong việc dạy
đọc cho học sinh lớp 2.
Bản thân ln có ý thức trách nhiệm với học sinh, giảng dạy nhiệt tình, chữa
bài nghiêm túc, khách quan, tỉ mỉ.
Tôi luôn chủ động trong việc đổi mới phương pháp dạy học nên thường xuyên
vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo trong các tiết học.
2.1.1. Đối với học sinh
Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa (SGK) và đồ dùng học tập tối thiểu theo

Chương trình GDPT 2018.
Đa số các em đều ngoan, lễ phép và biết nghe lời.
Nhiều em tiếp thu nhanh, có sự chủ động, mạnh dạn, tự tin trong học tập và
biết chia sẻ, giúp đỡ bạn học tập.
2.2. Khó khăn
2.2.1. Đối với giáo viên
Đây là năm thứ hai thực hiện Chương trình GDPT 2018 đối với khối lớp 2 nên
vẫn cần có thời gian để nghiên cứu và trao đổi cùng đưa ra những điều chỉnh phù
hợp với thực tế lớp học.
2.2.2. Đối với học sinh
Một số em còn nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn trong giao tiếp.
Một số em cịn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn và chưa thực sự chú ý đến lời nói
trong giao tiếp hàng ngày.
Vốn từ của các em cịn q ít ỏi, việc hiểu nghĩa của từ cịn hạn chế.
Một số ít em, cơ quan phát âm chưa hồn chỉnh nên gặp nhiều khó khăn trong
khi nói, đọc. Các em đọc chưa trịn vành rõ tiếng.
Một số em, cách phát âm tùy tiện theo thói quen.


2.3. Thực trạng
Kết quả điều tra kỹ năng đọc của học sinh lớp 2B do tôi phụ trách trong đợt
khảo sát chất lượng đầu năm học như sau:

2.4. Nguyên nhân
Học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 2, các em vừa chuyển hoạt động chủ
đạo từ vui chơi sang học tập. Các em hiếu động, ham chơi, sự tập trung cho học tập
và chú ý chưa cao. Tư duy của các em nặng về trực quan cụ thể, tư duy trừu tượng
chưa phát triển. Do đó, giáo viên chủ động, linh hoạt sáng tạo trong quá trình tổ
chức các hoạt động dạy học thì sẽ đạt hiệu quả.
Bên cạnh đó, ngay từ khi bước vào lớp Một, học sinh đã được học Tiếng Việt.

Môn học này chiếm thời lượng lớn, thể hiện qua chương trình, thời khóa biểu nhằm
đạt được mục tiêu của mơn học, đó là Đọc, viết, nói và nghe. Ở lớp Một chủ yếu đọc
hiểu được bài văn, bài thơ ngắn có nội dung đơn giản cịn việc đọc trơi chảy, lưu
lốt, chưa địi hỏi cao. Nhưng lên lớp 2 thì u cầu ngồi đọc đủ, đọc đúng cịn phải
đọc lưu lốt, trơi chảy. Vì thế việc luyện kĩ năng đọc cho học sinh là rất cần thiết và
quan trọng.
Ngoài ra, những năm gần đây, những năm đầu áp dụng dạy- học theo Chương
trình GDPT 2018, các em đã nghỉ dịch và học online trong thời gian khá dài. Khi
đến thời gian thiết lập trạng thái “bình thường mới” nhiều em vẫn phải tiếp tục học
trực tiếp kết hợp trực tuyến. Từ đó ảnh hưởng nhiều đến kỹ năng đọc của các em.
Một nguyên nhân rất quan trọng nữa đó là thiếu sự quan tâm từ phụ huynh.
Mặt khác, học sinh đọc bài một cách thụ động, thậm chí có những em đọc to,
rõ ràng, nhưng khi được hỏi câu hỏi nội dung bài đọc thì các em cịn lúng túng chưa
trả lời được. Tốc độ đọc của các em còn chưa đạt yêu cầu, một số em còn phải đánh
vần.


