Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Một số giải pháp kỹ thuật trong sản xuất giống tôm sú chất lượng cao potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.49 KB, 5 trang )

Một số giải pháp kỹ thuật trong sản xuất giống tôm sú
chất lượng cao

Con giống có chất lượng cao là phải hội đủ các tiêu chuẩn trước
khi thả nuôi như quy trình nuôi ổn định, khi sản xuất ra con
giống có chiều dài thân phù hợp ngày tuổi, màu sắc đẹp, độ
đồng đều cao, sức chống chịu tốt khi gây sốc, không mang một
số mầm bệnh nguy hiểm khi xét nghiệm như MVB, đốm trắng,
đầu vàng.
Khi có con giống chất lượng tốt, sẽ có sức đề kháng bệnh
cao, góp phần giúp người nuôi thương phẩm đạt hiệu quả và đó
chính là thước đo chất lượng giống tốt. Chúng tôi xin nêu một số
giải pháp cơ bản nhằm giúp các chủ trại tham khảo, không ngoài
mục đích sản xuất có hiệu quả.

Xử lý nguồn nước: Nguồn nước mặn cung cấp cho sản
xuất giống là khâu đầu tiên và cũng rất quan trọng, nhất là trong
giai đoạn ấu trùng nauplius và zoea. Hiện nay người sản xuất
chưa quan tâm đầy đủ tới chất lượng nguồn nước thông qua các
chỉ tiêu thủy lý, thủy hóa quan trọng, mà chỉ mới chú ý tới độ
mặn, pH, còn các chỉ tiêu khác như các kim loại nặng, chất hữu
cơ, tổng lượng vi khuẩn hiếu khí ít được quan tâm, dẫn tới sử
dụng các hóa chất xử lý nước không thích hợp hoặc không đúng
liều lượng, ảnh hưởng tới kết quả sản xuất. Theo kinh nghiệm
của chúng tôi, quá trình xử lý nguồn nước cơ bản như sau:

Nguồn nước cung cấp cho trại đục, chất hữu cơ cao, cần có
bể lắng. Sử dụng thuốc tím (KMnO
4
) nồng độ 0,5 - 2ppm (dựa
vào thực tế của từng vùng nước và định tính để xác định nồng


độ thích hợp, nghĩa là sau khi xử lý 24 giờ nước lắng trong và
mất màu đỏ của thuốc tím, là nồng độ thích hợp. Về định lượng,
rất khó xác định do trong nước có rất nhiều chất bị KMnO
4
ôxy
hóa như COD, Fe, H
2
S, ). Nếu không loại bỏ các chất hữu cơ
trước khi xử lý chlorin sẽ sinh ra chloramin (NH
2
Cl) rất độc, có
hại cho ấu trùng (nồng độ 0,01ppm đã gây độc) trong giai đoạn
đầu. Sau khi xử lý thuốc tím, chuyển qua bể xử lý có sử dụng
chlorin (chất lượng tốt) diệt trùng với nồng độ 30 - 40ppm tùy
thuộc vào chất lượng nguồn nước. Sau 24 giờ sử dụng sodium
thiosulfat 20- 30ppm loại bỏ chlorin dư thừa, nếu sau 48 giờ
giảm lượng sodium thiosulfat xuống 10 - 15ppm, nồng độ
sodium dư thừa > 0,5ppm không có lợi cho giai đoạn nauplius
và zoea. Khi lấy nước ra bể ương cần bổ sung EDTA (Ethylene
diamine tetracetate) 5 - 10ppm để khử kim loại nặng có trong
nước, tránh hại cho ấu trùng. Nguồn nước có hàm lượng kim
loại nặng cao, tôm thường khó chuyển giai đoạn, giai đoạn
nauplius chuyển zoea thường bị hao hụt nhiều, các râu bị đứt,
gẫy. Ngoài ra, còn xử lý bằng Ozon, (cũng sử dụng tốt cả trong
sản xuất giống) nhưng đầu tư ban đầu hơi cao.

Chất lượng tôm bố mẹ: Tôm sú bố mẹ sử dụng để sản
xuất giống hiện nay chủ yếu từ đánh bắt ngoài tự nhiên. Việc lựa
chọn tôm có chất lượng tốt vẫn dựa vào cảm quan là chính. Tôm
bố mẹ ở vùng biển sâu dưới 50m nước thường có chất lượng tốt

hơn ở vùng biển nông. Cần lựa chọn kỹ tôm đực sử dụng cho tự
giao phối hay cấy tinh và tôm từ biển tốt hơn tôm trong cửa sông
và đầm tự nhiên. Khi sử dụng tôm đực trong các đầm tự nhiên,
tỷ lệ PL bị nhiễm MBV thường > 50% tổng số mẫu kiểm tra.
Không cho tôm mẹ đẻ quá nhiều lần. Qua nghiên cứu của chúng
tôi, tôm mẹ đẻ 5 lần chưa có sự khác biệt về tỷ lệ sống từ
nauplius lên PL và từ PL lên tôm thương phẩm. Trong thực tế
hiện nay có nhiều trại cho đẻ quá nhiều lần, có những con tôm
cái cấy tinh 4 - 5 lần và cho đẻ trên 15 lần, ảnh hưởng nhiều tới
kết quả sản xuất giống, làm cho tỷ lệ sống qua các giai đoạn ấu
trùng giảm nhiều và nếu chăm sóc không tốt đa số ấu trùng chết.

