Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận cao học triết quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật này vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.17 KB, 22 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC

Đề tài:
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật này vào việc xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
CHƯƠNG 1: LƯỢNG SẢN XUẤT , QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ
QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP GIỮA CHÚNG..............................3
1.1.

Lực lượng sản xuất.................................................................3

1.2.

Quan hệ sản xuất.....................................................................4

1.3.

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.........................................6
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUÂT
PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT VÀO XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN


NAY................................................................................................10
2.1. Trước thời kì đổi mới................................................................10
2.2. Từ năm 1986 đến nay...............................................................12
2.3. Liên hệ thực tế..........................................................................17
KẾT LUẬN....................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................20


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi con người biết lao động thì phương thức sản xuất cũng ra đời
, trong mỗi giai đoạn phát triển lại ứng với một phương thức sản xuất khác
nhau. Loài người đã trải qua năm phương thức sản xuất theo trật từ từ thấp
lên cao: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa , xã hội chủ nghĩa. Đó là q trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử ,
thể hiện tính liên tục lịch sử.
Từ thế kỉ thứ XIX, Mác và Ăngghen đã đề ra quy luật về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Sự tác động của quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất đã được loài người qua những giai đoạn phát triển khác nhau của
lịch sử thừa nhận. Đó chính là quy luật vận động và phát triển của xã hội
qua sự thay đổi kế tiếp từ thấp đến cao của các phương thức sản xuất. Với
mong muốn được tìm hiểu rõ về quy luật quan hệ giữa quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất và tìm hiểu xem quy luật này được vận dụng như thế
nào vào nước ta, tác giả quyết định chọn đề tài “ Quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự
vận dụng quy luật này vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ những vấn đề quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tác giả đánh giá thực trạng nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam và sự ảnh hưởng của quy luật này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
1


Phạm vi nghiên cứu : Nghiên cứu cả về quan điểm của Mác về quy luật
sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và quan điểm này trong thực tế thị trường Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp và nhiệm vụ nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu : Tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp duy vật biện chứng
+ Phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử
+ Một số phương pháp khác như : logic, thống kê, tổng hợp, hệ thống,..v..v
Nhiệm vụ nghiên cứu : Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề sau :
- Về lý luận
+ Lực lượng sản xuất
+ Quan hệ sản xuất
+ Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
- Về vận dụng
+ Thực trạng Việt Nam trước thời kì đổi mới
+ Thành tựu nước ta đạt được từ năm 1986 đến nay
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất ; tác giả làm rõ những tác động của quy luật này đến
nền kinh tế thị trường Việt Nam , đồng thời đề xuất những quan điểm, các

giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.
6. Kết cấu của tiểu luận :
Ngoài mở đầu; Kết luận; Tài liệu tham khảo ;Nội dung tiểu luận gồm có :
Chương I: Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và quy luật về sự phù
hợp giữa chúng.
Chương II: Vận dụng quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất vào vào việc xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2


CHƯƠNG 1:
LƯỢNG SẢN XUẤT , QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ QUY LUẬT VỀ SỰ
PHÙ HỢP GIỮA CHÚNG
1.1. Lực lượng sản xuất
Để tiến hành sản xuất vật chất, con người cần phải thiết lập mối quan
hệ với giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên bằng sức mạnh tổng hợp của mình,
đó chính là sức mạnh của sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất.
Sức mạnh đó được khái quát thành khái niệm lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là khái niệm chi mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong quá trình sản xuất, thể hiện năng lực thực tiễn của con người,
được tạo thành từ sự kết hợp giữa con người với tư liệu sản xuất trong quá
trình sản xuất vật chất của xã hội.
Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất gồm có người lao động và tư liệu
sản xuất.
Người lao động với sức mạnh trí tuệ, thể chất, kinh nghiệm và kỹ năng
lao động,... là nhân tố giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất. VI.
Lênin khẳng định: "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động. Khẳng định người lao động giữ vai trò quyết
định trong lực lượng sản xuất là vì suy cho cùng thì các tư liệu sản xuất chỉ là

sản phẩm lao động của con người, do người lao động tạo ra và không ngừng
đổi mới, cải tiến. Giá trị và hiệu quả của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào
trình độ sử dụng và sáng tạo của người lao động. Về thực chất, những tư liệu
sản xuất chủ yếu của xã hội, đặc biệt là cơng cụ lao động chỉ là sự phản ánh
trình độ của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên.
Tư liệu sản xuất: là toàn bộ những yếu tố, phương tiện dùng để tiến
hành sản xuất ra của cải vật chất, gồm có tư liệu lao động và đối tượng lao
động. C. Mác đã chỉ rõ “cả tư liệu lao động và đối tượng lao động đều biểu
hiện ra là tư liệu sản xuất”.