Chương trình GDPT 2018 hướng tới đồng thời địi hỏi các em học sinh phải có
khả năng đọc tốt hơn, kỹ năng đọc cao hơn. Do đó, với thực trạng của học sinh hiện
nay thì cịn một tỷ lệ nhỏ số học sinh chưa đảm bảo yêu cầu.
Hiểu được nguyên nhân, tôi đã nghiên cứu và đưa ra “Một số biện pháp nâng
cao hiệu quả rèn đọc thông qua việc dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2 theo
Chương trình GDPT 2018”. Tôi tiến hành thực hiện các biện pháp như sau:
3. Các biện pháp
3.1. Biện pháp thứ nhất: Khảo sát phân loại học sinh
Việc trước tiên, ngay đầu năm học, tôi gặp gỡ với giáo viên chủ nhiệm năm lớp
1 để trao đổi để bước đầu nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý và khả năng đọc của
từng em.
Tiếp đó, tơi tiến hành kiểm tra các em về đọc thành tiếng và đọc hiểu kiến thức
trong bài để nắm rõ từng đối tượng, từng nhóm học sinh. Từ đó, tơi phân loại học

sinh, xác định biện pháp rèn luyện cho riêng từng em, từng nhóm. Cụ thể:
Nhóm thứ nhất: Gồm những em đọc to, rõ ràng, lưu loát. Những em này
thường rất tự tin, mạnh dạn trình bày trước lớp, tích cực giúp bạn nên trong mỗi giờ
học, tôi thường giao nhiệm vụ cao hơn như đọc diễn cảm hay đọc phân vai. Tơi lấy
các em đó làm nhân tố điển hình để nêu gương cho các bạn trong lớp.
Nhóm thứ hai: Gồm những em chưa thực hiện được xuất sắc các kỹ năng,
năng lực, phẩm chất như các em của nhóm một. Có thể các em đọc to nhưng chưa
lưu lốt, hoặc đọc trơi chảy nhưng cịn nhỏ…. Cũng có thể kỹ năng đọc tốt nhưng
thường nhút nhát hoặc ngại thể hiện nơi đơng người.... Do đó, giáo viên cần có sự
khích lệ và khen ngợi để các em bạo dạn thốt ra khỏi vịng an tồn.
Nhóm thứ ba: Gồm các em cịn gặp khó khăn khi đọc bài. Các em còn phải
đánh vần, đọc ê a kéo dài... thực sự nhút nhát, rụt rè trong mọi hoạt động, khơng
dám thể hiện hành vi, lời nói trước đông người. Giáo viên cần quan tâm đặc biệt,
dành thời gian, thường xuyên khích lệ động viên, tránh việc chê trách khiến các em


càng tự ti, chán học. Với những em này, tôi đã sắp xếp ngồi cùng em đọc tốt để có
sự hỗ trợ của bạn, giúp nhau tiến bộ.
3.2. Biện pháp thứ hai: Thành lập “Đơi bạn cùng tiến”, “Nhóm bạn cùng
học”
Khi đã nắm được những thông tin ở giải pháp thứ nhất, tơi lập thành các “Đơi
bạn cùng tiến”, “Nhóm bạn cùng học” trong các giờ Tập đọc. Trong mỗi đơi bạn,
mỗi nhóm bạn đó sẽ có ít nhất một em thuộc nhóm thứ nhất (đã nêu ở trên). Các em
đó được tơi khuyến khích thực hiện vai trị như một cơ giáo, thầy giáo “tí hon” để
chỉ bảo, hướng dẫn giúp bạn đọc bài. Tôi dành thời gian để bao quát, quan sát các
nhóm, có cơ hội sát sao đến từng học sinh.

