MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................1
Chương 1: NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH...................................................6
Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẠO LỰC CÁCH MẠNG...........34
Chương 3: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KHỞI NGHĨA VŨ TRANG.............45
Chương 4: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NỀN QUỐC
PHỊNG TỒN DÂN.........................................................................59
Chương 5: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ
TRANG NHÂN DÂN..........................................................................73
Chương 6: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG..........89
Chương 7: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ........102
Chương 8: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH, VÀO VIỆC
TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ
QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY...................120
KẾT LUẬN......................................................................................................................136
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................ 139
MỞ ĐẦU
NHẬP MƠN TƯ TƯỞNG QN SỰ HỒ CHÍ MINH
Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc - Danh nhân văn hoá thế
giới,là lãnh tụ vĩ đại nhất của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, chiến
sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người để lại di sản tư
tưởng to lớn cho dân tộc và góp phần làm phong phú văn hóa nhân loại.
Hồ Chí Minh là nhà qn sự xuất sắc của dân tộc, Người sáng lập, giáo
dục và rèn luyện Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong di sản tư tưởng của
Người về cách mạng Việt Nam, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là bộ phận
quan trọng, góp phần hình thành đường lối qn sự của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đưa Cách mạng Tháng Tám đến thành công, kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ thắng lợi.
1. Mục tiêu, nhiệm vụ môn học
a) Khái niệm và mục tiêu môn học
Tư tưởng quân sự là hệ thống các quan điểm về quân sự và các vấn đề
có liên quan đến quân sự của cá nhân, giai cấp hoặc tổ chức nhất định. Đó là
tư tưởng về chiến tranh, quan hệ chiến tranh và chính trị, chiến tranh và hịa
bình, phương thức tiến hành chiến tranh, xây dựng lực lượng vũ trang, khoa
học nghệ thuật quân sự...
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm về bạo lực
cách mạng; về khởi nghĩa vũ trang; về xây dựng nền quốc phịng tồn dân;
về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về chiến tranh nhân dân; về nghệ
thuật quân sự, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết
quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa, phát triển sáng tạo tư tưởng quân sự của dân tộc, tiếp thu giá trị tinh
hoa tư tưởng quân sự của nhân loại.
1
Học phần tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là môn học bắt buộc, thuộc
kiến thức chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh. Với thời lượng 3 đơn vị học
trình, mơn học có mục tiêu nhằm giáo dục cho sinh viên:
- Về kiến thức: Hiểu rõ nguồn gốc hình thành và phát triển; nội dung cơ
bản tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và sự vận dụng của cách mạng Việt Nam
hiện nay.
- Về kỹ năng: Biết sử dụng những kiến thức của học phần để nhận thức
sâu sắc hơn những vấn đề có liên quan đến chuyên ngành tư tưởng Hồ Chí
Minh, với các bộ mơn khoa học xã hội và nhân văn; giúp cho sinh viên vận
dụng vào trong cuộc sống.
- Về ý thức, tư tưởng: Nhận thức được tính khoa học, cách mạng, những
quan điểm của tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh; có hành động cụ thể thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
b) Nhiệm vụ môn học
- Làm rõ nguồn gốc và quá trình hình thành và phát triển tư tưởng quân
sự Hồ Chí Minh.
- Làm rõ nội dung và giá trị lý luận - thực tiễn tư tưởng quân sự Hồ Chí
Minh về bạo lực cách mạng; khởi nghĩa vũ trang; xây dựng nền quốc phịng
tồn dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; chiến tranh nhân dân; nghệ
thuật quân sự.
- Làm rõ sự vận dụng tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh vào việc tăng cường
quốc phịng bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
2. Kết cấu nội dung, phương pháp và ý nghĩa nghiên cứu
a) Kết cấu nội dung
Ngoài mở đầu, môn học được kết cấu gồm 8 chương:
Chương 1: Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng quân
sự Hồ Chí Minh
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng
Chương 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang
2
Chương 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phịng tồn dân
Chương 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân
Chương 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh cách mạng
Chương 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật quân sự
Chương 8: Vận dụng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh vào việc tăng
cường quốc phòng, bảo vệ vững chắc tổ quốc việt nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay
b) Phương pháp nghiên cứu, học tập
Thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở phương pháp luận
khoa học để nghiên cứu tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa duy vật về
lịch sử là chìa khóa để lý giải q trình xuất hiện và phát triển tư tưởng quân
sự Hồ Chí Minh. Chỉ có đứng vững quan điểm duy vật lịch sử mới có thể
đánh giá khoa học q trình hình thành, phát triển tư tưởng quân sự của
Người trong những điều kiện cụ thể.
Phương pháp lịch sử được đặt lên hàng đầu trong nghiên cứu tư tưởng
quân sự Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ quá trình phát triển tư tưởng của Người
với những điều kiện cụ thể, trong mối liên hệ cụ thể giữa chúng với nhau.
Nhờ phương pháp lịch sử mà có thể xem xét tư tưởng quân sự của Người
trong thời điểm cụ thể với điều kiện, không gian, thời gian xác thực với
những chi tiết và trong mối quan hệ giữa sự kiện với nhau.
Người nghiên cứu, học tập tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh cần biết cách
khai thác bộ sách Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2011 (gồm 15 tập).