3


Đối tượng lao động bao gồm những bộ phận của giới tự nhiên được đưa
vào trong sản xuất, trong đó có loại có sẵn trong tự nhiên, có loại do con
người tạo ra gọi là nguyên liệu.
Tư liệu lao động “là một vật, hay là toàn bộ những vật mà con người
đặt ở giữa họ và đối tượng lao động và được họ đặt làm vật truyền dẫn hoạt
động của họ vào đối tượng ấy”. Tư liệu lao động gồm có cơng cụ lao động và
điều kiện vật chất cần thiết của quá trình lao động (những yếu tố tham gia
gián tiếp vào q trình sản xuất). Trong đó, cơng cụ lao động là yếu tố động
nhất, quan trọng nhất trong tư liệu sản xuất, tác động đến sự biến chuyển xã
hội, và cũng là một trong những yếu tố đặc trưng cho mỗi thời đại. - Hiện
nay, trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày
càng to lớn. Khoa học thâm nhập vào mọi yếu tố của quá trình sản xuất, từ
người lao động đến từ liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động. Khoa học
phát triển dẫn đến sự ra đời của những ngành sản xuất mới, máy móc thiết bị
mới, công nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới... khiến cho năng
suất lao động ngày càng cao.
1.2. Quan hệ sản xuất

Theo C. Mác: "Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên
hệ và quan hệ nhất định với nhau, và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là
việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khn khổ những mối liên hệ và quan hệ đó".
Nghĩa là, trong quá trình sản xuất vật chất, con người không những phải thiết
lập mối quan hệ với tự nhiên, mà con người đồng thời phải thiết lập mối quan
hệ với nhau, quan hệ đó được gọi là quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là khái niệm chỉ quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất, gồm có ba mặt cơ bản: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu
sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối
sản phẩm lao động.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, quan hệ này do con
người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản
4


xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. C. Mác chỉ rõ
rằng: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những
quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc vào ý muốn của họ tức là những
quan hệ sản xuất"'. Quan hệ sản xuất gồm có ba mặt: quan hệ về sở hữu đối
với tư liệu sản xuất; quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất; quan hệ phân
phối sản phẩm sản lao động.
Thứ nhất, về quan hệ sở hữu, là quan hệ giữa các tập đoàn người trong
việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất. Trong quá trình phát triển của lịch sử đã
xuất hiện hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng.
Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào
trong tay một số ít người, cịn đại đa số khơng có hoặc có rất ít tư liệu sản
xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong
đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột, xuất hiện
trong các chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản. Sở hữu công cộng là
loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của

cộng đồng. Nhờ đó, các thành viên của mỗi cộng đồng bình đẳng với nhau
trong tổ chức lao động và phân phối sản phẩm, sở hữu công cộng xuất hiện
trong thời kỳ nguyên thủy và sẽ được thiết lập lại ở chủ nghĩa cộng sản. Quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ bản, quy định các quan
hệ xã hội khác. Bởi vì, quan hệ này quy định địa vị của từng giai cấp trong hệ
thống sản xuất xã hội, quy định cách thức mà các giai cấp tổ chức quản lý sản
xuất, đồng thời quy định phương thức phân phối sản phẩm cho các giai cấp
theo địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội.
Thứ hai, quan hệ về tổ chức, quản lý sản xuất. Về thực chất, tổ chức
quản lý sản xuất là việc điều khiển và tổ chức cách thức vận động các nhân tố
của một nền sản xuất nhất định. Quan hệ về tổ chức, quản lý sản xuất là quan
hệ giữa những người có quyền tổ chức, lãnh đạo quá trình sản xuất và những
người phải chấp hành sự tổ chức, lãnh đạo đó. Quan hệ này do quan hệ sở hữu
quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Chẳng hạn như trong
5