“Đôi bạn cùng tiến”



“Nhóm bạn cùng học”
3.3. Biện pháp thứ ba: Tạo Hứng thú học tập cho học sinh.
Hứng thú là một động lực rất lớn để người học có thể say mê, tự giác nghiên
cứu và đạt hiệu quả cao trong quá trình học. Vì vậy, trong tiết học giáo viên cần
khơi dậy hứng thú cho học sinh bằng nhiều cách. Một trong cách tạo hứng thú cho
học sinh là giáo viên đổi mới hoạt động Khởi động cho mỗi tiết học. Chẳng hạn
như, giáo viên sẽ chuẩn bị tranh ảnh và sưu tầm các câu thơ, ca dao, tục ngữ, hò vè,
bài hát, vật thật… để gợi mở, dẫn dắt vào bài một cách tự nhiên, gần gũi. Từ đó,
khơng khí lớp học vui tươi, thoải mái giúp học sinh sẵn sàng tâm thế vui vẻ, hào
hứng. Việc tiếp thu kiến thức mới hiệu quả. Giờ Tập đọc chắc chắn đạt hiệu quả cao
nhất, đạt được mục tiêu tiết học.
Cách khác, giáo viên giao nhiệm vụ và gợi ý cho học sinh về nhà tìm, sưu tầm
tranh ảnh hoặc vật thật, thậm chí tự vẽ bức tranh có liên quan đến bài học để hơm
sau mang lên chia sẻ trước lớp.
Ví dụ, với bài đọc Cây xanh với con người (SGK Tiếng Việt 2, bộ Cánh Diều),
học sinh chuẩn bị và mang đến lớp một cây xanh để chia sẻ với lớp về cây này.


Đồ dùng trực quanCây xanh(vật thật)
Cũng là bài đọc ấy, giáo viên giao nhiệm vụ ở nhà cho học sinh tự sáng tạo nên
một cây từ những nguyên vật liệu có sẵn (vật liệu tái chế) để phục vụ yêu cầu của
bài đọc. Đồng thời, thông qua việc này giáo dục cho học sinh về ý thức bảo vệ môi
trường.

Đồ dùng trực quanCành đào(nguyên liệu tái chế).
Với bài Bà nội, bà ngoại (SGK Tiếng Việt 2, bộ Cánh Diều), học sinh mang
ảnh bà hoặc vẽ về bà của mình đến lớp để chia sẻ.


Tranh vẽChân dung bà ngoại

Qua việc học sinh được trực tiếp tham gia chuẩn bị đồ dùng trực quan, học
sinh sẽ có sự háo hức mong chờ đến tiết học sau để được chia sẻ về câu chuyện của
mình và được nghe các bạn chia sẻ. Để có thể chuẩn bị những tranh ảnh hoặc vật
thật mang đến lớp đòi hỏi các em phải ở nhà đọc bài trước và tìm hiểu bài trước.
Như vậy sẽ góp phần rèn kỹ năng đọc và hình thành cho em sự tự giác, phát triển
năng lực tự chủ, tự học và giải quyết vấn đề sáng tạo. Đây cũng là một số hình thức
để tổ chức cho hoạt động Chia sẻ về chủ điểm, hoạt động Khởi động thêm hấp dẫn
mới lạ, thu hút, gây hứng thú hơn cho học sinh và tăng sự u thích của học sinh với
mơn học. Kỹ năng đọc của các em sẽ chắc chắn đạt hiệu quả cao hơn.
Ngoài ra, giáo viên đọc mẫu là trực quan sinh động và gây hứng thú cho học
sinh. Điều đó có tác dụng làm cho các em bắt chước theo. Khi đọc người giáo viên
đọc đúng, đọc chuẩn (không đọc theo phương ngữ địa phương của bản thân mình
hay của đại đa số học sinh cho các em dễ hiểu), đọc rõ ràng, trôi chảy, mạch lạc,
ngắt nghỉ hơi đúng, nhấn giọng đúng những từ gợi tả, gợi cảm. Giáo viên cũng cần
chú ý biểu lộ ngôn ngữ cơ thể (hành động, cử chỉ, nét mặt, thái độ...) của mình để
làm nổi bật hình ảnh, tính cách của nhân vật tác giả thể hiện trong bài. Đó chính là