Nghiên cứu tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh ngồi ra cịn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như các phương pháp lịch sử và lơgíc, phân tích
và tổng hợp... trong đó quan trọng nhất là phương pháp lịch sử và phương pháp
lơgíc cùng sự kết hợp hai phương pháp ấy. Nắm vững mối quan hệ giữa tính
3
Đảng và tính khoa học trong nghiên cứu tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa lý luận và chính trị, đây là hai mặt làm tăng tính hấp
dẫn của khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh.
* Thời gian nghiên cứu gồm 45 tiết, 3 đơn vị học trình, trong đó lý
thuyết: 25 tiết; thảo luận 15 tiết; tiểu luận, kiểm tra: 5 tiết.
* Nội dung ơn tập
Câu 1. Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về chiến tranh cách
mạng và giá trị lý luận, thực tiễn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN hiện nay
Câu 2: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân và giá trị lý luận, thực tiễn trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay
Câu 3: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang
và giá trị lý luận, thực tiễn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN hiện nay
Câu 4: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng
và giá trị lý luận, thực tiễn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN hiện nay
Câu 5: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về nghệ thuật
quân sự và giá trị lý luận, thực tiễn trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
Câu 6: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc
phịng tồn dân và giá trị lý luận, thực tiễn trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN hiện nay
Tham gia giảng dạy môn học là các giảng viên của Khoa tư tưởng
Hồ Chí Minh và giảng viên mời. Giảng dạy và học tập theo phương pháp
tích cực: Kết hợp các phương pháp truyền thống như thuyết trình kết hợp
nêu vấn đề; thảo luận nhóm; tự nghiên cứu; thực hành...
4
Đánh giá môn học theo quy chế của Học viện Báo Chí và Tun
truyền như sau: Điểm mơn học là kết quả tổng hợp của điểm kiểm tra
giữa kỳ (hệ số 0,15) với thảo luận, thực hành (hệ số 0,15) và thi hết môn
(hệ số 0,7).
c) Ý nghĩa học tập
- Nghiên cứu, học tập tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn
trong việc giáo dục truyền thống cách mạng và chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự
hào về lãnh tụ Hồ Chí Minh, có phẩm chất chính trị, trung thành với Đảng, với
giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.
- Môn học có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục đạo đức cách mạng,
bồi dưỡng ý chí chiến đấu, bản lĩnh vững vàng và kiên định ý chí cách mạng,
có căn cứ khoa học đấu tranh chống xuyên tạc lịch sử của kẻ thù.
- Nghiên cứu tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, mỗi người có điều kiện
nâng cao trình độ lý luận chính trị, củng cố kiến thức chuyên mơn và năng lực
vận dụng thực tiễn cách mạng, tính kiên định cách mạng trước những diễn
biến phức tạp của tình hình trong nước, quốc tế; có thêm nghị lực để giải
quyết những nhiệm vụ chính trị của Đảng và đơn vị mình.
5
Chương 1
NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh được hình thành trên những cơ sở lý
luận và thực tiễn quan trọng, gắn bó chặt chẽ với tư tưởng chính trị, phục
vụ mục tiêu chính trị mà cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Kết quả tổng hoà của những tiền đề lý luận và thực tiễn cách mạng
Việt Nam, xu thế thời đại, trong đó lý luận quân sự của chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở lý luận chủ yếu, giữ vai trò quyết định bản chất của tư tưởng
qn sự Hồ Chí Minh.
I. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH
1. Kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc Việt Nam
Tư tưởng quân sự Việt Nam được hình thành, phát triển qua hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Do phải thường xuyên chống lại
những kẻ thù xâm lược lớn hơn mình nhiều lần về kinh tế và quân sự; trong
điều kiện phải lấy yếu chống mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia, dân tộc ta đã tạo nên nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam.
Y1 - Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp thu
những giá trị truyền thống quân sự của dân tộc, Người sớm thấy sự hạn
chế trong con đường cứu nước của các nhà yêu nước đương thời, từng
bước vận dụng truyền thống quân sự dân tộc, hình thành tư tưởng quân
sự của mình.
Người chỉ rõ: Chúng ta có quyền tự hào về những trang sử vẻ vang
của thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,
v.v... Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị
ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng.
6
Người nhắc nhở: Dân ta phải biết sử ta đồng thời phải phát huy truyền
thống ấy vào sự nghiệp cách mạng. Người học tập và nâng cao tư tưởng dân
tộc lên tầm cao mới chống chủ nghĩa đế quốc thực dân giải phóng dân tộc.
- Thơng qua thực tiễn chỉ đạo chuẩn bị lực lượng, tiến hành khởi nghĩa
vũ trang, chiến tranh cách mạng, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển truyền
thống quân sự vũ trang toàn dân, cả nước cùng đánh giặc, xây dựng nền tảng
xã hội bền vững, dựa vào dân, lấy dân làm gốc.
Đặc điểm nổi bật trong các cuộc chiến tranh là dựa vào nhân dân vốn có
lịng nồng nàn u nước, qui tụ sức mạnh toàn dân, lấy dân làm gốc.
Thế kỷ XIII, Trần Quốc Tuấn với tư tưởng: Vua tơi đồng lịng, anh em
hòa thuận, nhà nước chung sức; phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền
gốc. Hội nghị Diên Hồng là bài học về sự phát triển huy cao độ nhân tố chính trị,
tinh thần của tồn dân, tồn qn với ý chí quyết chiến, quyết thắng.