thời kỳ nguyên thủy, tương ứng với quan hệ sở hữu công cộng là cách thức tổ
chức quản lý sản xuất theo kiểu tự quản, mọi người cùng làm, địa vị như nhau
trong quá trình sản xuất. Trong các xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư
bản chủ nghĩa, tương ứng với chế độ sở hữu tư nhân, các giai cấp nắm giữ tư
liệu sản xuất trở thành giai cấp có vai trị tổ chức, quản lý sản xuất, các giai
cấp khơng có tư liệu sản xuất trở thành người bị quản lý, bị điều khiển theo sự
tổ chức của giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất. Quan hệ này có khả năng tác
động trực tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả của mỗi nền sản xuất cụ thể. Nó
có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm q trình sản xuất.
Thứ ba, quan hệ về phân phối sản phẩm. Phân phối sản phẩm là sự
phân chia kết quả của quá trình lao động cho những người tham gia vào quá
trình sản xuất theo tỷ lệ tham dự của họ vào q trình đó, tỷ lệ này do bản
chất của chế độ xã hội quy định. Quan hệ này phụ thuộc vào quan hệ sở hữu

và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất. Biểu hiện ở chỗ, giai cấp nào nắm giữ tư
liệu sản xuất và đóng vai trị tổ chức quản lý sản xuất thì giai cấp đó có quyền
quyết định trong phân phối sản phẩm, thực hiện việc bóc lột thơng qua phân
phối sản phẩm. Giai cấp khơng có tư liệu sản xuất trở thành giai cấp bị bóc lột
trong q trình phân phối. Tuy nhiên, do có khả năng kích thích trực tiếp vào
lợi ích của người lao động nên nó tác động đến thái độ của con người trong
lao động sản xuất, do đó nó cũng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát
triển.
Ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ
thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không
ngừng của lực lượng sản xuất, là hình thức của sự sản xuất xã hội.
1.3.

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Hai mặt của sản xuất xã hội là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
khơng tồn tại biệt lập mà có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó lực lượng
sản xuất giữ vai trò quyết định.
6


Phát triển là quy luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Bởi vậy,
sự phát triển của sản xuất xã hội là quy luật tất yếu. Sự phát triển của sản xuất
xã hội được bắt đầu từ cơng cụ lao động. Sở dĩ như vậy là vì, trong q trình
lao động sản xuất, con người khơng ngừng tích lũy tri thức, kinh nghiệm sản
xuất. Những tri thức, kinh nghiệm đó là cơ sở cho việc cải tiến công cụ lao
động. Khi công cụ lao động được cải tiến, phương thức lao động thay đổi,
năng suất lao động tăng lên... tức là lực lượng sản xuất phát triển. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ giữa con người với nhau trong

việc chiếm hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm cũng
thay đổi. Chẳng hạn, nếu dệt vải bằng khung cửi, cá nhân người thợ dệt có thể
tự tiến hành và họ có thể tự giải quyết mọi vấn đề liên quan đến hoạt động dệt
vải. Nhưng dệt vải bằng máy thì vốn, nguyên vật liệu, thị trường... phải đủ
lớn, phải có phân cơng, hợp tác lao động chặt chẽ, phải có hợp đồng lao động,
quy định tiền lương, quy chế thưởng phạt... Như vậy, sự thay đổi của lực
lượng sản xuất kéo theo sự thay đổi của quan hệ sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất vừa tiệm tiến, vừa nhảy vọt, theo
từng nấc thang hay trình độ khác nhau. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện
ở: trình độ của cơng cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ
ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất; kinh nghiệm và kỹ năng lao
động của con người, trình độ phân cơng lao động xã hội.
Khi lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp kém, phân cơng lao động
khơng phát triển, cá nhân có thể tiến hành q trình sản xuất tương đối độc
lập... tức là lực lượng sản xuất mang tính chất cá nhân. Khi lực lượng sản xuất
phát triển ở trình độ cao hơn, phân cơng lao động trở nên sâu sắc; hoạt động
sản xuất của mỗi cá nhân phụ thuộc chặt chẽ vào các cá nhân khác... tức là lực
lượng sản xuất mang tính chất xã hội. Như vậy, tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất thay đổi thì cách thức mà con người quan hệ với nhau trong