Chế độ dinh dưỡng: Hiện nay thức ăn sử dụng trong sản
xuất giống có rất nhiều loại và nguồn cung cấp. Các trại có xu
hướng sử dụng các loại thức ăn giá rẻ, nhằm hạ giá thành, song
giá rẻ khó đảm bảo chất lượng tốt. Ðể có con giống chất lượng
cao, cần sử dụng loại thức ăn chất lượng tốt, giúp tôm khỏe
mạnh, phát triển nhanh và tăng sức đề kháng bệnh, như vậy nuôi
tôm thương phẩm mới đạt hiệu quả. Nguời nuôi tôm thịt sẵn
sàng mua tôm giống giá cao, khi chất lượng con giống tốt.
Trong sản xuất giống có hai nguồn thức ăn quan trọng góp phần
tạo ra con giống tốt, đó là: tảo tươi nuôi sinh khối + trứng
Artemia và thức ăn tổng hợp dạng không tan trong nước.

- Tảo nuôi sinh khối: Tảo tươi là loại thức ăn giàu vitamin
và HUFA, sử dụng rất tốt cho giai đoạn zoea, kết hợp với thức
ăn tổng hợp. Tảo sử dụng thông thường hiện nay là Chaetoceros
sp có hàm lượng HUFA cao chiếm 16,4% trọng lượng khô. Khi
sử dụng tảo tươi, màu sắc của PL sáng đẹp, các sắc tố chạy dọc
phía trên chân bụng đậm và sắc nét.


- Trứng Artemia: Hiện nay, có nhiều nguồn cung cấp
trứng Artemia, xuất xứ chủ yếu là Nga, Trung Quốc, Mỹ, với
kích thước trứng, tỷ lệ nở và chất lượng (hàm lượng HUFA) rất
khác nhau. Cần lựa chọn trứng có chất lượng tốt và việc sử dụng
đúng cách sẽ rất có hiệu quả. Cần quan tâm nhất đến hàm lượng
HUFA trong trứng Artemia HUFA có tác dụng giúp tôm hấp thu
vitamin dễ dàng, có đầy đủ vitamin, tôm sẽ đề kháng bệnh tốt và
ngược lại. Hiện nay, nguồn trứng có hàm lượng HUFA cao nhất,
> 19mg/g trứng xuất xứ từ Sóc Trăng và Bạc Liêu (quen gọi là
trứng Vĩnh Châu), tiếp đến là nguồn trứng từ Mỹ có hàm lượng
5 - 11mg/g trứng. Các nguồn trứng khác có hàm lượng thấp, có
loại chỉ đạt 2,3mg/g trứng, Kinh nghiệm phân biệt chất lượng
trứng tốt và xấu như sau:

Sau khi nơ, màu sắc nauplius Artemia hồng sẫm, thu gom
đem cô đặc, đựng vào ly nhựa, cho vào ngăn đá, khi sử dụng rã
đông, nauplius Artemia vẫn sống là loại trứng có chất lượng cao.
Ngược lại, nauplius Artemia màu hồng nhạt, cô đặc, đựng vào ly
nhựa, cho vào ngăn đá, khi sử dụng rã đông, nauplius chết là
loại trứng có chất lượng xấu. Ðể Artemia có hàm lượng dinh
dưỡng cao nhất, sau khi trứng nở thu hoạch ngay và cho tôm ăn.
Nếu chưa cho ăn, cần bảo quản ở 4
0
C để kìm hãm sự chuyển
giai đoạn của nauplius Artemia, tránh tổn hao năng lượng. Nếu
sử dụng nguồn trứng Artemia có chất lượng thấp, cần béo hóa
bằng HUFA (có bán trên thị trường) 5 - 6 giờ trước khi cho tôm
ăn sẽ mang lại hiệu quả hơn. Lượng trứng Artemia cho 1 triệu
PL15 phải bảo đảm > 6kg, loại trứng có tỷ lệ nở trên 80% và

hàm lượng HUFA > 6mg/g trứng, sẽ cho chất lượng giống tốt.

Chế độ chăm sóc: Hạn chế tối đa sử dụng kháng sinh, chỉ
sử dụng khi rất cần thiết. Nếu sử dụng nhiều kháng sinh sẽ làm
tôm giảm tăng trưởng và ngăn cản cơ chế tự miễn dịch của tôm.
Sử dụng chế phẩm vi sinh chủ yếu gồm 3 dòng vi khuẩn chính
Nitrosomonas, Nitrobacter và Bacillus để phân hủy các chất hữu
cơ, giảm chất độc, hạn chế thay nước, ổn định môi trường nuôi.
Khi có qui trình sản xuất giống ổn định, tỷ lệ sống thường dao
động trong khoảng 30 - 50% và đảm bảo chất lượng. Không nên
dùng các biện pháp kỹ thuật nhằm đạt tỷ lệ sống cao bằng mọi
giá (như dùng kháng sinh, nâng nhiệt, chất kích thích.) vì như
vậy giống tôm sẽ khó có chất lượng tốt

×