Thế kỷ XV, Nguyễn Trãi khẳng định: Chở thuyền là dân, lật thuyền
cũng là dân; phải yêu thương và nuôi dưỡng dân nơi thơn cùng xóm vắng
khơng có tiếng ốn hận sầu than.
Chế độ ngụ binh ư nông được áp dụng trong thời Lý, Trần, Lê là kinh
nghiệm hay của phương thức kết hợp kinh tế với quốc phòng; bảo đảm tập
trung lao động cho nơng nghiệp, duy trì lực lượng qn đội thường trực cần
thiết trong thời bình, vừa có thể huy động tối đa trai tráng, nhân lực khi có
chiến tranh.
Nhiều triều đại trong lịch sử dân tộc ta đã thực hiện các chính sách tiến
bộ, phù hợp lịng dân, chăm lo bồi dưỡng sức dân tộc ta đã thực hiện các chính
sách tiến bộ, phù hợp lịng dân, chăm lo bồi dưỡng sức dân, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho dân đã tạo ra sức mạnh của dân tộc. Trên nền tảng xã
hội bền vững ổn định, tinh thần yêu nước được phát huy. Nhân dân ai cũng là
lính và nhất tề cùng đứng lên đánh giặc cứu nước cứu nhà.
Y2 - Hồ Chí Minh, kế thừa và phát triển quan điểm đoàn kết của
dân tộc theo ba tầng vua tôi - anh em - cả nước lên một trình độ mới.
7
Trong thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang đã kêu gọi tồn dân đồn kết,
đồng lịng hành động cứu nước, cứu nhà: Đồng bào ta quyết nối gót người
xưa, phấn đấu hy sinh đặng phá tan xiềng xích và dân ta xin nhớ chữ đồng.
Đồng tình, đồng sức, đồng lịng, đồng minh; Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết.
Thành công, thành công, đại thành công. Người luôn chăm lo xây dựng đoàn
kết trong Đảng, Nhà nước, đoàn kết lực lượng vũ trang, đoàn kết toàn dân;
đoàn kết quốc tế.
Quan điểm đồn kết của Hồ Chí Minh là sự đồn kết phải có tổ chức
chặt chẽ trong Mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng lãnh đạo, nhân dân là
người chủ của khối đại đoàn kết ấy. Để đoàn kết nhân dân tham gia cách
mạng, cần chú ý chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân về
mọi mặt.
Để huy động và phát huy được sức dân, Người đặt mục tiêu giải phóng
dân tộc gắn liền giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người coi đó là
ham muốn tột bậc của mình: Nước ta hồn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự
do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Người
khẳng định: Dân là gốc của cách mệnh; gốc có vững cây mới bền, xây lầu
thắng lợi trên nền nhân dân; công nông là gốc cách mệnh.
Ý3 - Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh ,HCM luôn đặt dân là
gốc, là chủ thể. Đây là nguyên tắc chi phối mọi lĩnh vực quân sự từ đường
lối đến xây dựng lực lượng và phương pháp đấu tranh.
Hồ Chí Minh coi trọng yếu tố chính trị, tinh thần, ý chí tự lực, tự
cường để chuẩn bị cho tồn dân bước vào kháng chiến…. Hội nghị chính trị
đặc biệt (1964) do Hồ Chí Minh chủ trì là hình mẫu của cuộc Hội nghị Diên
Hồng trong thế kỷ XX nhằm phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng
của toàn dân, toàn quân, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm
lược.
Kế thừa truyền thống và cách đánh giặc độc đáo của dân tộc: Đánh để
cho đen răng, đánh để cho tóc dài trong kháng chiến chống quân Minh của
8
Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh đã phát triển và nâng thành nghệ thuật
quân sự trong kháng chiến chống Pháp với quan điểm trường kỳ kháng chiến.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Người khẳng định tinh thần: Cuộc kháng chiến
chống Mỹ có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa , song
nhân dân Việt Nam quyết khơng sợ. Với tư tưởng đó chúng ta đã làm thất bại
chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của kẻ thù lớn mạnh hơn ta.
Hồ Chí Minh tiếp thu và phát triển binh pháp mọi nhà của tổ tiên ta để
chủ trương phát động toàn dân khởi nghĩa, toàn dân đánh giặc, toàn diện
kháng chiến. Mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài,
nhà nhà thi đua; người người thi đua... toàn dân đánh giặc.
Nét độc đáo trong truyền thống đánh giặc của dân tộc ta là luôn giành
thế chủ động trong chiến tranh, buộc địch phải đánh theo sở trường của ta,
không để địch phát huy thế mạnh, sở trường của chúng; quyết chiến chiến
lược kết hợp vừa đánh vừa đàm, buộc chúng phải xin hàng rút lui về nước. Hồ
Chí Minh phát triển tư tưởng đó với cách tác chiến kết hợp đánh địch trên mặt
trận chính trị, quân sự, binh vận và ngoại giao, kết hợp đánh lớn với đánh vừa
và đánh nhỏ.