7


sản xuất cũng phải thay đổi. Nói cách khác, quan hệ sản xuất phụ thuộc vào
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất còn là nhân tố quyết định đối với
sự thay đổi của các quan hệ xã hội. K. Marx viết: “Những quan hệ xã hội đều
gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng
sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay

đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống cuả mình, lồi người thay đổi tất cả
những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có
lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản cơng
nghiệp”.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và có tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chỉ khi nào quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì các
hoạt động sản xuất mới có thể tiến hành một cách bình thường, sản xuất xã
hội mới có thể phát triển. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là
“hình thức phát triển” tất yếu của lực lượng sản xuất, cả ba mặt của quan hệ
sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng và kết hợp tư liệu sản xuất
với sức lao động. Với trạng thái phù hợp như vậy, lực lượng sản xuất sẽ có
điều kiện phát triển tất cả các khả năng của nó. Ngược lại, khi quan hệ sản
xuất khơng phù hợp với lực lượng sản xuất, các yếu tố cấu thành của lực
lượng sản xuất sẽ không được sử dụng và phát huy hết các khả năng. Điều đó
có nghĩa là sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ bị kìm hãm. Vì vậy, đảm
bảo sự phù hợp giữa hai mặt của sản xuất xã hội là đòi hỏi khách quan trong
mọi giai đoạn phát triển của sản xuất xã hội.
Lực lượng sản xuất không ngừng vận động, phát triển. Do đó, quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp với lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cho lực lượng
sản xuất phát triển dần dần trở nên không phù hợp, mâu thuẫn với lực lượng
sản xuất, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn đó sẽ phát
8


triển và ngày càng trở nên gay gắt và phải được giải quyết bằng việc thay thế
quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
“Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất

vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó
các lực lượng sản xuất từ trước đến nay vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình
thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu một cuộc cách mạng xã
hội”. Đó là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật này tồn tại, hoạt
động trong tất cả các giai đoạn phát triển của sản xuất xã hội. Quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quy luật phổ biến, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của xã hội
loài người, từ chế độ cộng sản nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế
độ phong kiến, chế độ TBCN và đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn
đầu là CNXH.
Như vậy, ở giai đoạn cuối mỗi phương thức sản xuất, khi lực lượng sản
xuất đã thay đổi về chất và mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất thì phải
tiến hành cách mạng xã hội để xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ
sản xuất mới phù hợp. Trong quá trình xây dựng xã hội mới, trước hết phải
quan tâm phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời phải kịp thời phát hiện, điều
chỉnh những yếu tố không phù hợp trong quan hệ sản xuất theo nguyên tắc
quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.

9


CHƯƠNG II:
VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUÂT PHÙ HỢP VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀO XÂY
DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, sự tác động của “quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ pháT triển của lực lượng sản xuất” tạo ra nguồn gốc

và động lực cơ bản nhất đối với sự vận động, phát triển của nền sản xuất vật
chất và do đó là sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội; sự vận
động, pháp triển của lịch sử nhân loại từ phương thức sản xuất thấp lên
phương thức sản xuất cao hơn. Quy luật này còn là cơ sở để giải thích về
nguồn gốc sâu xa của tồn bộ các hiện tượng xã hội, sự biến đổi trong đời
sống chính trị.vì vậy việc vân dụng quy luật này trong việc xây dựng, phát
triển đất nước là điều hợp lí, tuy nhiên không phải quốc gia nào, đất nước nào
cũng vận dụng nó một cách hiệu quả, việc vận dụng quy luật này cần có sự
cân nhắc kĩ lưỡng. Và Việt Nam ta cũng là một trong những nước có sử dụng
quy luật này.
2.1. Trước thời kì đổi mới
Thời kỳ trước đổi mới, việc vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mắc nhiều sai lầm.
Trong điều kiện lực lượng sản xuất còn nhiều hạn chế nhưng Đảng ta chỉ chú
trọng thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, khơng thực hiện đa dạng
hóa các hình thức sở hữu; tổ chức quản lý sản xuất theo cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp; phân phối sản phẩm mang nặng tính bình qn, cào bằng;...
quan hệ sản xuất này khơng phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, do
vậy lực lượng sản xuất đã bị kìm hãm.
Trước đây, nước ta là một nước nơng nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực
lượng sản xuất thấp kém, trình độ quản lí thấp với nền sản xuất nhỏ tự cung,
tự cấp, tự túc. Hơn nữa, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến trải
10