con đường ngắn nhất để các em hình thành kỹ năng đọc đúng đọc hay,
đọc diễn cảm.
3.4. Biện pháp thứ tư: Chuẩn bị kỹ càng, chu đáo cho giờ học
Giáo viên khi dạy đọc cho học sinh nên chú trọng đến các kĩ năng:
- Đọc câu (đọc trơn kết hợp với luyện đọc từ khó, giải nghĩa từ)
- Đọc đoạn (đọc trơn)
- Đọc toàn bài (đọc trơn)
- Đọc ngắt nghỉ, nhấn giọng đúng (đọc diễn cảm)
Trong mỗi tiết Tập đọc, giáo viên cần linh hoạt thực hiện các khâu bước sao
cho đảm bảo việc rèn kỹ năng đọc phù hợp với từng đối tượng học sinh. Ví dụ: Khi
đọc câu (đọc trơn kết hợp với luyện đọc từ khó, giải nghĩa từ), cần chú trọng đến các
em gặp khó khăn vì đây là bước đọc vỡ văn bản. Số lượng tiếng từ ít hơn so với khi

đọc đoạn nên các em dễ dàng nhận ra lỗi đọc sai từ đó giáo viên kết hợp sửa lỗi phát
âm cho cá nhân, nhóm, lớp (chú trọng những lỗi nhiều em đọc sai). Đây cũng là
hoạt động cá nhân trong giờ Tập đọc.
Bước đọc đoạn (đọc trơn), đọc toàn bài là sự kết hợp giữa hoạt động cá nhân,
nhóm và cả lớp. Tơi xác định, qua bước này, học sinh được rèn năng lực tự học, hợp
tác, chia sẻ, bày tỏ ý kiến, thể hiện năng lực bản thân. Nếu giáo viên chuẩn bị chu
đáo bước này trong mỗi giờ học thì học sinh có cơ hội rèn kỹ năng đọc một cách tốt
nhất.
Đọc diễn cảm là kết quả của quá trình thực hiện các bước rèn đọc trước đó.
Đây là cơ hội cho học sinh trình bày tồn bộ văn bản sau khi đã luyện đọc đúng, đọc
ngắn nghỉ, nhấn giọng. Nó thể hiện mức độ cảm thụ của bản thân về bài tập đọc và
đạt được kỹ năng đọc ở mức độ cao.
- Đọc hiểu:


Hoạt động Đọc hiểu ứng với rèn học sinh đọc thầm và đọc- hiểu nội dung văn
bản. Đọc thầm tốt giúp học sinh có thể học tốt các mơn học khác cũng như vận dụng
hiểu biết văn bản vào thực tiễn.
Trong thực tế, khi dạy kĩ năng đọc ở học sinh ln diễn ra q trình chuyển
hố từ đọc thành tiếng sang đọc thầm, chuyển từ đọc to sang đọc bằng mắt, từ ngơn
ngữ bên ngồi chuyển hố thành ngơn ngữ bên trong, đây là quá trình cần thiết.
Đối với hoạt động Đọc hiểu, ta cần nắm được học sinh của mình khó hiểu
những từ ngữ, câu, đoạn, nội dung nào trong bài đọc… giáo viên xác định tính vừa
sức khi dạy và có cách tháo gỡ những khó khăn đó. Nếu giáo viên đảm bảo các quy
trình nói trên trong dạy kĩ năng đọc cho học sinh, bước đó được lặp lại 4 tiết tập đọc
(2 bài đọc)/tuần thì học sinh sẽ nắm rõ và ghi nhớ cách học tập đọc. Các em hiểu và
trả lời đúng ý các câu hỏi về nội dung văn bản. Khi nắm được nội dung bài, các em
sẽ cảm nhận và thể hiện đọc văn bản một cách hiệu quả nhât. Đó cũng là mục tiêu
cần đạt của việc dạy Tập đọc đối với học sinh lớp 2 theo Chương trình GDPT 2018.
3.5. Biện pháp thứ năm: Tổ chức trò chơi học tập