Trong chỉ đạo chiến tranh, Người luôn luôn nêu cao tư tưởng chủ động
kéo địch xuống thang mà đánh; tư tưởng đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy
nhào. Người luôn phân tích và chỉ rõ địch cậy vào qn đơng, vũ khí hiện đại
nên muốn đánh nhanh, thắng nhanh, do đó ta lại phải dùng lối đánh lâu dài,
vừa đánh vừa bồi dưỡng và xây dựng lực lượng của ta...
Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta ln ln chủ động chuẩn bị lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang và điều kiện, tạo ra thời cơ và đón lấy thời cơ trong
khởi nghĩa vũ trang, trong chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc.
Khi còn ở Trung Quốc, nhận thấy thời cơ giành độc lập cho dân tộc xuất
hiện, Hồ Chí Minh đã chủ động về nước để chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa. Khi
về nước, năm 1941. Người chỉ đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng thành lập
Mặt trận Việt Minh, mở rộng lực lượng chính trị, đồn kết dân tộc. Khi có điều
9
kiện thì xây dựng lực lượng vũ trang, khi thời cơ đến ta đã đủ lực lượng mạnh
đứng lên quật ngã kẻ thù giành độc lập cho dân tộc.
Trong kháng chiến chống Pháp, Người cùng với Trung ương Đảng
quyết định mở chiến dịch quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ trên miền
Tây Bắc, đánh bại ý chí xâm lược của đối phương, giải phóng miền Bắc.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Người và Đảng ta chủ trương: Chống
rèm cho nó ra, thực hiện vừa đánh vừa đàm; đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào, thống nhất Tổ quốc.
Ý4 - Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng quân đội có chất lượng
cao, vững mạnh tồn diện, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng; vững
mạnh về quân sự tác chiến và vững mạnh về hậu cần.
Người chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân,
trong đó đặc biệt chú ý qn đội chính quy (qn chủ lực). Người coi trọng
vai trò của đội ngũ cán bộ. Người chỉ rõ: Muôn việc thành công hoặc thất bại
đều do cán bộ tốt hoặc kém. Cán bộ là: Gốc của mọi cơng việc. Vì vậy, huấn
luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng.
Truyền thống quân sự dân tộc là nguồn gốc đầu tiên mà Hồ Chí Minh
đã tiếp thu, đón nhận và phát triển.
2. Tiếp thu tinh hoa qn sự thế giới
- Hồ Chí Minh có phương pháp khoa học trong việc nghiên cứu tư
tưởng quân sự từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, khảo sát kinh nghiệm xây
dựng lực lượng vũ trang của nhiều nước, chắt lọc những nội dung tích cực và
phù hợp để phục vụ cho mục đích xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh
vũ trang của dân tộc mình.
Ngay khi còn nhỏ, Người đã tiếp thu Nho học; tiếp cận với văn hóa
phương Tây qua trường học Việt - Pháp, trước hết là tư tưởng tự do, bình
đẳng, bác ái; đây là một trong những nguyên nhân thúc đẩy Người sang Pháp
năm 1911.
10
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đi khắp các châu lục, sinh
sống và hoạt động tại những trung tâm văn minh đương thời ở phương Tây. Tại
Pari, thủ đơ nước Cộng hịa Pháp, Người nghiên cứu nhiều vấn đề quân sự của
cách mạng tư sản Pháp, của Công xã Pari và quân đội nước Pháp lúc đó. Đối
với vấn đề quân sự trong cách mạng tư sản Pháp, Người ca ngợi tấm gương
anh hùng chiến đấu của quần chúng lao động. Về sau, trong tác phẩm Đường
cách mệnh (1927), Người đã viết: Dân Pháp tuy lương thực ít, súng ống nhiều,
nhung chỉ nhờ gan kách mệnh mà trong dẹp nổi loạn, ngồi phá cường quyền.
Hồi ấy lính kách mệnh gọi là “lính khơng quần”, người khơng có nón, kẻ
khơng có giày, áo rách quần tua, mặt gầy bụng đói. Thế mà lính ấy đi đến đâu,
thì lính ngoại quốc thua đến đấy, vì họ liều gan hy sinh q, khơng ai chống
nổi. Người cịn nghiên cứu về nhiều danh tướng của nước Pháp, nước Anh và
Người đề cập trong nhiều bài viết. Về danh tướng Na-pô-nê-ông của nước
Pháp, năm 1923, Người đã viết: Năm 1892, Nã Phá Luân vừa là người thắng
trận, vừa là kẻ bại trận. Thắng trận vì Nã Phá Luân đã chiếm được nhiều
thành phố, bại trận vì nhân dân Mạc Tư Khoa đã quyết tâm hy sinh tất cả, tự
tay đốt cháy thành phố, lửa đã đuổi Nã Phá Luân, rét, đói và quân du kích đã
tiêu diệt đại quân Nã Phá Luân. Về sau, Người cịn nhắc lại điều đó trên báo
Cứu quốc, rằng: Nã Phá Luân đem quân tiến vào nước Nga bị thua liểng xiểng,
do khơng túc trí, gây chiến tranh xâm lược nên thất bại. Tuy nhiên, Na-pô-nêông là danh tướng có nét riêng với đặc điểm đánh mạnh như vũ bão, nhanh như
chớp nhoáng. Người viết: Trong chiến lược của Nã Phá Luân có nói: rút một
ngày (mười hai giờ) thành mười giờ để mà tiến quân và tác chiến sau sẽ nghỉ
ngơi. Khi đề cập đến yếu tố này, Người đồng thời nhắc nhở đến chiến lược của
thủy sư đô đốc người Anh: Một danh tướng về hải qn là Nen-xon (Nelson)
cũng nói: giờ phút là đồng chí yêu quý. Ta nên quý trọng người đồng chí ấy
hơn những đồng chí khác. Từ đó, Người lưu ý qn ta về yếu tố thời gian trong
tác chiến, mối quan hệ giữa yếu tố đó với cơ mưu, phải vừa nhanh vừa có mưu
mới giành được thắng lợi.