qua hai cuộc đấu tranh, nhiều lần bị đế quốc Mĩ bao vây nền kinh tế vì vậy
lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát triển.
Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước ta
trong suốt mấy chục năm qua, thực tiễn cho thấy những mặt được cũng như
những mặt cũng như hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy

luật kinh tế cũng như quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất vào thực
tiễn ở nước ta, với đặc điểm của nước ta là Nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc
hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, con trâu đi trước cái cày đi sau, trình độ
quản lý thấp cùng với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc là chủ yếu. Mặt khác
nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến
tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận nhiều mặt, nhất là về kinh
tế. Do vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát triển.
Sau khi giành được chính quyền,nước ta vẫn là một nước nông nghiệp,
lực lượng sản xuất chưa phát triển, chủ yếu với tư liệu lao động thô xơ, lực
lượng lao động cịn thấp kếm, tụt hậu, khơng động đều… trước u cầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nước ta đã vứt bỏ hết các yếu tố tư bản chủ nghĩa với
quan niệm tư bản chủ nghĩa là xấu,khơng áp dụng nó chỉ cho tồn tại những
quan hệ chủ nghĩa xã hội,nước ta xóa bỏ nhanh chế độ tư hữu chuyển sang
chế độ cơng hữu với hai hình thức tồn dân và tập thể lúc đó được coi là điều
kiện chủ yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã hội hố sản xuất cũng như sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Song trong thực tế cách làm này đã
khơng mang lại kết quả như mong muốn, vì nó trái quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, trong khi lực
lượng sản xuất cịn yếu kém thì quan hệ sản xuất lại quá phát triển, phát triển
với mức độ cao, đã để lại hậu quả là: kinh tế kiệt quệ, nguy cơ nghèo đói tăng
cao,việc tiến hành tập thể nhanh chóng tư liệu sản xuất dưới hình thức cá
nhân bị tập trung dưới hình thức sở hữu cơng cộng, người lao động bị tách
khỏi tư liệu sản xuất, khơng làm chủ được qúa trình sản xuất, phụ thuộc vào
lãnh đạo hợp tác xã, họ cũng không phải là chủ thể sở hữu thực sự dấn đến tư
11


liệu sản xuất trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho tập thể, kinh tế quốc doanh
thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành.
Về pháp lý tư liệu sản xuất cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động

là chủ sở hữu có quyền sở hữu chi phối, định đoạt tư liệu sản xuất và sản
phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ là người làm công ăn
lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng số lượng và chất
lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp…dẫn tới tình trạng đơn vị kinh
tế mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh
kém hiệu quả nhưng lại khơng ai chịu trách nhiệm, khơng có cơ chế giàng
buộc trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình.
Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có
quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi. Tuy vậy, trong
quá trình lãnh đạo xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế Đang ta đang vận dụng
quy luật sao cho quan hệ sản xuất ln ln phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, trên thực tế Đảng và Nhà nước ta đang từng bước điều
chỉnh quan hê san xuất cả tầm vi mô và vĩ mô thời coi trọng việc đẩy mạnh
phát triển lực lương sản xuất. Điều đó đã có một tác động tích cực đối với nền
kinh tế nước ta.
2.2. Từ năm 1986 đến nay
Đối với đất nước của chúng ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường
hợp với xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Tuy nhiên, chúng
ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nên phải trải qua thời kỳ quá độ Đi lên chủ nghĩa
xã hội, nước ta thực hiện chính sách từng bước đổi mới đất nước,đưa đất nước
phát triển tiến lên mục tiêu đã đề ra.
Cùng với sự phát triển của sản xuất, khoa học cũng khơng ngừng phát
triển có vai trị ngày càng to lớn với sản xuất. Sau thời kì phát triển lâu dài và
sự phát triển nhanh chóng mang tính cách mạng trong nững thập niên gần đây
, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu to lớn
12