Trong Chương trình GDPT 2018, việc giảng dạy ứng dụng trị chơi trong dạy
học rất quan trọng. Khi bắt đầu dạy chương trình GDPT 2018, Đảng, Nhà nước và
Bộ rất quan tâm và đã đầu tư máy móc, trang thiết bị điện tử cho lớp học và giáo
viên. Ngồi ra cịn đầu tư nhiều đồ dùng cần thiết cho việc dạy để tạo hứng thú cho
học sinh, nhằm giúp các em ham học và có cơ hội để tìm tịi, khám phá (tivi, tranh
ảnh, vật thật, mơ hình ...). Tơi đã phát huy việc những đồ dùng, trang thiết bị có sẵn.
Ngồi ra tơi cũng chủ động sưu tầm, làm mới cải tiến một số đồ dùng sao cho phù
hợp với thực tế của trường, lớp, địa phương.
Các trị chơi tơi thường áp dụng cho hoạt động Khởi động. Tôi lồng ghép các
yêu cầu về đọc thành tiếng, đọc - hiểu hay giải nghĩa từ về những phần kiến thức
của bài đọc tiết trước hoặc bài đọc tiết này vào các câu hỏi của trị chơi. Thơng qua
trị chơi này, học sinh vừa có thể ơn lại kiến thức cũ hoặc tiếp nhận thêm kiến thức
mới một cách chủ động, mới mẻ và đầy hào hứng.


Cùng một mục đích, giáo viên có thể thay đổi hình thức tổ chức trị chơi sao cho
phù hợp với bài học hay tình hình lớp học cũng sẽ khiến học sinh hứng khởi, mong
chờ hơn khi học tập. Chẳng hạn như, giáo viên tổ chức chơi theo đội để tạo khơng khí
thi đua, tính tập thể, đồn kết, gắn bó.... Hoặc là chơi cá nhân để tạo cơ hội cho nhiều
đối tượng học sinh cùng có cơ hội để tham gia học tập, phát huy tính chủ động, linh
hoạt, mạnh dạn, tự tin....
Ví dụ, tơi áp dụng trị chơi học tập Ơ cửa bí mật vào hoạt động Khởi động của
bài đọc Một tiết học vui (SGK Tiếng Việt 2, bộ Cánh Diều). Với các câu hỏi để học
sinh trả lời nhằm vừa củng cố kiến thức bài trước là bài Cô giáo lớp em, vừa dẫn dắt
vào bài mới một cách đầy tò mò và thú vị như sau:
Câu hỏi 1: Em hãy đọc diễn cảm bài thơ Cơ giáo lớp em.
Câu hỏi 2: Từ Ghé có nghĩa là gì?
Câu hỏi 3: Các từ ngữ yêu thương, ngắm mãi nói lên tình cảm của học sinh đối với
cơ giáo như thế nào?
Câu hỏi 4: Bài thơ Cô giáo lớp em giúp em hiểu điều gì?

Bức tranh bí mật là bức tranh minh họa của bài đọc Một tiết học vui.

Trị chơi học tập “Ơ cửa bí mật”
Đây là phương pháp mà được tôi áp dụng xuyên suốt trong các tiết học. Tôi
nhận thấy, học sinh cả lớp đều hứng thú và chú ý hơn qua các trò chơi. Từ đó, giúp


các em có sự tập trung, lắng nghe từ các bạn, được tham gia học tập và có cơ hội thể
hiện bản thân.
3.6. Biện pháp thứ sáu: Giáo viên luôn ln động viên, khuyến khích
Trong giờ học Tập đọc, tơi dành lời khen ngợi, nêu gương những em có giọng
đọc diễn cảm, có vốn từ phong phú, trình bày tự tin, sáng tạo. Học sinh sẽ phấn
khởi, vui, tự hào về bản thân. Các em tiếp tục phát huy năng lực bản thân.
Với những học sinh cịn gặp ít nhiều khó khăn trong khi đọc: đọc bé, đọc
chưa lưu lốt, đọc chậm… tôi dành nhiều thời gian hơn quan tâm đến các em. Tôi
khen ngợi, động viên những tiến bộ dù rất nhỏ để khích lệ sự cố gắng của các em.
Từ đó các em có niềm tin, có thêm động lực để phấn đấu vươn lên. Đôi khi, tôi cũng
chuẩn bị những phần quà nhỏ, có ý nghĩa thiết thực như bút chì, cục tẩy, thước kẻ,
tấm thiệp hay những cuốn sách, truyện tranh phù hợp với lứa tuổi… để tặng cho các
em học sinh có nhiều cố gắng, có tiến bộ trong lớp…. Điều này giúp động viên các
em, làm cho các em thấy rằng mọi cố gắng của mình ln được ghi nhận và trân
trọng. Cũng thơng qua phần thưởng sách, truyện hay báo, giáo viên tiếp tục khuyến
khích học sinh tự đọc sách báo vì đọc sách báo cũng chính là hoạt động luyện đọc.