11
Khi nghiên cứu công xã Pari, Người đã chú ý tới những tổng kết của
các nhà kinh điển Mác - Lênin phê phán những hạn chế dẫn đến thất bại.
Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Người đã nói đến nguyên nhân thất bại là
do thợ thuyền còn non nớt - chưa có một chính đảng cách mạng lãnh đạo - và
khơng đồn kết, liên minh được với nơng dân, mà chỉ một mình đơn thương
độc mã. Người cịn nói đến giai cấp tư sản Pháp không được giai cấp tư sản
Đức giúp sức nên đã thất bại. Từ những kinh nghiệm này, Hồ Chí Minh đã
vận dụng sáng tạo vào xây dựng và phát triển nền quân sự Việt Nam.
Hoạt động ở Nga, tiếp thu Cách mạng tháng Mười Nga, Người nghiên
cứu về Hồng quân Xô viết và sử dụng vào thời điểm thích hợp, tức là lúc
chúng ta đương tổ chức quân đội quốc gia.
Người chỉ ra rằng, trải qua 15 năm kiến thiết trước chiến tranh thế giới
lần thứ hai, Hồng quân Xô viết đã là một đội quân có tổ chức chặt chẽ, huấn
luyện chu đáo, vũ khí tối tân. Đội qn đó trong những năm 1938 - 1939 đã
đánh bại phát xít Đức đã từng xưng hùng, xưng bá ở châu Âu khiến phát xít
Đức phải thất bại.
Người rút ra bốn ưu điểm của Hồng quân mà ta cần học tập.
Thứ nhất, Hồng quân Xô viết biết phép chiến đấu. Người nói đây là ưu
điểm rất quan trọng. Nếu chỉ dựa vào vũ khí tối tân và binh lực mà khơng biết
phép chiến đấu thì khơng thắng nổi đối phương.
Thứ hai, Hồng quân Xô viết được hưởng một nền văn hóa giáo dục tốt
đẹp. Nhờ đó, các binh sĩ Xô viết, từ các chiến sĩ bộ binh đến các chiến sĩ ở
các binh chủng kỹ thuật như pháo thủ, xe tăng, lái máy bay đều am hiểu kỹ
thuật, chiến thuật, làm chủ vũ khí, phương tiện chiến đấu. Các công việc giáo
dục đều nhằm nâng cao tinh thần binh sĩ khiến cho họ phát huy được tài năng,
do đó mà lập được chiến cơng oanh liệt.
Thứ ba, Hồng qn Xơ viết là đội qn có mối quan hệ đặc biệt giữa
quân và dân. Trong Hồng quân, tướng lĩnh và binh sĩ đều là những con em
của thợ thuyền, dân cày và trí thức. Do nền tảng giai cấp trong xã hội Liên Xô
12
biến đổi nên quân đội với nhân dân cũng như anh em một nhà, có tinh thần
đồn kết cao. Nhân dân Liên Xô chẳng những hăng hái tham gia quân đội, mà
cịn tích cực ủng hộ, giúp đỡ qn đội.
Thứ tư, Hồng qn Xơ viết có những vị chỉ huy tối cao sáng suốt, đủ
đức - tài. Nhờ đó, Hồng qn Liên Xơ viết lập được nhiều chiến cơng, hồn
thành nhiệm vụ được giao.
Khi ở Liên Xơ, Hồ Chí Minh đã trực tiếp tham gia, nghiên cứu, học tập
kinh nghiệm của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Trong nhiều tác phẩm
của mình, Người đã nói đến việc cách mạng Việt Nam phải học tập những kinh
nghiệm này. Những bài học kinh nghiệm mà Hồ Chí Minh thường nhắc tới đó
là muốn cách mạng thành cơng phải có Đảng kách mệnh lãnh đạo, để trong thì
tổ chức và vận động dân chúng, ngồi thì liên hệ với vơ sản và dân tộc bị áp
bức mọi nơi; bài học cách mạng tháng Mười đã huy động được đại quần chúng,
công, nông, binh lính tham gia khởi nghĩa; cách mạng tháng Mười Nga còn là
mẫu mực về sử dụng bạo lực cách mạng với tư tưởng tiến cơng; hình mẫu về
nắm và sử dụng thời cơ cách mạng...
Tất cả những kinh nghiệm này được Hồ Chí Minh vận dụng trong cách
mạng tháng Tám năm 1945 và cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Những năm sống và hoạt động ở Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã nghiên
cứu, học tập nhiều kinh nghiệm từ cách mạng Trung Quốc, những quan điểm
chính trị, quân sự của Tôn Trung Sơn. Người rút ra những ưu điểm của quân
đội Trung Quốc, quân đội Quốc dân đảng. Người nói: Văn hóa của các dân
tộc khác cần phải nghiên cứu tồn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có
thể tiếp thu nhiều hơn cho chính mình.