của cuộc cách mạng khoa học công nghệ là cơ sở xuất hiện cho nền kinh tế

mới , nền kinh tế tri thức. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương “ Giáo dục và
đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu , là nền tảng và là
động lực thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đại hội lần thứ X
của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2006 đã vạch ra những mục tiêu chung
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và khoa học,công nghệ ở nước ta
trong những năm tới là “Sớm đưa nước ta thốt khỏi tình trạng kém phát
triển ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã vạch ra mục tiêu: “Từ nay đến năm
2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước cơng
nghiệp”.Lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại,
phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc,
điện khí hố cơ bản được thực hiên trong cả nước, năng suất lao động xã hội
và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay. Khoa hoc tự
nhiên và cơng nghệ có khả năng nắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu
mới nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Khoa học xẫ hội và nhân
văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng hình thái ý nghĩa xã hội mới.
Sự phát triển của khoa học công nghệ đủ sức cung cấp luận cứ cho viêc hoạch
định những chính sách chiến lược và quy hoạch phát triển
Quan hệ phân phối, mặc dù bị phụ thuộc vào quan hệ sở hữu và vào
trình độ tổ chức quản lý nhưng cũng có vị trí độc lập tương đối. Phân phối kết
quả của sản xuất xã hội trực tiếp quyết định mức độ thực hiện các lợi ích kinh
tế, tức là quan hệ phân phối trực tiếp ảnh hưởng đến động lực của các hoạt
động kinh tế. Như vậy, quan hệ phân phối có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển của sản xuất xã hội. Do đó, khi xây dựng và củng cố quan hệ sản
xuất, nếu chỉ chú ý tới quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý là không đủ, mà còn
phải rất chú ý tới quan hệ phân phối. Bởi vậy, trong thời kỳ quá độ lên CNXH
ở nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương: Thực hiện mục tiêu
13



“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng
mạnh mẽ và khơng ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân
dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm
giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thốt nghèo và từng bước khá giả hơn.
Tại Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới
tồn diện đất nước, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm với nội dung
cơ bản là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Từ đó đến nay, đất nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, thốt
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và luôn đạt mức tăng trưởng cao.
Những thành tựu đó khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới nói
chung và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng. Điểm
nổi lên là kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu … vì vậy khâu
trọng yếu mà chúng ta phải xây dựng đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên cũng không phải đạt được kết quả ngay tức thì, mặc dù lực
lượng sản xuất của nước ta khơng ngừng phát triển, trình độ của người lao
động không ngừng được nâng lên công tác giáo dục và đào tạo được chú
trọng… nhưng chưa đúng yêu cầu của thời kì đổi mới, khơng có tính cạnh
tranh. Tư liệu sản xuất tuy phát triển song vẫn còn thấp kém, lạc hậu, không
đều,sở hữu tư liệu sản xuất dẫn đến tình trạng phân hóa giàu nghèo. Nhưng
Đảng và Nhà nước nhạy bén trước thời cuộc khắc phục tình hình,với việc đưa
ra quan hệ sản uất bằng con đường đúng đắn với cơ chế tồn tại nhiều thành
phần kinh tế do đó tồn tại cùng một lúc nhiều quan hệ sản xuất khác nhau
tương ứng với trình độ phát triển cao, thấp khác nhau, với lực lượng sản xuất
thấp kém không đồng đều nước ta sử dụng quan hệ sản xuất khơng đồng đều,
khắc phục tình trạng lực lượng sản xuất thấp kém lại sử dụng quy luật quan hệ
sản xuất quá cao hoặc không phù hợp diều này hợp quy luật bước đầu vận
dụng đúng quy luật.