Niềm vui của các em khi được nhận phần thưởng
3.7. Biện pháp thứ bảy: Chú trọng việc kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập của học sinh trong quá trình dạy và học Tập đọc
Xác định được vai trò của việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
trong q trình dạy và học Tập đọc, tơi đánh giá học sinh theo tiêu chí: vì sự tiến bộ

của học sinh, sự cố gắng cả một quá trình học tập, giúp học sinh phát huy nhiều nhất
khả năng của bản thân, tuyệt đối không chê trách một cách thái quá
Tôi thường xuyên kiểm tra và ghi chép, theo dõi kết quả đọc bài để kịp thời
đưa ra biện pháp hỗ trợ dạy Tập đọc một hữu hiệu nhất nhằm từng bước cải thiện,
nâng cao chất lượng học tập của các em.
Trong kiểm tra đánh giá học sinh, tôi luôn thể hiện sự nghiêm túc, công
bằng và tôn trọng học sinh. Cách đặt vấn đề nhẹ nhàng, khéo léo không gây áp lực,
sợ hãi cho các em. Đối với học sinh có khó khăn trong học tập, giáo viên cần quan


tâm đặc biệt, sau đó giao các nhiệm vụ vừa sức như: đọc một khổ thơ, một đoạn
ngắn, một lời nhân vật … và nhắc nhở các em cố gắng hết sức theo khả năng của
mình rồi dần dần các em cảm nhận được niềm vui, say mê luyện đọc. Việc học sinh
tự đánh giá lẫn nhau trong các giờ học, mọi lúc, mọi nơi không chỉ tạo cơ hội cho
học sinh phát triển ngơn ngữ nói mà các em còn được bộc lộ ý kiến các nhân, nêu
nhận xét góp phần đánh giá kết quả học tập của bạn.
3.8. Biện pháp thứ tám: Thường xuyên trao đổi với cha mẹ học sinh về
tình hình học tập của các em
Giáo viên cần đặc biệt quan tâm tới việc phối hợp giữa nhà trường - gia đình
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Tơi thường xun thơng báo tình hình học
tập của học sinh cho gia đình biết để phụ huynh quan tâm, theo sát, động viên các
con qua việc gọi điện thoại, cũng có khi đến thăm gia đình học sinh, gặp gỡ trao đổi
trực tiếp. Phụ huynh là người sẽ sát cánh bên giáo viên, thay giáo viên hỗ trợ các em
khi học ở nhà. Đối với học sinh chậm tiến, khó khăn về việc kĩ năng đọc, giáo viên
gặp và trao đổi với phụ huynh đưa ra kế hoạch giáo dục cụ thể giúp học sinh học tốt
hơn, nâng dần chất lượng học tập của lớp. Đặc biệt, trong thời thời công nghệ số
phát triển, việc trao đổi thông tin qua các phương tiện Zalo, Facebook … rất thuận
tiện. tôi cũng áp dụng biện pháp này trong việc trao đổi với phụ huynh.



Trao đổi phối hợp với phụ huynh qua zalo
Ngoài ra, tơi cịn đăng tải những video dạy Tập đọc lên YouTube cá nhân
nhằm chia sẻ kiến thức, cách dạy đến phụ huynh để hỗ trợ phụ huynh cách hướng
dẫn ôn tập thêm cho học sinh khi ở nhà.



×