Trong tác phẩm Nhật ký trong tù (1942 - 1943) ở những trang cuối
cùng, Mục đọc sách Người viết: Những hiểu biết cơ bản về quân sự bao gồm
các vấn đề xây dựng quân đội chính quy như: Tổ chức biên chế, chỉ huy, kỷ
luật, sinh hoạt, huấn luyện quân sự, giáo dục tư tưởng. Qn đội chính quy
có tổ chức từ tiểu đội đến sư đồn, qn đồn, có kỷ luật nghiêm minh, được
13
chuẩn bị về lương thực, vũ khí, thơng tin liên lạc và về thể lực. Quân đội ấy
phải có động tác nhanh chóng, mệnh lệnh đơn giản, rõ ràng, thiết thực,
hành động nhất trí, chính xác; thời chiến bình tĩnh như thời bình, thời bình
khẩn trương và chịu đựng gian khổ như thời chiến. Quân đội ấy phải xây
dựng toàn diện, có phẩm chất trong sạch, đáng kính, có khả năng cơ động,
tích cực, bí mật; nội bộ đồn kết, cán bộ trung thực. Trong quân đội ấy,
người chỉ huy phải đích thân làm đến cùng mọi việc, phải nỗ lực phấn đấu
hồn thành chức trách, đồng thời nhanh chóng khắc phục các thiếu sót trong
cơng việc; đầu nghĩ, miệng nói, mắt nhìn, tay làm, chân đến, khơng sợ khó,
càng vất vả càng hăng hái, quyết tâm. Quân đội ấy phải có hậu phương vững
chắc, ở đó, một người làm việc bằng cả hai người; một ngày làm công bằng
cả hai ngày, một vật dùng bằng hai vật. Quân đội ấy liên hiệp sự đồng tình
lâu dài của thế giới với quốc gia dân tộc, đấu tranh cho hịa bình và chính
nghĩa chung trên thế giới.
Những hiểu biết cơ bản ấy được tích lũy khi Người được đọc một số tài
liệu quân sự Trung Quốc, bổ sung thêm cho vốn hiểu biết của Người về xây
dựng quân đội, giúp ích cho việc tổ chức và xây dựng quân đội ta sau đó.
Y3-Hồ Chí Minh cịn quan tâm nghiên cứu, chắt lọc những giá trị trong di sản
quân sự phương Đông cổ đại. Trong Hồ Chí Minh tồn tập, Người nhắc
khoảng 100 lần các luận điểm, cách ngôn của Khổng Mạnh và có luận điểm
như Tiên thiên hạ…. ưu, hậu thiên hạ.. lạc (lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ)
được nhắc tới 14 lần.
Người đã hai lần dịch và giới thiệu nhiều luận điểm quân sự trong
Binh pháp Tôn Tử với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta. Lần thứ nhất, năm
1943, Người biên dịch xong Phép dùng binh của ông Tôn Tử; xuất bản tháng
2 năm 1945. Lần thứ hai, trong hoàn cảnh đặc biệt, thực dân Pháp gây hấn ở
Nam Bộ và lăm le cướp nước ta một lần nữa, Người viết một loạt bài với bút
danh Q.T và Q.TH, lược thuật Binh pháp Tôn Tử đăng trên báo Cứu quốc, từ
ngày 17 tháng 5 đến ngày 8 tháng 11 năm 1946. Người nêu rõ rằng: Ông Tôn
14
Tử là một người quân sự có tiếng nhất ở Trung Quốc. Ông sinh hơn 2.000
năm trước. Ngày nay chẳng còn những trường học Trung Quốc mà những
trường học quân sự các nước cũng lấy phép dùng binh của ông làm gốc và ra
sức nghiên cứu. Vì phép dùng binh Tôn Tử tuy đã lâu đời, nhưng những
nguyên tắc đến nay vẫn là rất đúng. Nguyên tắc dùng binh của Tôn Tử chẳng
những đúng về quân sự, mà đem dùng về chính trị cũng rất hay. Ngồi ra, giá
trị to lớn của Binh pháp Tơn Tử cịn là ở chỗ, một mặt, đã nêu được những
quy luật tổng quát của chiến tranh, mặt khác, là sự khái quát kinh nghiệm của
chiến tranh tranh bá, đồ vương thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Chính nội dung
thứ nhất làm cho tác phẩm sống mãi với thời gian; nhiều câu nói của Tơn Tử
có giá trị trong chỉ đạo chiến lược cũng như chiến thuật.