14


Hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện cơng cuộc cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Muốn làm tốt
trọng trách này, thì phải tạo điều kiện cho bản thân nền kinh tế, trong đó
thành phần kinh tế tư nhân là một thành phần rất năng động, hiệu quảTrong
suốt q trình đổi mới 25 năm qua, Ðảng ta khơng ngừng tìm tịi, phát triển
nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trên
tổng thể và đối với từng yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất. Ðó là một q
trình vận động, phát triển liên tục về nhận thức thông qua lãnh đạo, chỉ đạo
thực tiễnCơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong thời gian
qua đã đạt được những thành tựu to lớn:
1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản
cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước q trình đổi
mới đời sống KTXH và giải phóng sức sản xuất
Giai đoạn 2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt
7%. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu, nhưng thu
hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI
thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn
đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra
và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên
31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng
13,8 tỉ USD, vượt 16%. GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD, chỉ số HDI
đã liên tục tăng cao.Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200
nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các
nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Hệ thống kết cấu hạ tầng có bước phát triển khá, đáp ứng yêu cầu trước
mắt và tọa được những năng lực gối đầu cho thời kì sau. Cơ sở vật chất của
các ngành giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ , y tế, văn hóa, thể duc

thể thao…đều được tang lên đáng kể.

15


Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mơ,
chất lượng hình thức và cơ sở vật chất, chất lượng giáo dục – đào tạo từng
bước chuyển biến phát triển Vấn đề việc làm và đời sống của nhân dân được
giải quyết có nhiều hiệu quả cơng tác xóa đói giảm nghèo được triển khai
mạnh mẽ, rộng khắp nhất là ở các vùng cao, xã nghèo, đạt được kết quả
tốt.Đời sống nhân dân của người vùng cao được cải thiện rõ rệt , các công tác
xã hội ngày càng nhiều, được mở rộng và đạt được những kết quả tốt.
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động khơng ngồi biện
chứng nội tại của phương thức sản xuất, vấn đề công nghiệp hoá gắn chặt với
hiện đại hoá, trước hết phải được xem xét từ tư duy triết học. Trước khi đi vào
cơng nghiệp hố – hiện đại hố và muốn thành cơng trên đất nước thì phải có
tiềm lực về kinh tế con người, trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan
trọng. Ngồi ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ phát triển lực lượng sản xuất đây mới là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình cơng nghiệp hố – hiện đại hố với
tiềm năng lao động lớn cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao
động nhưng cơng cụ của chúng ta cịn thơ sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nước
ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề
của đất nước về công nghiệp hoá – hiện đại hoá trước hết trên cơ sở một cơ
cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp
qui luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp. Cùng với thời cơ lớn,
những thử thách ghê gớm phải vượt qua để hồn thành sự nghiệp cơng nghiệp
hố – hiện đại hố đất nước vì dân giàu nước mạnh cơng bằng văn minh hãy
cịn phía trước mà nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải nhận thức
đúng đắn về qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát

triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
16


Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hóa, y tế, giáo
dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực
hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng
thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi
xã hội...
Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng
tương đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh
tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước
quan trọng. Đạt được những thành tựu như trên là do Đảng và Nhà nước ta
vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất ở nước ta đem lại.
2.3. Liên hệ thực tế
Một trong những nội dung quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa
đó là giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển lành mạnh hóa xã
hội, thực hiện cơng bằng xã hội . Điều đó khơng những tạo được động lực
mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất mà cịn thực hiện bình đẳng trong các quan
hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết
các quan hệ xã hội.
Việt Nam hiện nay phải có những giải pháp tạo nhiều việc làm mới, cải
thiện điều kiện làm việc, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người
lao động. Cải cách chế độ tiền lương đối với cán bộ cơng chức, khắc phục

tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý. Thực hiện các chương trình xóa đói
giảm nghèo , chăm sóc những gia đình chính sách đồng thời đẩy mạnh các
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm , giữ gìn trật tự và an tồn kỉ cương xã
hội. Kiên quyết đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng , kinh doanh bất hợp
pháp , gian lận trong thương mại,…. cùng những tiêu cực khác do mặt trái của
kinh tế thị trường gây ra.
17


Bên cạnh đó, giải quyết tốt những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm. Đây là một cuộc cách mạng
xã hội, chuyển đổi nền kinh tế mà công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính khoa học vừa mang tính cách
mạng.
Xây dựng nền kinh tế thị trường từ kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, chủ trương lãnh đạo của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn.
Tuy nhiên trên con đường tiến tới mục tiêu chúng ta đã vấp phải những sai
lầm nghiêm trọng. Nhìn lại lịch sử thế để rút những bài học kinh nghiệm,
hướng tới một tương lai tốt đẹp , phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội một cách toàn diện.

18



×