Tuy nhiên, đối với bộ binh pháp này, Người có một thái độ tiếp thu rất
khoa học, khơng đơn giản sao chép và vận dụng một cách giáo điều. Trong
các bài viết, bài nói về quân sự, Người thường sử dụng các mệnh đề: Biết
mình, biết người, Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, Thế, Lực, Thời, vv... cũng như
các nguyên lý: Tiên tri, kế hoạch, chủ động..., sao cho phù hợp với truyền
thống quân sự của dân tộc và điều kiện, hoàn cảnh của cách mạng nước ta
trong từng thời điểm lịch sử cụ thể. Người đã gần chục lần nhắc đến mệnh đề
“biết mình, biết giặc, trăm trận trăm thắng” vốn là mệnh đề nổi tiếng nằm
trong nguyên lý “Phải biết xét đoán trước” (“Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bất đãi”
nghĩa là “biết mình biết người, trăm trận không nguy”) của Binh pháp Tôn
Tử. Chương Nguyên tắc của cách đánh du kích trong tác phẩm Cách đánh du
kích (1941),
Người đã nêu nhiều vấn đề cơ bản về nghệ thuật quân sự của chiến
tranh giải phóng dân tộc như:
Bốn nguyên tắc chính (giữ quyền chủ động, hết sức nhanh chóng, bao
giờ cũng giữ thế cơng, phải có kế hoạch thích hợp và chu đáo) và bốn mưu
mẹo lớn (tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, náo phía đơng, đánh phía tây; tránh
trận gay go, khơng sống chết giữ đất; hóa chỉnh vi linh, hóa linh vi chỉnh;
15
mình yên đánh quân thù động, mình khỏe đánh quân thù mệt). Những nguyên
tắc chỉ đạo đó thể hiện sự vận dụng tài tình và rất sáng tạo những nguyên tắc
tác chiến mà Tôn Tử luận trong các thiên Phép chiến tranh, Đánh bằng mưu,
Quân hình. Câu thơ Mình dĩ dật đãi lao (lấy quân nhàn hạ chống quân mệt
mỏi) trong Bài ca du kích mà Người viết năm 1942 ta liên hệ đến câu Lấy gần
đợi xa, lấy no đợi đói” trong thiên Quân tranh.
Trong thời gian này, trước nhu cầu đào tạo cán bộ quân sự, Hồ Chí
Minh đã biên dịch cuốn Phép thuật làm tướng của Gia Cát Khổng Minh và
Người đặt đầu đề hoàn toàn mới là Cách huấn luyện cán bộ quân sự của
Khổng Minh.
Vận dụng tư tưởng của Khổng Minh, Người nêu năm điều hay, bốn
điều phải của người làm tướng.
Năm điều hay là: 1. Phải biết rõ tình hình địch. 2. Phải biết rõ cách tiến
thối. 3. Phải biết rõ tình hình trong nước. 4. Phải biết rõ khí hậu và tâm lý
của người. 5. Phải biết rõ núi sông.
Bốn điều phải là: a. Đánh khôn khéo. b. Mưu phải mật. c. Quân đội
phải chấn chỉnh. d. Lịng người phải nhất trí.
Về cách ăn ở, người tướng phải là: Bộ đội chưa có nước thì tướng chưa
uống. Bộ đội chưa có cơm ăn thì tướng chưa ăn. Bộ đội chưa có lửa thì tướng
chưa phàn nàn rét. Nắng chí che quạt, mưa chí che dù để đồng cam cộng khổ
với bộ đội.
Vận dụng những nội dung thích hợp trong Phép thuật làm tướng của
Khổng Minh, Người nhắc nhở cán bộ: Từ tiểu đội trưởng trở lên, từ tổng tư
lệnh trở xuống phải săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của đội viên, phải
xem đội viên ăn uống như thế nào, phải hiểu nguyện vọng và thắc mắc của
đội viên. Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ khơng được kêu mình đói. Bộ đội chưa
đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ
khơng được kêu mình mệt. Thế mới là dân chủ, là đoàn kết, là tất thắng.
16
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và chắt lọc những yếu tố tích cực tinh hoa
quân sự của thế giới, từ phương Đơng đến phương Tây, vận dụng nó để phục
vụ cho việc xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang ở nước ta.
3.1 Kế thừa và phát triển học thuyết quân sự chủ nghĩa Mác Lênin
Thứ nhất, Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã
xác định con đường giải phóng dân tộc Việt Nam, đồng thời tiếp thu học
thuyết quân sự Mác - Lênin để giải quyết các vấn đề quân sự của cách
mạng Việt Nam.
Người nói, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, trước hết phải nắm cái cốt lõi
nhất, nắm linh hồn sống tức là học tập lập trường, quan điểm, phương pháp
chủ nghĩa Mác Lênin để áp dụng, giải quyết tốt những vấn đề của cách mạng .
Người tiếp thu học thuyết quân sự Mác - Lênin và vận dụng phù hợp với đặc
điểm và điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng bao trùm Đường Cách mệnh (1927), Chính cương vắn tắt
và các văn kiện khác do Người soạn thảo là thực hiện ở Việt Nam một cuộc
cách mạng đến nơi, đi từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Mục tiêu cách mạng đó cũng là mục tiêu của khởi nghĩa vũ trang và
chiến tranh cách mạng, gắn cứu nước với cứu dân, giải phóng Tổ quốc và
xây dựng chế độ mới tốt đẹp, thực sự đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân.
Từ việc khẳng định mục tiêu cách mạng, khi thành lập lực lượng vũ
trang, nòng cốt là quân đội nhân dân, Người khẳng định mục tiêu chiến đấu là
thực hiện mục tiêu cách mạng do Đảng xác định. Đó là bước nhảy vọt về chất
lý tưởng chiến đấu, vì rằng trong lịch sử dân tộc, lực lượng vũ trang đã cùng
nhân dân đánh thắng nhiều kẻ thù to lớn, để bảo vệ Tổ quốc. Người tiếp thu và
vận dụng tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác để xác định mục
tiêu cách mạng Việt Nam. Người khẳng định mục tiêu khởi nghĩa vũ trang,
chiến tranh cách mạng và lý tưởng chiến đấu của quân đội.
17
Thứ hai, Hồ Chí Minh vận dụng phương pháp làm việc biện chứng
của học thuyết quân sự Mác - Lênin để giải quyết lĩnh vực quân sự cách
mạng Việt Nam.
Người nói: Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc
biện chứng. Người đã nắm chìa khóa vàng đó, tức phép biện chứng duy vật
Mác - Lênin để giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực quân sự. Coi những
nguyên lý và phép biện chứng trong triết học quân sự Mác - Lênin là cẩm
nang giúp Người giải quyết chuyển hóa tương quan lực lượng ta - địch
trong khởi nghĩa và chiến tranh. Người thực hiện thành công chỉ dẫn của
Ph.Ăngghen về một dân tộc nhỏ, để chiến thắng một dân tộc lớn , một quân
đội yếu đương đầu thắng lợi với một quân đội mạnh để giành độc lập dân
tộc thì nhất thiết khơng được giới hạn trong những phương thức tiến hành
chiến tranh thông thường, mà phải khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách
mạng, các đội du kích mọc lên ở khắp nơi. Người chủ trương xây dựng lực
lượng vũ trang ba thứ quân để chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang. Tác phẩm
Con đường giải phóng và Chiến thuật du kích của Người đã quán triệt sâu
sắc quan điểm này.
- Tiếp thu lý luận quân sự Mác - Lênin, Người xác định chính xác
phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang ở một nước thuộc địa; định ra
trọng điểm, trọng tâm mỗi thời kỳ để thực hiện.
Vấn đề mấu chốt trong xây dựng lực lượng vũ trang là phải xây dựng
lực lượng chính trị trước, trên cơ sở đó mà xây dựng lực lượng vũ trang với
quy mơ thích hợp; đi từ thấp lên cao; dựa vào dân để phát triển nguồn lực,
trang bị vũ khí; được dân tin, dân phục, dân yêu và giúp đỡ, thấy hết các nhân
tố đó là chìa khóa của mọi thắng lợi. Chủ nghĩa Mác - Lênin còn giúp Người
nhận thức quy luật vận động và phát triển trong đấu tranh vũ trang.
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ cho giai cấp cơng nhân con đường đúng
đắn để tự giải phóng là con đường cách mạng bạo lực. Khẩu hiệu chiến đấu
mà hai ông đưa ra là vũ trang cho giai cấp công nhân. Trong điều kiện mới
18
của lịch sử, V.I.Lênin đã nêu lên sự cần thiết phải xây dựng quân đội thường
trực kiểu mới của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mới cả về lý luận
thực tiễn.
Với năng lực sáng tạo phi thường, V.I. Lênin đã giải quyết thành công
một loạt vấn đề then chốt về xây dựng Hồng quân như xác định bản chất cách
mạng, chức năng nhiệm vụ của Hồng quân, đề ra các nguyên tắc xây dựng
Hồng quân về chính trị, quân sự và các mặt xây dựng về vật chất, kỹ thuật.
V.I. Lênin coi công tác đảng, công tác chính trị là một trong những cơ sở
khơng gì lay chuyển được của việc xây dựng Hồng quân, là phương thức quan
trọng nhất để thực hiện đường lối chính sách của Đảng, đảm bảo giành thắng
lợi trong xây dựng quân đội kiểu mới của học thuyết quân sự Mác - Lênin.
- Người đặc biệt quan tâm vấn đề mấu chốt, tức nguyên lý xây dựng và
không ngừng bồi dưỡng bản chất giai cấp công nhân; thực hiện nguyên tắc
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp toàn diện quân đội. Người chú trọng tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, coi trọng cơng tác giáo dục tư tưởng vơ sản, coi
đó là biện pháp chủ yếu để tăng cường bản chất cách mạng của lực lượng vũ
trang. Có thời điểm trước tình thế hiểm nghèo (1945 - 1946), Hồ Chí Minh chủ
trương nhường cho các đảng phái khác một số ghế trong Quốc hội và Chính
phủ, nhưng quyền lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang là tuyệt đối,
không san sẻ cho bất kỳ ai. Đó là sự quán triệt nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân
đội trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện mà V.I. Lênin đã nhấn mạnh.
- Đối với nguyên lý về khởi nghĩa vũ trang trong học thuyết quân sự
Mác - Lênin, Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc và vận dụng một cách tài tình, sáng
tạo. Ngay trong những năm 1924 - 1926, Người đã nghiên cứu sâu sắc vấn đề
này. Điều mà Người đặc biệt lưu ý là kết luận của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.
Lênin về bạo lực là quy luật phổ biến của cách mạng và nó có thể diễn ra
bằng khởi nghĩa vũ trang, bằng chiến tranh cách mạng hoặc kết hợp giữa các
hình thức đó; lưu ý đến những quy tắc và nghệ thuật khởi nghĩa được trình
bày trong các tác phẩm dưới dạng khái quát sâu sắc. Người còn quan tâm
19